Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV ở việt nam hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.53 KB, 24 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ VIỆT HÀ

BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ, CHĂM
SÓC SỨC KHOẺ CỦA NGƢỜI CÓ HIV Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Quyền con ngƣời

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Mai Thanh

Phản biện 1: Hoàng Văn Tú
Phản biện 2: Vũ Thư

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận
thạc sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội 10 giờ 50 phút
ngày 08 tháng 08 năm 2015

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa
học xã hội



MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Xuất hiện vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỷ XX,
dịch HIV/AIDS trở thành một đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa
đối với tính mạng, sức khỏe con người và tương lai nòi giống của các
quốc gia, các dân tộc trên toàn cầu, tác động trực tiếp đến sự phát
triển kinh tế, văn hóa, trật tự và an toàn xã hội, đe dọa sự phát triển
bền vững của đất nước. Dưới góc độ nhân quyền, đại dịch HIV/AIDS
đã tạo nên nhóm xã hội dễ bị tổn thương với số lượng ngày càng
nhiều. Do những đặc điểm của bệnh, từ những định kiến xã hội,
người có HIV bị tổn thương hơn cả về thể chất, tinh thần so với các
nhóm đối tượng dễ bị tổn thương khác trong xã hội. Chính những
biện pháp y tế công cộng truyền thống cùng với sự kỳ thị, phân biệt,
xa lánh xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về HIV/AIDS của cộng đồng
đã trở thành một nhân tố khiến đại dịch HIV/AIDS toàn cầu bùng
phát.
Con người muốn sống hạnh phúc và hưởng đầy đủ các quyền
của mình thì trước hết cần có sức khỏe, đây là điều quý giá nhất đối
với mỗi người. Vì thế quyền được đảm bảo sức khỏe về thể chất và
tinh thần ở mức cao nhất là quyền xã hội quan trọng. Đối với người
có HIV, quyền này còn mang ý nghĩa đặc biệt bởi vì những người có
HIV là những người đang hàng ngày phải chống chọi với bệnh dịch,
không những sức khỏe của họ bị đe dọa mà họ còn bị tổn thương
nặng nề về mặt tinh thần khi luôn chịu sự kỳ thị xa lánh từ phía cộng
đồng. Do đó, vấn đề bảo vệ quyền của người có HIV đặc biệt là
quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe là vấn đề cần được quan tâm
và có những biện pháp nhằm bảo đảm hiệu quả việc thực hiện quyền
này của người có HIV trên thực tế.
1.


1


Ngay từ khi dịch HIV/AIDS xuất hiện, Liên Hợp Quốc đã
đặc biệt quan tâm đến phòng, chống căn bệnh này. Cơ sở của phòng,
chống HIV/AIDS là sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế, được thể
hiện trong các Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Cộng
đồng quốc tế đã xác định: HIV đã gây ra cuộc khủng hoảng toàn cầu
và các chính phủ cam kết thực hiện nhiều giải pháp, trong đó có giải
pháp tiếp cận quyền, hợp tác quốc tế trong phòng, chống HIV/AIDS.
Những người có HIV có đầy đủ các quyền được ghi trong Hiến pháp
và pháp luật quốc gia trong đó có quyền được hưởng thụ các chế độ
bảo hiểm và an sinh xã hội; quyền được chăm sóc sức khỏe…
Tại Việt Nam, nhận thức rõ sự nguy hiểm của đại dịch
HIV/AIDS Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật quan trọng nhằm khống chế sự gia tăng của dịch
HIV/AIDS. Sự ra đời của các văn bản pháp luật này đã tạo hành lang
pháp lý cho việc tôn trọng, bảo đảm quyền của người nhiễm
HIV/AIDS. Bên cạnh đó Nhà nước xây dựng chương trình, chiến
lược quốc gia, triển khai kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS và qua
quá trình thực hiện đã đạt được nhiều kết quả quan trọng góp phần
ngăn chặn, hạn chế tốc độ gia tăng của đại dịch HIV/AIDS, đồng thời
đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc, điều trị cho người có HIV và
bệnh nhân AIDS, tạo môi trường bình đẳng trong việc tiếp cận với
các dịch vụ điều trị, chăm sóc và phòng ngừa HIV.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc bảo đảm quyền
cho người có HIV trong đó có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe đối với người có HIV còn có nhiều bất cập. Các quy định về
phòng, chống HIV/AIDS như hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho người

có HIV chưa theo kịp tình hình thực tế. Luật phòng, chống
HIV/AIDS đã không còn phù hợp với những tiến bộ về khoa học
trong dự phòng và điều trị HIV/AIDS hiện nay điển hình như những
2


