Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh Bến Tre (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.77 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH VĂN TRUNG

GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẾN TRE

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60.38.01.02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: TS: Nguyễn Văn Thuận

Phản biện 1: .........................................................................
.........................................................................
Phản biện 2: .........................................................................
.........................................................................

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội vào lúc ....... giờ ........ ngày .........
tháng ........ năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân đã
được Hiến pháp và pháp luật Nhà nước ghi nhận. Công dân thực hiện
quyền tố cáo là nhằm báo cho cơ quan nhà nhà nước biết về hành vi
vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Thông qua đó góp phần
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và
cá nhân.
Tuy nhiên, hiệu lực, hiệu quả, kết quả giải quyết tố cáo của
các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong
những năm quan chưa cao, do nhiều nguyên nhân khác nhau, còn
bộc lộ một số hạn chế như: việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn tố
cáo còn chưa đúng, còn đùn đẩy, né tránh trách nhiệm; lợi dụng
quyền tố cáo để tố cáo sai sự thật; kết quả xử lý, giải quyết một số vụ
việc chưa hợp lý, hợp tình; việc áp dụng pháp luật trong giải quyết
chưa chính xác, chưa đúng trình tự, cách thức và các bước tiến hành
giải quyết tố cáo; việc thực hiện kết luận, quyết định xử lý về tố cáo
chưa nghiêm… nên hiệu quả giải quyết chưa đáp ứng theo yêu cầu.
Vì vậy, để tìm hiểu rõ hơn cơ sở lý luận và thực trạng giải quyết
tố cáo trên địa bàn tỉnh Bến Tre, học viên chọn đề tài “Giải quyết tố
cáo của các cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh Bến Tre”

1



làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành
chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận, thực tiễn về giải quyết tố cáo
của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre, luận
văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quả giải quyết tố
cáo của các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và trên địa bàn tỉnh
Bến Tre nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về giải quyết tố cáo của các cơ
quan hành chính nhà nước; Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết
tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến
Tre, nhằm chỉ ra những vướng mắc, bất cập, hạn chế trong quá trình
thực hiện, về thẩm quyền cũng như trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo
của các cơ quan hành chính nhà nước; Đề xuất giải pháp đảm bảo
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo của các cơ
quan hành chính nhà nước và những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung đối
với các quy định của pháp luật hiện hành.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là những quy định
hiện hành của pháp luật về tố cáo và thực tiễn công tác giải quyết tố
cáo của các cơ quan hành chính nhà nước.
2


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: công tác giải quyết tố cáo của các cơ

quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
- Về thời gian nghiên cứu: Công tác giải quyết tố cáo của các
cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre từ năm 2012
đến năm 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp tổng hợp,
phân tích, phương pháp so sánh, gắn lý luận với thực tiễn để chọn lọc
nghiên cứu về giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính. Bên cạnh
tiếp nhận các phương pháp nêu trên, đề tài cũng áp dụng các phương
pháp tiếp cận đa ngành, liên ngành giữa khoa học hành chính và khoa
học pháp lý.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Một là, làm rõ các vấn đề lý luận về giải quyết tố cáo của các
cơ quan hành chính nhà nước.
Hai là, trình bày những quy định của pháp luật về thẩm quyền,
thủ tục giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ba là, phân tích, đánh giá tình hình tố cáo thuộc thẩm quyền
giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước, hoạt động giải
quyết tố cáo và thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tố cáo
của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
Bốn là, đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà
3


nước; đảm bảo công tác quản lý nhà nước có hiệu lực, hiệu quả, đảm
bảo an ninh trật tự xã hội, đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích
hợp pháp của người tố cáo.
Với các kết quả nghiên cứu trên, luận văn có thể là tài liệu tham

