Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

vai trò tổ chức công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 128 trang )


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




V XUN KIM



VAI TRò CủA Tổ CHứC CÔNG ĐOàN TRONG BảO Vệ QUYềN
CủA NGƯờI LAO ĐộNG ở VIệT NAM HIệN NAY

Chuyờn ngnh: Phỏp lut v quyn con ngi
Mó s: Chuyờn ngnh o to thớ im



LUN VN THC S LUT HC



Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. Lấ TH HOI THU




H NI - 2014

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Vũ Xuân Kiểm



MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN VÀ
VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC

BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG 7
1.1. Khái quát chung về tổ chức công đoàn 7
1.1.1. Vị trí 7
1.1.2. Chức năng 10
1.1.3. Hệ thống tổ chức công đoàn 16
1.2. Vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi của
người lao động 21
1.2.1. Khái niệm vai trò của công đoàn 21
1.2.2. Nội dung vai trò của công đoàn 24
1.3. Sự cần thiết có sự tham gia của tổ chức công đoàn trong bảo
vệ quyền của người lao động 29
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG
ĐOÀN TRONG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 33
2.1. Thực trạng các qui định pháp luật về vai trò của tổ chức công
đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động ở Việt Nam hiện nay 33
2.1.1. Trong lĩnh vực kiểm tra, giám sát việc thi hành các qui định của
pháp luật lao động 33
2.1.2. Trong lĩnh vực giải quyết việc làm và đảm bảo việc làm 37
2.1.3. Trong lĩnh vực thương lượng, ký kết Thỏa ước lao động tập thể 40
2.1.4. Trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động 43
2.1.5. Trong lĩnh vực đảm bảo điều kiện lao động 49
2.1.6. Trong lĩnh vực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người
lao động 58
2.1.7. Trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp lao động 62
2.1.8. Trong lĩnh vực đình công và giải quyết các cuộc đình công. 69
2.1.9. Vai trò của Công đoàn trong cơ chế ba bên 74
2.2. Một số nhận xét về vai trò của tổ chức Công đoàn trong bảo
vệ quyền của người lao động ở Việt Nam hiện nay 78
2.2.1. Ưu điểm 78

2.2.2. Hạn chế 82
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG
BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY 90
3.1. Những yêu cầu đặt ra cho tổ chức công đoàn trong việc bảo
vệ quyền của người lao động ở Việt Nam hiện nay 90
3.1.1. Công đoàn phải thực sự thực hiện tốt chức năng bảo vệ người
lao động 90
3.1.2. Công đoàn phải làm tốt vai trò bảo vệ người lao động nhưng
không cản trở doanh nghiệp 91
3.1.3. Công đoàn phải đủ mạnh để tham gia quan hệ với công đoàn
quốc tế 91
3.1.4. Tăng cường hoạt động của công đoàn ở khu vực ngoài Nhà nước 93
3.2. Một số kiến nghị 94
3.2.1. Về các qui định của pháp luật 98
3.2.2. Về việc tổ chức thực hiện 104
KẾT LUẬN 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO 116

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ATLĐ – VSLĐ: An toàn lao động – Vệ sinh lao động
CNVCLĐ: Công nhân viên chức lao động
DN: Doanh nghiệp
NLĐ: Người lao động
NSDLĐ: Người sử dụng lao động
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
TLĐLĐ: Tổng Liên đoàn Lao động
TƯ: Trung ương

XHCN: Xã hội chủ nghĩa
XHCN: Xã hội chủ nghĩa




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ thế kỷ XV chủ nghĩa tư bản đã nảy sinh ngay trong lòng chế độ
phong kiến các nước Tây Âu nhưng còn ở mức độ công trường thủ công. Đến
thập kỷ 80 của thế kỷ XVIII (thời kỳ châu Âu phục hưng), hàng loạt những
phát minh máy móc ra đời. Giai cấp tư sản Anh đã tận dụng triệt để những
thành quả này để thực hiện khát vọng lợi nhuận của mình. Chủ tư bản đầu tư
máy móc, công xưởng, nhà máy, chuyển nền sản xuất nhỏ lao động công
trường thủ công sang sản xuất lớn bằng máy móc công nghiệp. Người ta đã
lấy năm 1764 (1764 Giêm Hagrivơ sáng chế ra sa máy, xe 12 sợi; 1784 Giêm
Óat phát minh máy hơi nước; 1785 Ét Man Cacrai phát minh ra máy dệt) là
năm mở đầu cho cuộc cách mạng công nghiệp của nước Anh và là cuộc cách
mạng công nghiệp đầu tiên của nhân loại. Cách mạng công nghiệp là hiện
tượng phổ biến của nhiều nước trên thế giới nhưng ở nước Anh sớm hơn
khoảng 50 đến 100 năm. Nền công nghiệp lớn hình thành tạo ra nhiều sản
phẩm xã hội, giai cấp tư sản ngày càng tích lũy được số tư bản khổng lồ, nắm
vận mệnh xã hội. Ngược lại giai cấp vô sản ngày càng lâm vào tình cảnh lầm
than, áp bức bóc lột. Mâu thuẫn giữa hai giai cấp tư sản và vô sản ngày càng
trở nên sâu sắc.
Đã có nhiều cuộc đấu tranh đòi quyền lợi từ thấp đến cao, từ đơn lẻ tự
phát đến đoàn kết, liên minh, tập hợp, có tổ chức. Đó là cơ sở thực tiễn hình
thành tổ chức công đoàn đầu tiên trên thế giới (1776) tại nước Anh. Từ đó