quy định về chẩn đoán AIDS giai đoạn cuối, xét nghiệm HIV miễn
phí cho tất cả phụ nữ mang thai, các quy định về phòng, chống
HIV/AIDS tại các doanh nghiệp và nơi làm việc…
Nguyên nhân dẫn đến những vấn đề còn tồn tại nêu trên xuất
phát từ những bất cập về thể chế, chính sách pháp luật, về quy trình
quản lý, giám sát hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước. Bên
cạnh đó, nếu như trước đây thực hiện các chương trình phòng, chống
HIV/AIDS Việt Nam nhận được nguồn kinh phí rất lớn từ tài trợ của
các tổ chức nước ngoài thì hiện nay các tổ chức này đã và đang cắt
giảm dần nguồn quỹ tài trợ dẫn đến việc nhà nước phải sử dụng gần
như hoàn toàn nguồn tài chính của quốc gia để phục vụ công tác
phòng, chống HIV/AIDS. Chính vì vậy, đây là thách thức rất lớn
trong công tác hoạch định các chương trình và giải pháp phòng,
chống HIV/AIDS, bảo đảm hiệu quả việc chăm sóc sức khỏe cho
những người có HIV, đạt được mục tiêu chung trong Chiến lược
quốc gia Phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 là
“Khống chế tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư dưới 0,3% vào
năm 2020, giảm tác động của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội”.
Từ những thực tiễn nêu trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Bảo
đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ ngành luật học,
chuyên ngành quyền con người với mong muốn góp phần tăng cường
bảo đảm một trong những quyền cơ bản và quan trọng của người có

HIV ở Việt Nam hiện nay.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Dịch bệnh HIV/AIDS diễn ra ngày càng phức tạp và để lại
những hậu quả vô cùng nặng nề tới đời sống của cá nhân, gia đình và

3


toàn xã hội. Trước tình hình đó, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
liên quan đến vấn đề này, cụ thể:
- Về vấn đề quyền con người nói chung, có các công trình
khoa học do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên như: Quyền con người,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2011; Quyền con người, tiếp cận đa
ngành và liên ngành luật học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2011;
Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2009; Những vấn đề lý luận và thực
tiễn của nhóm quyền kinh tế - xã hội – văn hoá, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 2011, GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (2011); Pháp
luật quốc tế về quyền con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
GS.Võ Khánh Vinh, TS Lê Mai Thanh chủ biên (2014).
- Về vấn đề quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, có
các công trình khoa học như: Luật quốc tế về quyền của các nhóm
người dễ bị tổn thương, tập thể tác giả chủ biên: Đỗ Hồng Thơm –
Vũ Công Giao, Nxb Lao động – Xã hội, 2011; Bảo vệ các nhóm dễ bị
tổn thương trong tố tụng hình sự do tập thể tác giả chủ biên: Đỗ
Hồng Thơm, Vũ Công Giao, Nguyễn Đăng Dung, Lã Khánh Tùng,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011 …
- Sách về quyền của người có HIV có các tác phẩm:
HIV/AIDS và quyền con người, Cao Đức Thái chủ biên, Nxb Hà Nội,

12-2006; Tôn trọng và bảo vệ quyền con người của người nhiễm
HIV, Cao Đức Thái chủ biên, Nxb Hà Nội, tháng 3/2007; Chính sách
quốc gia về phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam, tập thể tác giả chủ
biên: Nguyễn Văn Sáu, Cao Đức Thái, Nxb Khoa học Xã hội,
2008…
- Luận án, luận văn về các đề tài liên quan đến HIV/AIDS có
các đề tài như: Trần Thị Hòe, luận án Tiến sĩ “Nhà nước Việt Nam
với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế
4


hiện nay”; Lê Thị Huyền Trang (2013), luận văn thạc sỹ “Đảm bảo
quyền của người chung sống với HIV/AIDS trong pháp luật Việt Nam
hiện nay”; Vũ Thị Luyện (2014), luận văn thạc sỹ “Bảo đảm quyền
con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam”;
Nguyễn Thị Khánh Trang (2014), luận văn thạc sỹ “Quyền của người
nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay”…
Các công trình nghiên cứu kể trên đã đề cập đến quyền của
người có HIV và bảo đảm quyền của người sống chung với
HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay nhưng chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu về bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
người có HIV và thực trạng thực hiện quyền này trên thực tế ở Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu nêu trên
cung cấp một lượng kiến thức, thông tin lớn hết sức quan trọng về
chủ đề của luận văn, là nguồn tài liệu tham khảo quý báu cho việc
thực hiện luận văn này.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.
Mục đích:

Mục đích nghiên cứu của luận văn là góp phần luận giải cơ
sở bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV
ở Việt Nam hiện nay.
3.2.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn phải hoàn thành các
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo đảm
quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV;
- Phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền được bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe của người có HIV ở Việt Nam hiện nay;
- Đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền được bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe của người có HIV ở Việt Nam trong thời gian tới.
5


Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở pháp lý và các yếu tố bảo đảm quyền được
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV.
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu về bảo đảm quyền được
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV ở Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu về bảo đảm quyền được bảo
vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV ở Việt Nam từ khi Luật
Phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
phải ở người (HIV-AIDS) năm 2006 được ban hành cho đến nay.
5.
Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm của
cộng đồng quốc tế về quyền và bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe của con người nói chung và người có HIV nói riêng;
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bảo đảm
quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV.
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh, sử dụng các số liệu, dữ liệu trong các công trình
nghiên cứu đã công bố, các báo cáo của cơ quan chức năng, các văn
bản pháp luật của nhà nước…để làm rõ các vấn đề nghiên cứu đặt ra.
Thêm vào đó, với tư cách là một cán bộ làm việc tại Cục Y tế dự
phòng có điều kiện tiếp cận thông tin, thực hiện các hoạt động quản
lý nhà nước về phòng, chống HIV/AIDS tác giả còn sử dụng phương
pháp chuyên gia để thực hiện luận văn này.
6.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền
được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV.
4.
4.1.

6


- Xác định các điều kiện bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe của người có HIV.
- Luận văn đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng
như cơ chế tương ứng nhằm bảo đảm đảm quyền được bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe của người có HIV ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo trong việc

xây dựng các chương trình, kế hoạch, đề xuất chính sách hoặc làm tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy về việc bảo đảm quyền
được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV ở Việt Nam.
7.
Cơ cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Lý luận về bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe của người có HIV.
Chƣơng 2: Thực trạng bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe của người có HIV ở Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 3: Phương hướng, giải pháp bảo đảm quyền được
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV ở Việt Nam hiện nay.

7


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ, CHĂM
SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI CÓ HIV
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
của ngƣời có HIV
1.1.1. Người có HIV và nhu cầu được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
HIV là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Human
Immunodeficiency Virus" là một loại vi rút tấn công hệ miễn dịch
gây suy giảm miễn dịch ở người, làm cho cơ thể suy giảm khả năng
chống lại các tác nhân gây bệnh. Người có HIV là người mang trong
cơ thể vi rút HIV do bị lây nhiễm từ người khác. Người bệnh có HIV
trải qua giai đoạn nhiễm HIV cấp rồi qua giai đoạn nhiễm HIV không
triệu chứng và cuối cùng là đến giai đoạn AIDS. AIDS (cách viết tắt

từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Aquired
ImmunoDeficiency Syndrome) hay còn gọi là SIDA (cách viết tắt từ
của cụm từ tiếng Pháp: Syndrôm dé Immuno Dèficience Acquise) là
giai đoạn cuối cùng của quá trình nhiễm HIV.
Người có HIV mang những đặc điểm sau:
Thứ nhất, người có HIV là nguồn truyền nhiễm HIV sang
cho người khác.
Thứ hai, người có HIV cho đến khi chuyển sang giai đoạn
AIDS vẫn có thể sinh hoạt, học tập, lao động bình thường.
Thứ ba, người có HIV là những người bị tổn thương cả về
mặt vật chất, thể trạng lẫn tinh thần.
1.1.2. Khái niệm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người
có HIV
Định nghĩa về quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
người có HIV: “Quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có
HIV là quyền cơ bản mà theo đó người có HIV được khám bệnh,
8


chữa bệnh, tiếp cận các dịch vụ y tế, được áp dụng các biện pháp dự
phòng bệnh, nâng cao sức khỏe và Nhà nước có trách nhiệm bảo
đảm cho người có HIV được thụ hưởng quyền đó”.
1.1.3. Đặc điểm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời
có HIV
Thứ nhất, quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ là quyền có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những người có HIV. Nhiễm vi
rút HIV hiện nay chưa có thuốc đặc trị, chính vì vậy những người có
HIV phải chung sống suốt đời với việc khám bệnh, điều trị bằng
thuốc. Bảo đảm, bảo vệ quyền được chăm sóc sức khoẻ cho những
người có HIV giúp cho họ kéo dài được sự sống của mình. Bên cạnh