khảo cho các nhà hoạt động thực tiễn cũng như những người làm công
tác nghiên cứu, giảng dạy.
7. Cơ cấu
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn
được cơ cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về giải quyết tố cáo của các
cơ quan hành chính nhà nước.
Chương 2. Thực trạng giải quyết tố cáo của các cơ quan hành
chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước từ thực
tiễn tỉnh Bến Tre.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm, đặc điểm tố cáo thuộc phạm vi giải quyết
của cơ quan hành chính nhà nước.
1.1.1. Khái niệm tố cáo thuộc phạm vi giải quyết của cơ
quan hành chính nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm tố cáo nói chung
Theo quy định của Luật tố cáo thì tố cáo được hiểu: là việc
công dân theo thủ tục do Luật tố cáo quy định báo cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của
bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
cơ quan, tổ chức.

1.1.1.2. Khái niệm tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan hành chính nhà nước:
Như vậy, khái niệm về tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của
cơ quan hành chính nhà nước được hiểu là : việc công dân báo cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm và cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức
trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cũng như hành vi vi phạm
pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đối với việc chấp
hành quy định pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.
1.1.2. Đặc điểm tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan hành chính nhà nước
5


Thứ nhất, chủ thể là cá nhân, công dân thực hiện quyền tố
cáo, không phải là cơ quan hay tổ chức.
Thứ hai, đối tượng tố cáo là mọi hành vi vi phạm pháp luật,
có thể là tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức,
viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ hoặc cũng có thể là tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh
vực của các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân..
Thứ ba, chủ thể giải quyết tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ tư, giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận
về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo.
Đây là thủ tục được áp dụng trong hoạt động quản lý hành chính nhà
nước mang tính quyền lực nhà nước..
1.2. Giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà
nước.
1.2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật về

giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta
Quá trình phát triển của pháp luật về tố cáo, chúng ta có thể
phân chia quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về giải
quyết tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta thành ba giai
đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Từ 1945 đến năm 1992
Giai đoạn 2: Từ năm 1992 đến năm 2011
Giai đoạn 3: Từ năm 2011 đến nay

6


1.2.2. Quy định của pháp luật về giải quyết tố cáo của cơ
quan hành chính nhà nước
1.2.2.1. Đối tượng thực hiện quyền tố cáo
Đối tượng thực hiện quyền tố cáo là công dân Việt Nam và
người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam.
1.2.2.2. Nguyên tắc giải quyết tố cáo
Việc giải quyết tố cáo phải kịp thời, chính xác, khách quan,
đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định pháp
luật; bảo đảm an toàn cho người tố cáo; bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người bị tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo.
1.2.2.3. Thẩm quyền giải quyết tố cáo của các cơ quan hành
chính nhà nước
Thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật
của cán bộ, công chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ: Quy định tại
Điều 13 Luật tố cáo.
Thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp
luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực:: Quy định tại Điều 31
của Luật tố cáo.

1.2.2.4. Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo của các cơ quan
hành chính nhà nước
Theo quy định của Luật tố cáo và tại Điều 18 của Luật tố cáo,
việc giải quyết tố cáo được thực hiện theo trình tự sau đây: Tiếp
nhận, xử lý thông tin tố cáo; Xác minh nội dung tố cáo; Kết luận nội
dung tố cáo; Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo; Công khai kết
luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo.
7


Như vậy, giải quyết tố cáo có thể khái quát thành các bước
như sau: Thứ nhất: Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo; Thứ hai: Xác
minh nội dung tố cáo;Thứ ba: Kết luận nội dung tố cáo; Thứ tư: Xử
lý tố cáo của người giải quyết tố cáo; Thứ năm, công khai kết luận
nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo:
1.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động giải quyết tố cáo
của các cơ quan hành chính nhà nước
Thứ nhất: Nhận thức về tố cáo và việc giải quyết tố cáo
Thứ hai: Mức độ hoàn thiện của Hệ thống pháp luật
Thứ ba:Ý thức trách nhiệm, trình độ năng lực, đạo đức của
người có trách nhiệm giải quyết tố cáo
Kết luận chương 1
Trong chương 1, Luận văn đã đưa ra khái niệm chung về tố
cáo và khái niệm, đặc điểm tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của
cơ quan hành chính nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật của
cán bộ, công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi
vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực; xác định
nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết tố cáo của các cơ
quan hành chính nhà nước và phân tích các yếu tố tác động đến hoạt
động giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính. Qua đó, làm cơ

sở, để tiến hành phân tích trong chương tiếp theo nhằm làm rõ thực
trạng vể giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên
địa bàn tỉnh Bến Tre.