phong trào công đoàn đã phát triển ra các khu vực trên phạm vi toàn thế giới.
Có thể nói công đoàn là thực thể khách quan tất yếu trong xã hội công nghiệp.
Người Việt Nam đầu tiên gia nhập công đoàn là đồng chí Nguyễn Ái Quốc,
Người gia nhập Công đoàn Kim khí, Quận 17 Pari - Pháp năm 1919.


2
Ở Việt Nam năm 1921, đồng chí Tôn Đức Thắng bắt tay vào cuộc vận
động thành lập Công hội Ba Son. Mục đích của hội là: Đấu tranh bênh vực
quyền lợi của công nhân, đấu tranh chống đế quốc tư bản. Công hội đỏ đã trở
thành linh hồn của phong trào bãi công của công nhân Ba Son, Sài Gòn - Chợ
Lớn vào những năm 1920 - 1925, mà điển hình là cuộc bãi công của công
nhân Ba Son tháng 8 năm 1925. Cuộc bãi công này ủng hộ cuộc đấu tranh của
công nhân Thượng Hải, Trung Quốc. Vì thế đây là cuộc đấu tranh đầu tiên
của công nhân ta mang tính chính trị quốc tế. Công hội Ba Son cũng là tổ
chức công đoàn sơ khai đầu tiên ở Việt Nam.
Trải qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam đã
cùng nhân dân cả nước viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc. Trong
quá trình đổi mới đất nước, công đoàn tiếp tục tập hợp, đoàn kết CNVCLĐ
vượt qua nhiều khó khăn, thách thức; tích cực đổi mới nội dung và phương
pháp hoạt động, thực hiện ngày càng tốt hơn những chức năng cơ bản của
mình, góp phần xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn lớn mạnh.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xu hướng chuyển dịch cơ cấu và sắp xếp,
phân công lại lao động đang diễn ra mạnh mẽ, phù hợp tiến trình đổi mới nền
kinh tế đất nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và lực lượng
lao động, tạo ra nhiều việc làm, thu nhập cho NLĐ; quan hệ lao động trong
DN đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Nhiều DN đã phối hợp với
CĐCS xây dựng được quan hệ lao động lành mạnh, tiến bộ. Tuy nhiên, ở một

số DN đã phát sinh những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. Nhiều vụ tranh chấp
lao động đã xảy ra, dẫn đến tình trạng ngừng việc tập thể, đình công của
NLĐ, mà nguyên nhân phần lớn bắt nguồn từ “hoạt động kém hiệu quả của tổ
chức công đoàn”. Điều này gây tổn hại cho NLĐ, làm thiệt hại kinh tế cho
DN, ảnh hưởng tới tình hình phát triển kinh tế chung của đất nước.


3
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, trong quá trình đổi mới, hoạt động
công đoàn đã được đề cập, nhưng chưa được đầu tư nghiên cứu thoả đáng.
Trong khi đó, nhiều loại hình DN ra đời, quan hệ lao động trong các DN ngày
càng trở nên phức tạp. Vấn đề bức thiết đặt ra cho các cấp Công đoàn là phải
làm sao vừa bảo vệ được quyền lợi của NLĐ, góp phần cải thiện quan hệ lao
động trong các DN, vừa giúp cho DN phát triển. Việt Nam chưa có kinh
nghiệm trong việc tham gia điều chỉnh mối quan hệ lao động trong các loại
hình DN trong nền kinh tế thị trường. Do đó, cán bộ công đoàn còn lúng túng
khi nội bộ DN phát sinh các mâu thuẫn về quyền và lợi ích giữa NLĐ và
NSDLĐ. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài là hết sức cần thiết. Chính vì lẽ đó, tôi
mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Vai trò của tổ chức công đoàn trong bảo vệ
quyền của người lao động ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Xây dựng tổ chức công đoàn và nâng cao hiệu quả hoạt động CĐCS
trong các DN là vấn đề luôn được Đảng, Nhà nước và các cấp công đoàn quan
tâm. Thời gian qua, công tác này đã có những chuyển biến nhất định, tuy đây
không phải là một vấn đề mới nhưng đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu
sắc nhằm làm rõ hơn cả về lý luận và thực tiễn. Để đáp ứng yêu cầu đó, đã có
một số tài liệu đề cập đến vấn đề này như: Đỗ Thị Thào (2007), Vai trò của
CĐCS trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ trong các DN ở Việt Nam,
Khóa luận tốt nghiệp; Vũ Thị Thu (2001), Vị trí pháp lý của công đoàn trong

giải quyết tranh chấp lao động, Khóa luận tốt nghiệp; Nguyễn Thị Phương
Thúy (2009), Vai trò của công đoàn trong giải quyết tranh chấp lao động và
đình công, Luận văn thạc sĩ Luật học; Nguyễn Thị Thái Thuận (2005), Giải
quyết tranh chấp lao động và vấn đề nâng cao vị trí của tổ chức công đoàn
trong giải quyết tranh chấp lao động, Luận văn Thạc sỹ Luật học.