đó, những người có HIV là những người mang tâm lý lo sợ người
khác biết về tình trạng nhiễm bệnh của mình. Chính vì vậy những
người có HIV tiếp cận quyền rất thụ động đòi hỏi các cơ sở khám
chữa bệnh, cơ sở điều trị phải có phương pháp tiếp cận và điều trị
phù hợp cho nhóm người này. Bên cạnh việc điều trị nhằm bảo đảm
tình trạng sức khoẻ cho người bệnh cần phải có những liệu pháp điều
trị về tâm lý nhằm ổn định tinh thần cho người có HIV, tránh cho họ
những suy nghĩ căng thẳng, tiêu cực, giúp họ có đủ tự tin để tiếp tục
sống, học tập và làm việc để nuôi sống bản thân và gia đình.
Thứ hai, quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ của người có
HIV thường có nguy cơ bị xâm phạm bởi những người có trách
nhiệm khám, chữa bệnh hoặc bị xâm phạm bởi chính chủ thể quyền.
Những người có HIV hay gặp phải thái độ xa lánh, phân biệt đối xử
từ chính đội ngũ nhân viên y tế khi đến khám và điều trị tại các cơ sở
y tế. Đây là rào cản khiến cho những người có HIV gặp khó khăn
trong việc tiếp cận và thụ hưởng quyền. Bên cạnh đó, việc vấp phải
thái độ kỳ thị, xa lánh của cộng đồng cùng với việc phải điều trị trong
thời gian dài khiến cho bản thân những người có HIV chán nản, có
9


tâm lý buông xuôi, không tích cực chữa bệnh nữa. Chính vì vậy, để
đảm bảo chăm sóc, điều trị cho người có HIV cần phải tạo ra môi
trường có dịch vụ y tế thân thiện, tăng cường chất lượng dịch vụ cũng
như tính bảo mật thông tin. Sự thiếu thoải mái, không an toàn và kỳ
thị là rào cản khiến người có HIV không muốn đến để chăm sóc y tế
dẫn đến việc họ không được bảo đảm về tình trạng sức khoẻ của
mình, đồng thời họ còn là nguồn lây nhiễm vi rút HIV trong cộng
đồng.
Thứ ba, bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ của

người có HIV cần sự vào cuộc của Nhà nước, của gia đình và của
toàn xã hội. Đa số những người có HIV đều thuộc diện có điều kiện
kinh tế khó khăn. Khi bị nhiễm bệnh do tình trạng sức khoẻ giảm sút,
bị cộng đồng kỳ thị, xa lánh họ mất dần cơ hội để được làm việc,
không có khả năng tài chính để chi trả cho các dịch vụ thăm khám và
chăm sóc sức khoẻ của mình. Chính vì vậy, mọi hoạt động chăm sóc
y tế, điều trị và áp dụng các biện pháp bảo vệ đối với người có HIV
cần sự hỗ trợ từ phía nhà nước và cộng đồng xã hội.
1.2. Nội dung quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời
có HIV
1.2.1. Quyền được tiếp cận dịch vụ y tế thuận lợi và bình đẳng
Quyền được tiếp cận dịch vụ y tế thuận lợi đòi hỏi nhà nước và
các cơ quan có thẩm quyền phải mở rộng phạm vi cung cấp, bảo đảm
tính liên tục và dễ tiếp cận của dịch vụ điều trị bằng thuốc kháng vi
rút HIV, điều trị nhiễm trùng cơ hội, điều trị lao cho người có HIV,
điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con thông qua việc đưa
công tác điều trị về tuyến y tế cơ sở, lồng ghép với các chương trình
y tế khác…nhằm tạo điều kiện cho người có HIV có thể được chăm
sóc, điều trị một cách nhanh chóng, hiệu quả để họ được thụ hưởng
quyền một cách tốt nhất có thể. Bên cạnh đó nhà nước cũng có nghĩa
10


vụ bảo đảm cho người có HIV được bình đẳng trong việc tiếp cận và
sử dụng các dịch vụ y tế như những người khác.
1.2.2. Quyền được điều trị và chăm sóc sức khỏe toàn diện
Điều trị và chăm sóc cho người có HIV cần được thực hiện
một cách toàn diện bao gồm nội dung chăm sóc về thể chất, về tinh
thần, chăm sóc dự phòng lây nhiễm HIV và chăm sóc về mặt xã hội.
1.2.3. Quyền từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi đang điều trị bệnh

AIDS trong giai đoạn cuối
Quyền từ chối khám bệnh, chữa bệnh trong giai đoạn cuối có ý
nghĩa rất quan trọng đối với bệnh nhân AIDS khi mà việc chữa trị
không còn có ý nghĩa duy trì tình trạng hiện tại và có thể càng làm
cho họ thêm đau đớn.
1.2.4. Quyền được giữ bí mật riêng tư liên quan đến HIV/AIDS,
được tôn trọng danh dự khi được chăm sóc, điều trị
Bên cạnh việc tôn trọng bí mật riêng tư về tình trạng bệnh của
người có HIV với ý nghĩa đó là một trong những quyền cơ bản của
con người thì việc bảo đảm bảo mật thông tin này khiến những người
có HIV không còn tâm lý e ngại khi tới cơ sở khám chữa bệnh, nó
giúp cho việc kiểm soát tình hình dịch HIV/AIDS thuận lợi hơn,
giảm thiểu việc lây lan HIV trong cộng đồng.
1.3. Bảo đảm quyền và các điều kiện bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV
1.3.1. Khái niệm bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
của người có HIV
Từ khái niệm chung về bảo đảm quyền con người có thể đưa
ra khái niệm bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
người có HIV như sau: Bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe của người có HIV là trách nhiệm của Nhà nước tạo ra các tiền
đề, điều kiện về chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội và tổ chức thực hiện
11


để người có HIV được hưởng đầy đủ các quyền và lợi ích trong lĩnh
vực y tế.
1.3.2. Các điều kiện bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe của người có HIV
 Điều kiện chính trị

Trong việc bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ của
người có HIV thì điều kiện về chính trị có một vai trò quan trọng. Để
đảm bảo cho người có HIV được tiếp cận một cách thuận lợi với dịch
vụ chăm sóc sức khoẻ, khám và điều trị bệnh, các biện pháp bảo vệ
sức khoẻ hiệu quả thì Đảng và Nhà nước phải đưa ra đường lối, chính
sách nhằm quán triệt nhận thức về việc bảo đảm quyền này trên thực
tế.
 Điều kiện kinh tế
Trình độ phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng kinh tế của một quốc
gia có vai trò hậu thuẫn vô cùng quan trọng cho việc bảo đảm thực
thi quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV. Các
chính sách và pháp luật có liên quan đến quyền được bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe của người có HIV để thực hiện được trên thực tế cần
phải có các điều kiện cơ sở vật chất cho việc bảo đảm quyền như: Cơ
sở hạ tầng y tế, máy móc trang thiết bị y tế phục vụ cho việc khám và
điều trị, thuốc men, đầu tư đào tạo, nghiên cứu…Có thể nói những
thuận lợi về kinh tế là điều kiện vô cùng quan trọng để bảo đảm
quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV.
 Điều kiện văn hóa – xã hội
Điều kiện về văn hoá như thái độ giao tiếp, phong tục tập quán,
ngôn ngữ… ảnh hưởng không nhỏ đến việc đảm bảo quyền được bảo
vệ, chăm sóc sức khoẻ của người có HIV.
 Điều kiện pháp lí
- Pháp luật quốc tế
12


Về quyền của người có HIV trong đó có quyền được bảo vệ,
chăm sóc sức khoẻ được quy định trong các văn kiện quốc tế tiêu
biểu, trong số này, các hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền

con người (Được thông qua tại Hội nghị tư vấn quốc tế lần thứ hai về
HIV/AIDS và quyền con người, do Cao ủy Liên Hợp Quốc / Trung
tâm Quyền con người và Chương trình về HIV/AIDS của Liên Hợp
Quốc (UNAIDS) đồng tổ chức ở Geneva trong các ngày 2325/9/1996) là văn kiện nổi bật, chứa đựng những nguyên tắc, tiêu
chuẩn và đề ra những mục tiêu cơ bản về bảo vệ quyền con người của
những người sống chung với HIV/AIDS.
- Pháp luật quốc gia
Hiến pháp năm 2013 được xem là nền tảng pháp lý cao nhất để
bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân.
Luật Phòng, chống HIV là văn bản pháp lý quy định trực tiếp về
việc chăm sóc, điều trị, hỗ trợ người nhiễm HIV và các điều kiện bảo
đảm thực hiện biện pháp phòng, chống HIV/AIDS.
Bên cạnh luật quy định riêng đối với người có HIV thì bảo đảm
quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ của người có HIV còn được
bao hàm trong các văn bản quy phạm pháp luật khác quy định chung
cho mọi người dân. Đó là Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009,
Luật Bảo hiểm y tế năm 2008 và Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi năm
2014 … và các văn bản hướng dẫn thi hành.
1.4. Cơ chế bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
ngƣời có HIV
1.4.1. Cơ chế quốc tế
WHO cùng với chương trình phối hợp của Liên Hợp quốc về
HIV/AIDS là cơ quan đảm nhiệm chính trong việc bảo đảm quyền
của người có HIV nói chung và quyền được bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe của người có HIV nói riêng.
13


1.4.2. Cơ chế quốc gia
Hiện nay Việt Nam đã hình thành cơ chế quốc gia đảm bảo

quyền của người có HIV thông qua việc xây dựng được một số các
cơ quan thực thi bảo đảm quyền và những quy trình bảo vệ khi có sự
việc vi phạm quyền xảy ra.
Có thể phân chia hệ thống các cơ quan này thành 2 nhóm:
Nhóm các cơ quan quản lý cấp Trung ương và nhóm các cơ quan
quản lý cấp địa phương.