4
Ngoài ra, đã có một số bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý
chuyên ngành như Nguyễn Hữu Chí (2001), Vai trò của công đoàn trong cơ
chế ba bên và trong việc giải quyết tranh chấp lao động, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật; Dương Văn Sao (2003), Nâng cao hiệu quả hoạt động của công
đoàn trong các DN có vốn đầu tư nước ngoài, Tạp chí Lao động và Công
đoàn; Nguyễn Thanh Tuấn (2006), Bảo vệ NLĐ ở Liên bang Nga – Bộ luật
lao động và vai trò của công đoàn, Tạp chí lao động và Công đoàn; Lê Thị
Hoài Thu (2009), Cơ chế ba bên và vai trò của công đoàn, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp; hay “Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động Công đoàn khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh” của Ban Tổ chức Tổng liên đoàn Lao động
Việt Nam, xuất bản năm 1997; đề tài “Tổ chức và hoạt động Công đoàn trong
công ty cổ phần” do Trường Đại học Công đoàn nghiên cứu, năm 2001.
Các công trình nghiên cứu trên mới chỉ mang tính chất gợi mở hoặc đi
sâu nghiên cứu một số khía cạnh, lĩnh vực cụ thể của Luật Lao động và Luật
Công đoàn cũ chưa đi vào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ
thống vấn đề vai trò của tổ chức công đoàn trong bảo về quyền của NLĐ ở
Việt Nam hiện nay tập trung dưới góc độ nhân quyền – một vấn đề có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu:
Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của tổ
chức Công đoàn Việt Nam, luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao

vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ
phù hợp với mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu vấn đề khái quát chung về vị trí, chức năng, vai trò và hệ
thống tổ chức của công đoàn Việt Nam.


5
+ Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận, thực tiễn về
vai trò của tổ chức công đoàn.
+ Đánh giá những ưu nhược điểm về thực tiễn việc thực hiện các quyền
thể hiện vai trò của tổ chức công đoàn.
+ Trên cơ sở nghiên cứu các qui định của pháp luật quốc tế và pháp
luật Việt Nam liên quan đến tổ chức công đoàn; việc bảo vệ quyền lợi của
NLĐ; trách nhiệm của chủ thể sử dụng lao động, tác giả sẽ tập chung nghiên
cứu những khó khăn gặp phải khi thực thi các điều khoản pháp luật qui định
về hoạt động của tổ chức công đoàn, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng
cao vai trò tổ chức công đoàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn về quyền của tổ chức công đoàn, qui định của pháp luật về
quyền của tổ chức công đoàn và thực tiễn áp dụng các qui định để đưa ra
những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các quyền của tổ chức
công đoàn trong quan hệ lao động, từ đó nâng cao được vị thế, vai trò của tổ
chức công đoàn trong đời sống xã hội góp phần bảo vệ tốt quyền của NLĐ.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Từ năm 1990 (thời điểm ban hành Luật Công đoàn
1990); tuy nhiên đề tài sẽ tập trung nghiên cứu luật sửa đổi 2012.
+ Về địa bàn: Các tổ chức công đoàn của Việt Nam
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các tư tưởng, quan điểm
mang tính nguyên tắc của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền; các qui định
của Hiến pháp, Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn… cũng như các tư tưởng,
quan điểm về luật học tiến bộ, hiện đại trên thế giới liên quan đến công đoàn
được sử dụng làm cơ sở pháp lý cho quá trình nghiên cứu luận văn.


6
Phương pháp luận được sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra
trong luận văn là: phương pháp biện chứng, phương pháp lịch sử, phương
pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và phương pháp
mô hình hóa.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của Luận văn
Nếu được khẳng định và áp dụng vào thực tiễn kết quả nghiên cứu luận
văn sẽ góp phần nâng cao vị thế, củng cố hơn nữa vai trò của tổ chức công
đoàn Việt Nam góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng của NLĐ, thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế chung của cả nước, đảm bảo ổn định chính trị.
Các kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học và phần
nào có ý nghĩa đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực công đoàn
ở Việt Nam.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn này gồm phần mở đầu, ba chương và phần kết luận.
Chương 1: Khái quát chung về tổ chức công đoàn và vai trò của tổ
chức Công đoàn trong việc bảo vệ quyền của người lao động.
Chương 2: Thực trạng vai trò của tổ chức công đoàn trong bảo vệ
quyền của người lao động ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
vai trò của tổ chức công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động ở

Việt Nam hiện nay.