14


CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ, CHĂM SÓC
SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI CÓ HIV Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng bảo đảm quyền đƣợc tiếp cận dịch vụ y tế thuận
lợi và bình đẳng của ngƣời có HIV
Hiện nay trên toàn quốc đã có 349 cơ sở điều trị, 562 trạm y
tế triển khai tư vấn, chăm sóc, điều trị cho người có HIV, bên cạnh
đó các hoạt động điều trị cho người có HIV đang được lồng ghép vào
hoạt động khám, chữa bệnh của hệ thống bệnh viện, cơ sở y tế, mở
rộng độ bao phủ dịch vụ điều trị bằng thuốc ARV trên phạm vi toàn
quốc, gắn việc cung cấp điều trị ARV vào hệ thống y tế công hiện có
nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người có HIV được tiếp cận
dịch vụ chăm sóc, điều trị. Nhà nước đã xây dựng các quy trình thủ
tục để người có HIV dễ dàng tiếp cận dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh
tránh phức tạp, rườm rà, chồng chéo khiến cho người bệnh phải đi lại
nhiều lần, xin nhiều loại giấy tờ xác nhận. Hiện nay, việc đối xử bất
bình đẳng, kỳ thị hoặc phân biệt đối xử đối với người có HIV tại các
cơ sở y tế đã giảm đáng kể, tuy nhiên vẫn còn tồn tại thái độ, hành vi
né tránh hoặc dự phòng thái quá của những người làm công việc điều

trị, chăm sóc bệnh nhân.
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền đƣợc điều trị và chăm sóc toàn
diện của ngƣời có HIV
2.2.1. Thực trạng bảo đảm quyền của người có HIV trong hoạt
động xét nghiệm và tư vấn về HIV
Mặc dù các quy định về xét nghiệm và tư vấn cho người có
HIV đã khá đầy đủ và cụ thể, chặt chẽ nhằm bảo đảm quyền được giữ
bí mật thông tin cho người có HIV cũng như hỗ trợ tâm lý để giúp họ
ổn định tinh thần, hợp tác điều trị. Tuy nhiên trên thực tế khi thực
hiện các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, các nhân viên y tế không tuân
15


thủ đúng các nội dung nêu trên, không thực hiện hoặc thực hiện
mang tính hình thức đặc biệt là các quy định về tư vấn trước xét
nghiệm. Điều này dẫn đến việc người có HIV không hiểu rõ, hiểu
đúng về tình trạng của mình, gây hoảng loạn về tâm lý cũng như khó
khăn trong công tác điều trị sau này.
2.2.2. Thực trạng bảo đảm quyền của người có HIV trong hoạt
động điều trị
Những người có HIV trước đây trong quá trình điều trị được
cấp phát thuốc ARV miễn phí do Việt Nam nhận được nguồn viện trợ
rất lớn từ nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay hai nguồn viện trợ lớn
nhất cho chi phí cấp thuốc ARV là PEPFAR năm 2017 sẽ cắt 40%
tiền thuốc ARV và năm 2018 sẽ cắt toàn bộ thuốc ARV viện trợ,
GFATM chỉ viện trợ đến tháng 12/2017. Trước tình hình đó Nhà
nước đã ban hành các quy định về bảo hiểm y tế nhằm giúp cho
những người có HIV có thể tiếp tục được điều trị mà không phải chịu
gánh nặng chi phí cho thuốc điều trị và các dịch vụ y tế.
2.2.3. Thực trạng bảo đảm quyền của người có HIV trong hoạt

động dự phòng lây nhiễm HIV
Đối với phụ nữ nhiễm HIV khi mang thai việc dự phòng lây
nhiễm HIV từ mẹ sang con là nội dung rất quan trọng nhằm bảo đảm
quyền được bảo vệ sức khoẻ cho người mẹ và thai nhi. Hiện nay, tỷ
lệ phụ nữ mang thai nhiễm HIV được phát hiện và điều trị dự phòng
lây truyền HIV từ mẹ sang con chỉ mới đạt 57%. Nhiều phụ nữ mang
thai có HIV khu vực vùng sâu vùng xa được chẩn đoán nhiễm HIV
muộn, tình trạng kỳ thị phân biệt đối xử nên vẫn còn mất dấu sau khi
xét nghiệm HIV dương tính ở phụ nữ mang thai.
2.2.4. Thực trạng bảo đảm quyền được chăm sóc sức khoẻ toàn
diện của người có HIV

16


Bên cạnh những kết quả đạt được, việc hướng tới chăm sóc
sức khoẻ toàn diện cho người có HIV cũng có những hạn chế như có
đầy đủ các quy định pháp luật, quy trình thực hiện nhưng trên thực tế
việc quan tâm chăm sóc cho người có HIV về tâm lý chưa được chú
trọng bởi các nhân viên y tế. Mặc dù đã có quy định về trợ cấp đối
với những trường hợp thuộc diện hộ nghèo hoặc trẻ em có HIV
nhưng mức trợ cấp còn thấp, chưa đủ để hỗ trợ giải quyết thực sự nhu
cầu của người có HIV.
2.3. Thực trạng bảo đảm quyền từ chối điều trị của ngƣời đang
điều trị AIDS giai đoạn cuối
Thực tế điều trị tại các bệnh viện cho thấy, nhiều bệnh nhân do
không chịu đựng nổi đã không còn thiết sống, không hợp tác với các
nhân viên y tế điều trị cho họ. Mặc dù người bệnh từ chối điều trị và
cơ sở điều trị chấp nhận thực hiện dừng điều trị theo yêu cầu của
người bệnh, tuy nhiên không có nghĩa là bỏ mặc người bệnh AIDS

giai đoạn cuối mà Nhà nước vẫn quy định về các biện pháp nhằm làm
giảm sự đau đớn của họ thông qua việc các bác sĩ được kê đơn các
loại thuốc gây nghiện để giảm đau cho họ.
2.4. Thực trạng bảo đảm quyền đƣợc giữ bí mật riêng tƣ liên
quan đến HIV/AIDS, đƣợc tôn trọng danh dự khi đƣợc chăm sóc
và điều trị
Trong quá trình điều trị người có HIV được quyền giữ bí mật
thông tin về tình trạng sức khoẻ, thông tin riêng tư liên quan đến
HIV/AIDS và được bình đẳng với những người khác, không bị kỳ
thị, phân biệt đối xử. Hiện nay khi thanh toán tiền thuốc ARV qua
bảo hiểm y tế một số trung tâm y tế không đủ điều kiện thanh toán
bảo hiểm phải chuyển bệnh nhân có HIV sang bệnh viện. Điều này
khiến thông tin của người có HIV đặt dưới sự quản lý của hai hệ
thống là cơ sở y tế và bảo hiểm y tế do đó cần có quy định về chuyển
17


giao và bảo mật thông tin giữa hai hệ thống này nhằm bảo đảm quyền
được giữ bí mật thông tin riêng tư của người có HIV.
2.5. Thực trạng cơ chế bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe của ngƣời có HIV
Theo quy định hiện nay hệ thống các cơ sở y tế phục vụ cho
việc khám bệnh, chữa bệnh được tổ chức theo các tuyến từ trung
ương tới địa phương đã tạo điều kiện cho người có HIV tiếp cận dịch
vụ điều trị một cách thuận lợi. Hiện nay cả nước đã thành lập mới
385 cơ sở điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS. Các cơ sở này cùng
với 562 trạm y tế ở 63 tỉnh, thành đã tham gia điều trị và cấp phát
thuốc ARV cho 116.000 người nhiễm HIV/AIDS. Nhờ đó, làm giảm
đáng kể tỷ lệ tử vong, nếu năm 2009 số ca tử vong khoảng từ 7.000 8.000 ca/năm, đến nay giảm xuống còn khoảng 2.000 - 3.000 ca; kết
quả này đã đáp ứng được mục tiêu do Tổ chức Y tế thế giới đề ra

(80% bệnh nhân còn sống sau 12 tháng điều trị). Bên cạnh những kết
quả đạt được vẫn còn tồn tại những bất cập trong cơ chế bảo đảm
quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ của người có HIV cụ thể như
sau: Quy trình chuyển tiếp, chuyển tuyến đã được tiến hành tuy nhiên
hiện nay chưa có quy định chặt chẽ về phản hồi giữa các đơn vị cung
cấp dịch vụ điều trị bằng thuốc kháng HIV để đánh giá chuyển tiếp
thành công nên trong quá trình chuyển tuyến còn có tình trạng mất
dấu người bệnh đồng thời không đánh giá được hiệu quả của hoạt
động này; Sự kết nối điều trị khi bệnh nhân vào các trại giam còn gặp
khó khăn.
Tiểu kết Chương II
Qua phân tích thực trạng bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm
sóc sức khoẻ của người có HIV có thể thấy rằng trong những năm
qua công tác chăm sóc, điều trị và các hoạt động dự phòng cho người
có HIV đã được triển khai một cách đồng bộ với sự quan tâm của tất
18


cả các cấp chính quyền từ trung ương tới địa phương và đã đạt được
những thành tựu đáng ghi nhận. Các cơ sở điều trị đã được thiết lập
thành hệ thống đồng bộ từ cấp tỉnh tới cấp xã, phường đồng thời lồng
ghép điều trị, cung cấp thuốc ARV vào hệ thống y tế công. Điều này
đã tạo điều kiện cho người có HIV được tiếp cận dịch vụ chăm sóc,
điều trị sức khoẻ một cách thuận lợi nhất. Bên cạnh những kết quả
đạt được hiện nay vẫn còn có những hạn chế cần khắc phục. Luật
phòng, chống HIV sau một thời gian thực hiện đã xuất hiện những
bất cập cần được sửa đổi, bổ sung. Hệ thống pháp luật về khám bệnh,
chữa bệnh và bảo hiểm y tế cần được điều chỉnh để tạo điều kiện cho
người có HIV dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế. Cần ban hành và
triển khai chính sách, giải pháp nhằm duy trì các hoạt động hỗ trợ

cho người có HIV trước tình hình nguồn viện trợ nước ngoài bị cắt
giảm.