7
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN
VÀ VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC
BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG

1.1. Khái quát chung về tổ chức công đoàn
1.1.1. Vị trí
Sự ra đời và phát triển của tổ chức công đoàn gắn liền với sự hình
thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Công đoàn
ra đời khi giai cấp công nhân và những NLĐ ý thức được sức mạnh của tập
thể lao động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành
viên của mình.
Ở Việt Nam sự hình thành và ra đời của công đoàn gắn liền với sự hình
thành và phát triển của phong trào công nhân và cách mạng Việt Nam. Trải
qua những thời kỳ lịch sử công đoàn Việt Nam đã có những tên gọi khác
nhau, cụ thể: Tổ chức Công hội đỏ (1929 -1935); Hội công nhân phản đế
(1939 - 1941); Hội công nhân cứu quốc (1941 - 1946); Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam (1946 -1961); Tổng Công đoàn Việt Nam (1961 - 1988);
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (1988 – đến nay). Vị trí của công đoàn
Việt Nam đã được khẳng định tại Điều 10 Hiến pháp Việt Nam năm 1992:
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân

và của người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên
chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, tham gia kiểm tra giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người
lao động khác; xây dựng và bảo vệ tổ quốc.[56]


8
Điều 1 Luật Công đoàn Việt Nam năm 2012 cũng tái khẳng định:
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp
công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự
nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán
bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác
(sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên
truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ
năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. [50]
Như vậy, vị trí của công đoàn là địa vị của công đoàn với các tổ chức
khác của hệ thống tổ chức xã hội nói chung, tổ chức chính trị - xã hội nói
riêng và mối quan hệ của công đoàn với các tổ chức đó. Ngoài ra, trong Điều
lệ công đoàn Việt Nam 2003 còn nhấn mạnh:
TLĐLĐ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của
giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự
nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây

dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện
và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên
chủ nghĩa xã hội. [30]
Với vị trí như vậy, công đoàn vừa có tính quần chúng vừa có tính giai
cấp. Tính giai cấp của công đoàn biểu hiện ở: Tổ chức công đoàn Việt Nam


9
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hoạt động của công đoàn
Việt Nam nhằm xây dựng một xã hội mới không có người bóc lột người, thực
hiện dân chủ và công bằng xã hội. Tổ chức công đoàn Việt Nam hoạt động
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của giai cấp công nhân và
những NLĐ. Tổ chức và hoạt động của công đoàn Việt Nam được thực hiện
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đội ngũ cán bộ của công đoàn được xây
dựng theo đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc xác định
đúng tính chất giai cấp của giai cấp công nhân của tổ chức công đoàn có ý
nghĩa quan trọng để chúng ta hiểu rõ vị trí, vai trò của công đoàn Việt Nam
trong xã hội.
Tính quần chúng của công đoàn Việt Nam thể hiện: Công đoàn Việt
Nam kết hợp đông đảo công nhân, viên chức và lao động vào Tổ chức Công
đoàn, Cơ quan lãnh đạo của Công đoàn Việt Nam bao gồm những người được
quần chúng tín nhiệm, đại diện cho tiếng nói của công nhân, viên chức và lao
động. Cán bộ công đoàn xuất thân từ phong trào CNVCLĐ. Công đoàn là tổ
chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân, của NLĐ; công đoàn không chỉ
thu hút những người giác ngộ, tiên tiến, tích cực mà cả những người chậm
tiến, kém giác ngộ vào hàng ngũ của mình. Công đoàn không lựa chọn mà tập
hợp đông đảo rộng rãi quần chúng, CNVCLĐ.
Tính chất của công đoàn có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của Công đoàn Việt Nam. Hai tính chất của công đoàn có mối quan hệ

chặt chẽ với nhau. Nếu chỉ coi trọng tính chất giai cấp thì về mặt tổ chức sẽ bị
bó hẹp, thu mình lại và trên thực tế sẽ khó tồn tại đúng bản chất của tổ chức
công đoàn. Ngược lại, nếu chỉ coi trọng tính chất quần chúng sẽ dẫn đến xa
rời mục tiêu chính trị, biến thành phường, hội, sai lệch phương hướng hành
động cách mạng và không đúng với bản chất của công đoàn cách mạng.


10
1.1.2. Chức năng
Chức năng của tổ chức công đoàn là sự phân công tất yếu, là sự qui
định chức trách tương đối ổn định và hợp lý trong điều kiện lịch sử xã hội
nhất định của tổ chức công đoàn để phân biệt tổ chức công đoàn với các tổ
chức khác. Xác định đúng chức năng của Công đoàn Việt Nam có ý nghĩa lý
luận, thực tiễn và tư tưởng sâu sắc. Về mặt lý luận nó sẽ phản ánh được đầy
đủ và toàn diện bản chất của công đoàn. Về mặt thực tiễn, nó tránh được sự
trùng lặp, chồng chéo giữa công đoàn với Nhà nước và các đoàn thể, các tổ
chức chính trị - xã hội khác. Đồng thời, xác định đúng chức năng của công
đoàn còn có ý nghĩa tư tưởng là giải đáp những vướng mắc, phân vân của
quần chúng, củng cố lòng tin, đáp ứng nguyện vọng của công nhân, viên chức
và lao động, đồng thời đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc, bôi đen
chức năng của công đoàn cách mạng.
Về bản chất, chức năng của công đoàn mang tính khách quan, tồn tại
không phụ thuộc vào sự áp đặt từ bên ngoài hay ý chí, nguyện vọng chủ quan,
được xác định bởi tính chất, vị trí và vai trò của tổ chức công đoàn. Trên thực
tế, không nên nhận thức máy móc, cứng nhắc về chức năng của công đoàn.
Bởi vì, cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng của công đoàn cũng có sự
bổ sung và phát triển. Sự bổ sung, phát triển các chức năng của công đoàn
không có nghĩa là phủ định, từ bỏ những chức năng đã có mà thực chất là làm
phong phú thêm các chức năng; đồng thời tránh sa vào tư tưởng nóng vội, phủ
định một cách vô căn cứ những chức năng của công đoàn đã được thử thách

qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc và giai cấp công nhân Việt Nam.
Dưới chủ nghĩa tư bản, công đoàn tập hợp công nhân lao động đấu
tranh chống lại áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản để bảo vệ lợi ích của giai
cấp công nhân. Vì vậy, chức năng bảo vệ lợi ích công nhân lao động là chức
năng bẩm sinh của tổ chức công đoàn. Nghĩa là, để bảo vệ lợi ích của giai cấp


11
công nhân mà công đoàn được hình thành và khi công đoàn ra đời sẽ làm
chức năng đó. Nhưng để bảo vệ lợi ích công nhân, lao động công đoàn phải
tập hợp, vận động, giáo dục họ hiểu được nguồn gốc của sự đói nghèo, đau
khổ, hiểu được cách tiến hành đấu tranh để bảo vệ lợi ích của mình. Vì vậy,
giáo dục đã phát triển thành chức năng của công đoàn. Dưới chủ nghĩa tư bản,
công đoàn có chức năng bảo vệ lợi ích và chức năng giáo dục. Hai chức năng
này có mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau.
Chức năng của công đoàn Việt Nam trong thời kỳ quá độ xây dựng
chủ nghĩa xã hội khác hẳn về chất với việc bổ sung nhiều chức năng mới.
Sự khác nhau đó là do giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn có vị trí,
vai trò quan trọng trong hoàn cảnh lịch sử mới. Xuất phát từ tính chất của
công đoàn Việt Nam là tính giai cấp và tính quần chúng nên công đoàn
hiện nay có ba chức năng sau:
Một là, chức năng bảo vệ lợi ích CNVCLĐ
Với chức năng này, công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp chính đáng của NLĐ; có trách nhiệm tham gia với nhà nước phát triển sản
xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của NLĐ.
Do trình độ quản lý của bộ máy nhà nước còn non kém và những tàn
dư của xã hội cũ để lại ở thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, nên trong
giai đoạn này vẫn còn tồn tại những hiện tượng như quan liêu, độc đoán,
chuyên quyền, tham ô, lãng phí, coi thường và vi phạm đến quyền lợi của
CNVCLĐ. Do đó, công đoàn phải là người bảo vệ lợi ích của CNVCLĐ và

lợi ích của nhà nước trước những hiện tượng đó.
Công đoàn Việt Nam thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của NLĐ không bằng cách đấu tranh chống lại nhà nước, làm suy yếu
nhà nước, không mang tính đối kháng giai cấp. Ngược lại, công đoàn còn tiến
hành vận động, tổ chức cho CNVCLĐ tham gia vào công cuộc xây dựng nhà
nước trong sạch, vững mạnh.


12
Trong điều kiện hiện nay khi chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, vẫn còn quan hệ chủ - thợ, quan hệ bóc lột; nhất là khi
đất nước mở cửa, hội nhập để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, các DN tư nhân, DN liên doanh, DN có vốn đầu tư ở nước ngoài,…
được khuyến khích hoạt động làm cho xu hướng thay đổi cơ cấu giai cấp công
nhân rõ nét, số lượng công nhân khu vực ngoài nhà nước có xu hướng tăng
lên. Quan hệ chủ thợ, tình trạng bóc lột, ức hiếp NLĐ đang diễn ra hàng ngày,
hàng giờ và có xu hướng phát triển thì chức năng bảo vệ lợi ích CNVCLĐ của
Công đoàn Việt Nam càng trở nên quan trọng.
Để làm tốt chức năng này, trong cơ chế mới của nền kinh tế như hiện
nay cần nhìn nhận tổ chức công đoàn theo một quan điểm mới. Hiện nay,
công đoàn không thuần túy là “cầu nối” của Đảng đến giai cấp công nhân mà
còn là đại diện thực sự của công nhân, là “đệm giảm sốc” cho những va
chạm, xung đột phát sinh trong quan hệ xã hội giữa một bên là giai cấp công
nhân – NLĐ với một bên là giới chủ - NSDLĐ.
Công đoàn cần chủ động tham gia cùng chính quyền tìm việc làm và
tạo điều kiện việc làm cho NLĐ; Tham gia sâu rộng vào các vấn đề liên quan
đến đời sống, quyền lợi của NLĐ, tích cực tham gia giải quyết các vấn đề liên
quan đến khiếu nại, tố cáo của NLĐ; phát triển các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể dục thể thao cho các công đoàn viên.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các nội dung hoạt động nhằm thực