19


CHƢƠNG 3
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC
BẢO VỆ, CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI CÓ HIV Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.
Phƣơng hƣớng bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe của ngƣời có HIV ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật theo định hướng phối hợp dự phòng
với chăm sóc, điều trị toàn diện, trong đó dự phòng là chủ đạo
3.1.2. Tăng cường các điều kiện bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
người có HIV trên cơ sở khả năng và hoàn cảnh kinh tế - xã hội
của đất nước
3.2.
Giải pháp bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe của ngƣời có HIV ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
a) Sửa đổi Luật phòng, chống HIV
b) Sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan đến bảo
đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV
3.2.2. Giải pháp nâng cao nhận thức của người có HIV và tăng
cường các điều kiện bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức
khoẻ của người có HIV
a) Giải pháp nâng cao nhận thức về HIV/AIDS
b) Giải pháp tăng cường các điều kiện bảo đảm quyền được

bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ của người có HIV
- Chuyển đổi hoạt động phòng chống HIV/AIDS chủ yếu dựa
vào nguồn viện trợ nước ngoài sang hình thức dựa vào ngân sách nhà
nước, ngân sách địa phương và quỹ Bảo hiểm y tế. Tăng cường huy
động các nguồn lực từ cộng đồng.
- Thay đổi phương thức quản lý nhằm sử dụng thuốc kháng vi
rút một cách có hiệu quả, tiết kiệm tối đa chi phí.
20


- Tăng cường đầu tư, quản lý có hiệu quả nguồn lực.
- Tăng cường đảm bảo nguồn nhân lực, hoàn thiện hệ thống
chăm sóc y tế, nâng cao chất lượng các dịch vụ điều trị.
- Bảo đảm sự thuận lợi, dễ tiếp cận các dịch vụ y tế cho người
có HIV đồng thời tăng cường hiệu quả trong công tác điều trị.
Kết luận chƣơng 3
Qua nghiên cứu các quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền
được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV có thể nhận thấy,
để bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có
HIV cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp từ việc hoàn thiện
thể chế, chính sách đến kiện toàn hệ thống chăm sóc y tế từ tuyến
tỉnh đến tuyến xã phường và quan trọng nhất là các giải pháp nhằm
bảo đảm nguồn tài chính cho các hoạt động tư vấn, chăm sóc, điều trị
cho người có HIV. Bên cạnh đó hoạt động truyền thông, giáo dục
nhằm thay đổi nhận thức, quan niệm cho những người có HIV,
những người hoạt động trong ngành y tế và những thành viên khác
trong xã hội cũng là biện pháp rất quan trọng trong việc làm giảm sự
kỳ thị, xa lánh, phân biệt đối xử của cộng đồng đối với những người
có HIV, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho người có HIV được tiếp cận
và thụ hưởng quyền của mình.


21


KẾT LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu luận văn rút ra kết luận sau:
Người có HIV thuộc nhóm người dễ bị tổn thương, luôn sống
trong sự kỳ thị, xa lánh, phân biệt đối xử của cộng đồng khi mà bản
thân phải chống chọi với tình trạng sức khỏe bị sụt giảm nghiêm
trọng cả về thể chất và tinh thần. Chính vì nhu cầu được bảo đảm về
việc chăm sóc, điều trị sức khỏe là nhu cầu vô cùng bức thiết của
những người có HIV.
Trong thời gian qua, bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe của người có HIV đã đạt được những thành tựu nhất định
góp phần đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS. Tuy nhiên vẫn còn có những
hạn chế khiến cho những người có HIV gặp khó khăn trong việc tiếp
cận, thụ hưởng quyền của mình trong đó nguyên nhân chính bắt
nguồn từ sự cắt giảm tài trợ từ nước ngoài cho hoạt động phòng
chống HIV dẫn đến khó khăn trong tài chính để triển khai các hoạt
động chăm sóc, điều trị cho người có HIV. Ngoài ra còn có các
nguyên nhân khác như chính sách pháp luật chưa phù hợp, hệ thống
chăm sóc y tế chưa được kiện toàn, vẫn có thái độ kỳ thị từ cộng
đồng thậm chí từ những cán bộ, nhân viên tại các cơ sở điều trị đối
với người có HIV.
Bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho người
có HIV đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó đáng
lưu ý là nhóm giải pháp chính sách, pháp luật và tài chính nhằm tạo
tiền đề cho mọi hoạt động tư vấn, chăm sóc, điều trị cho người có
HIV. Việc bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
người có HIV là biện pháp hữu hiệu để phòng, chống HIV lây lan

trong cộng đồng.

22



×