hiện chức năng bảo vệ quyền lợi chính đáng của NLĐ cần nhận thức đầy đủ
và sâu sắc rằng lợi ích của NLĐ gắn liền với lợi ích của nhà nước, của tập thể,
sự tồn tại của nhà nước chính là sự đảm bảo lợi ích cho NLĐ. Nhà nước là
chủ thể đảm bảo và công đoàn là người bảo vệ lợi ích của NLĐ. Đây là vấn
đề quan trọng nói lên mối quan hệ khăng khít giữa quyền và nghĩa vụ thể hiện
tính cách mạng của Công đoàn Việt Nam.


13
Hai là, công đoàn tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội,
tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế.
Trong điều kiện giai cấp công nhân giành được chính quyền, NLĐ trở
thành người chủ, họ có quyền và có trách nhiệm tham gia quản lý kinh tế, xã
hội. Vì vậy, vấn đề tham gia quản lý đã trở thành chức năng của công đoàn.
Tuy nhiên, công đoàn tham gia quản lý chứ không làm thay, không cản trở,
không can thiệp vào công việc quản lý của nhà nước. Công đoàn tham gia quản
lý thực chất là để thực hiện quyền của công đoàn, quyền của CNVCLĐ, và để
bảo vệ đầy đủ các quyền lợi ích của NLĐ. Vì vậy, công đoàn cần vận động, tập
hợp phát huy trí tuệ của CNVCLĐ, phát huy tiềm năng lao động, phát huy sáng
kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, cùng với chuyên môn mở rộng phát
triển sản xuất kinh doanh tạo nhiều việc làm, nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả, làm ổn định và phát triển DN, cơ quan, đơn vị. Đồng thời tham gia
quản lý chính là thiết thực bảo vệ lợi ích trước mắt và lâu dài của CNVCLĐ,
của tập thể, của Nhà nước một cách căn bản và có hiệu quả.
Ngày nay, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, khi
thực hiện chức năng tham gia quản lý Công đoàn Việt Nam đã tham gia quản
lý trên nhiều lĩnh vực như: Tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi trong
công nhân, viên chức và lao động là biện pháp tổng hợp để họ trực tiếp tham
gia quản lý; Tham gia xây dựng chiến lược đào tạo việc làm và điều kiện làm
việc cho công nhân lao động; Tham gia xây dựng chiến lược tạo việc làm và

điều kiện làm việc cho công nhân lao động; Tham gia xây dựng, hoàn thiện
các chế độ chính sách liên quan trực tiếp đến NLĐ như: tiền lương, tiền
thưởng, nhà ở…; Tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo của công nhân, viên
chức và lao động; tham gia xây dựng và hoàn thiện các chính sách xã hội:
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình,
phong trào đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ xã hội; Công đoàn tham gia vào việc


14
hoạch định chiến lược sản xuất, kinh doanh và đầu tư, đồng thời kiểm tra,
giám sát các công việc đã được hoạch định; Tham gia xây dựng và thực hiện
các chính sách liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của NLĐ.
Ba là, Công đoàn giáo dục, động viên CNVCLĐ phát huy quyền làm
chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Chức năng giáo dục của Công đoàn Việt Nam ngày càng mở rộng và
phát triển thông qua hoạt động thực tiễn trong lao động sản xuất và tham gia
các phong trào thi đua… góp phần cho công nhân, viên chức và lao động
nhận thức và hiểu được lợi ích của họ gắn với lợi ích tập thể, lợi ích của xã
hội. Muốn có lợi ích và muốn lợi ích của mình được bảo vệ trước hết phải
thực hiện tốt nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ của người công dân đối với cơ quan,
DN và xã hội. Trên cơ sở đó xây dựng ý thức lao động mới, lao động có kỷ
luật và có tác phong công nghiệp. Nâng cao tinh thần tự giác học tập văn hóa,
chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện tay nghề để đáp ứng sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công đoàn tuyên truyền, giáo dục công nhân, viên chức và lao động
vững tin vào đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế - xã hội
mà Đảng ta đã lựa chọn. Giáo dục truyền thống cách mạng của dân tộc, của
địa phương nhất là đối với công nhân lao động trẻ.
Tuyên truyền chính sách, pháp luật của Nhà nước; giáo dục nâng cao
đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, xây dựng lối

sống văn hóa lành mạnh, sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật góp
phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh. Với tinh thần thường xuyên
cảnh giác và đấu tranh chống lại những âm mưu thù địch.
Chức năng của công đoàn là một chỉnh thể, một hệ thống đồng bộ, đan
xen tương tác với nhau. Trong đó chức năng bảo vệ lợi ích hết sức được coi
trọng, mang ý nghĩa trung tâm, là mục tiêu hoạt động của Công đoàn Việt


15
Nam; chức năng tham gia quản lý mang ý nghĩa phương tiện; chức năng giáo
dục mang ý nghĩa tạo động lực tinh thần để đạt được mục tiêu và còn là điều
kiện xã hội để công đoàn thực hiện nhiệm vụ của mình.
Nhiệm vụ của Công đoàn Việt Nam là tất cả những vấn đề mà công
đoàn cần giải quyết để thực hiện các mục tiêu. Thực hiện nhiệm vụ của
công đoàn là đảm bảo cho việc thực hiện chức năng đã được xác định của
công đoàn trong một giai đoạn nhất định phù hợp với tình hình kinh tế, xã
hội của đất nước trong giai đoạn đó. Chính vì lý do đó, tại Đại hội đại biểu
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ X năm 2012
TW Đoàn xác định:
Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng,
truyền thống, lịch sử dân tộc, văn hoá, lối sống, ý thức chấp hành
pháp luật cho thanh thiếu nhi. Chú trọng giáo dục thông qua điển
hình tiên tiến, thực tiễn phong trào hành động cách mạng; tăng
cường đối thoại giữa cán bộ đoàn với đoàn viên, thanh niên qua các
diễn đàn tuổi trẻ. Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước để phát
huy mạnh mẽ trí tuệ, sức lực, tinh thần xung kích, sáng tạo, tình
nguyện của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
chăm lo tốt hơn nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của tuổi trẻ. Lựa
chọn nội dung, phương thức phù hợp và chỉ đạo có trọng tâm, trọng
điểm để các phong trào thi đua trong thanh thiếu nhi được triển khai

đúng định hướng, sâu rộng, thiết thực và hiệu quả, thực sự là môi
trường giáo dục, rèn luyện của mọi thanh niên. Tập trung củng cố,
xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững
mạnh, trọng tâm nâng cao là chất lượng cơ sở, chất lượng đội ngũ
cán bộ đoàn và mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên. Phát
huy vai trò đội dự bị tin cậy của Đảng, là lực lượng trung kiên, gần


16
Đảng nhất, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị. Đề cao trách nhiệm chăm sóc, giáo dục thiếu nhi.
Mở rộng, nâng cao hiệu quả công tác quốc tế thanh niên. [82]
Với khẩu hiệu hành động: “Tuổi trẻ Việt Nam xây hoài bão lớn, rèn
đức, luyện tài, đoàn kết, sáng tạo, xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
1.1.3. Hệ thống tổ chức công đoàn
Hệ thống tổ chức công đoàn gồm có Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam và công đoàn các cấp theo quy định của Điều lệ Công
đoàn Việt Nam. Công đoàn cơ sở được tổ chức trong cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị, doanh
nghiệp, tổ chức khác có sử dụng lao động theo quy định của pháp
luật về lao động, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam”. [50]
Tại Điều 6, Điều lệ Công đoàn Việt Nam năm 2003 qui định thêm về
cơ cấu tổ chức của công đoàn, theo đó: “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
là tổ chức thống nhất có các cấp cơ bản sau đây:
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
(sau đây gọi là Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố) và công đoàn
ngành Trung ương.

Công đoàn cấp trên cơ sở.
Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn.” [30]
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng
lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những NLĐ tự nguyện lập ra
nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp


17
pháp, chính đáng của NLĐ, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống
nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của CNVCLĐ; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã
hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế; giáo dục, động viên CNVCLĐ phát huy quyền làm chủ đất nước, thực
hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công đoàn ngành địa phương là công đoàn cấp trên cơ sở tập hợp
CNVCLĐ cùng ngành, nghề thuộc các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh,
thành phố. Công đoàn ngành địa phương do Liên đoàn Lao động tỉnh, thành
phố quyết định thành lập (hoặc giải thể) sau khi thống nhất với Công đoàn
ngành Trung ương; chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Liên đoàn Lao động tỉnh,
thành phố và sự chỉ đạo về ngành nghề của Công đoàn ngành Trung ương để
chỉ đạo các CĐCS trên địa bàn. Nhiệm vụ, quyền hạn của Công đoàn ngành
địa phương là: Tổ chức triển khai các chủ trương công tác của Liên đoàn Lao
động tỉnh, thành phố, của Công đoàn ngành Trung ương và Nghị quyết Đại
hội Công đoàn cấp mình; Tham gia với cơ quan quản lý cùng cấp về phát triển
kinh tế - xã hội của ngành ở địa phương, các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm
và lợi ích ngành, nghề, xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức và lao động trong
ngành; Hướng dẫn, thông tin về pháp luật và các chế độ, chính sách, khoa học -
kỹ thuật ngành, nghề, chỉ đạo công đoàn cấp dưới thực hiện các chế độ, chính
sách lao động ngành, nghề. Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, tuyên

truyền, giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, Chính sách, Pháp luật của
Nhà nước, nhiệm vụ của Công đoàn và truyền thống, nghĩa vụ, quyền lợi của
CNVCLĐ trong ngành; Phối hợp với Liên đoàn Lao động huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các chế độ,
chính sách ngành, nghề, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
CNVCLĐ trong ngành; Phát triển đoàn viên và CĐCS trong các thành phần


18
kinh tế, thực hiện công tác tổ chức, cán bộ theo phân cấp của Liên đoàn Lao
động tỉnh, thành phố, xây dựng CĐCS, nghiệp đoàn vững mạnh.
Liên đoàn Lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi
chung là Liên đoàn Lao động huyện) là Công đoàn cấp trên cơ sở, tập hợp
CNVCLĐ trên địa bàn huyện. Liên đoàn Lao động huyện do Liên đoàn Lao
động tỉnh, thành phố quyết định thành lập (hoặc giải thể) và chỉ đạo trực tiếp.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Liên đoàn Lao động huyện được qui định tại Điều
23, Khoản 4, Điều lệ công đoàn Việt Nam, gồm: Tuyên truyền đường lối, chủ
trương của Đảng, Chính sách, Pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của tổ
chức Công đoàn; Triển khai thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết và chủ trương
công tác của Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố; Chỉ thị, Nghị quyết của cấp
uỷ Đảng và Nghị quyết Đại hội Công đoàn cấp mình. Tham gia với cấp uỷ
Đảng, cơ quan Nhà nước về các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội và các
vấn đề có liên quan đến việc làm, đời sống của CNVCLĐ; Tổ chức phong trào
thi đua yêu nước, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; Vận động đoàn viên,
CNVCLĐ tham gia các hoạt động xã hội, hướng dẫn các hình thức, biện pháp
chăm lo đời sống, cải thiện điều kiện làm việc, xoá đói giảm nghèo, xây dựng
nếp sống văn hoá, đấu tranh ngăn chặn tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xã
hội; Phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước cấp huyện, Công đoàn
ngành địa phương, công đoàn Tổng Công ty để kiểm tra, giám sát việc thực

hiện các chế độ, chính sách, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp lao động
đối với các cơ sở đóng trên địa bàn; Thực hiện công tác phát triển đoàn viên,
thành lập CĐCS, Nghiệp đoàn, công tác tổ chức, cán bộ theo phân cấp của Liên
đoàn Lao động tỉnh, thành phố; xây dựng CĐCS vững mạnh.
Công đoàn Tổng Công ty là công đoàn cấp trên cơ sở tập hợp CNVCLĐ
trong các cơ sở của Tổng Công ty, do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực


19
thuộc Trung ương quyết định thành lập thì Công đoàn Tổng Công ty đó do
Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố thành lập và chỉ đạo trực tiếp, nếu Tổng
Công ty do Bộ quyết định thành lập thì Công đoàn Tổng Công ty đó do
Công đoàn ngành Trung ương thành lập và chỉ đạo trực tiếp; và Tổng Công
ty do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập thì việc thành lập và chỉ đạo
Công đoàn Tổng Công ty đó do Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Liên đoàn
Lao động Việt Nam quyết định. Nhiệm vụ, quyền hạn của Công đoàn Tổng
Công ty: Tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, Chính sách, Pháp luật
của Nhà Nước và nhiệm vụ của tổ chức công đoàn. Triển khai thực hiện các
Chỉ thị, Nghị quyết, Chủ trương công tác của Công đoàn cấp trên và Nghị quyết
đại hội Công đoàn Tổng Công ty; Tham gia với Hội đồng quản trị, Tổng Giám
đốc Tổng Công ty về quy hoạch, kế hoạch và mục tiêu phát triển kinh tế của
Tổng Công ty, tham gia xây dựng và kiểm tra giám sát việc thực hiện nội quy,
quy chế, chế độ tiền lương, tiền thưởng và các quy định có liên quan đến
quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, CNVCLĐ trong Tổng
Công ty; Phối hợp với Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, tổ chức Đại hội công nhân, viên chức; đại diện cho đoàn
viên, CNVCLĐ ký thoả ước lao động tập thể với Tổng Giám đốc Tổng Công
ty phù hợp với các quy định của pháp luật, tham gia các Hội đồng của Tổng
Công ty để giải quyết các vấn đề có liên quan đến CNVCLĐ; Chỉ đạo các
CĐCS thuộc Công đoàn Tổng Công ty thực hiện các hình thức tham gia quản

lý, thực hiện pháp luật lao động và luật Công đoàn, tổ chức phong trào thi đua
yêu nước; giáo dục theo đặc điểm ngành, nghề, hướng dẫn công tác bảo hộ
lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chế độ, chính sách ngành,
nghề khác; Quyết định thành lập hoặc giải thể các CĐCS thuộc Công đoàn
Tổng Công ty. Thực hiện công tác cán bộ theo sự phân cấp của công đoàn cấp
trên, chỉ đạo xây dựng CĐCS vững mạnh; Tiếp nhận ý kiến tham gia và chỉ đạo

×