8


Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE
2.1. Tình hình tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của các
cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre ( thời
gian năm 2012 đến tháng 2016)
Số liệu báo cáo của UBND tỉnh Bến Tre về công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng các năm
2012, 2013, 2014, 2015 và năm 2016. Cho thấy, đơn tố cáo thuộc
thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính trên địa bàn không
nhiều, tổng số đơn nhận trong 05 năm là 159 đơn, trung bình có
khoảng 2,65 đơn/tháng. Tình hình tố cáo trên bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân khác nhau, chủ quan có, khách quan có, trong đó phát
sinh chủ yếu là tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ,
công chức trong việc thi hành nhiệm vụ, công vụ.
2.2. Tổ chức và hoạt động giải quyết tố cáo của cơ quan
hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre
2.2.1. Tổ chức và hoạt động giải quyết tố cáo của cơ quan
hành chính trên địa bàn tỉnh Bến Tre
Thứ nhất: Cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết tố cáo
cấp tỉnh, gồm: UBND tỉnh và các sở
Thứ hai: Cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết tố cáo

cấp huyện: Uỷ ban nhân dân huyện và Ủy ban nhân dân thành phố
Bến Tre
9


Thứ ba: Cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết tố cáo
cấp xã: Uỷ ban nhân dân xã, phường và thị trấn
2.1.2. Kết quả giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết
của các cơ quan hành chính trên đại bàn tỉnh Bến Tre
Kết quả giải quyết tố cáo bình quân 05 năm gần đây (từ năm
2012 đến năm 2016), của các cơ quan hành chính trên địa tỉnh là
129/159 đơn, đạt tỷ lệ 81,13 %.
Với kết quả cụ thể như sau: Kết quả giải quyết: Tố cáo đúng
11/129 đơn, tỷ lệ 8,53%; tố cáo sai 79/129 đơn, tỷ lệ 61,24%; tố cáo
có đúng có sai 39/129 đơn, tỷ lệ 30,23%., tổng số tiền, tài sản xử lý,
thu hồi 1.545 triệu đồng; Việc chấp hành thời gian giải quyết: đúng
thời gian 104/129 đơn, tỷ lệ 80,62%; không đúng thời gian 25/129
đơn, tỷ lệ 19,37%.; Việc thi hành quyết định xử lý tố cáo: tổng số
quyết định phải tổ chức thực hiện 47 quyết định; đã thi hành 45/47
quyết định, tỷ lệ 95,74%.
2.3. Đánh giá việc thực hiện pháp luật về tố cáo và kết quả
giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa
bàn tỉnh Bến Tre
2.3.1.Nhận xét, đánh giá việc thực hiện các quy định pháp
luật về tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước.
Khi nghiên cứu các quy định pháp luật về giải quyết tố cáo
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước. Tác
giả nhận thấy các quy định của pháp luật cơ bản đáp ứng theo yêu
cầu của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.

10


Tuy nhiên, bên cạnh những những ưu điểm đó, các quy
định pháp luật về giải quyết tố cáo vẫn còn một số hạn chế như
sau:
- Quy định về công tác tổng hợp báo cáo, tiếp nhận, phân loại
và xử lý đơn tố cáo chưa rõ ràng và cụ thể; thẩm quyền và kết quả
tiếp nhận, giải quyết giải quyết của các cơ quan; tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật của cán bộ công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ,
công vụ và hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà
nước ở các lĩnh vực.
- Về thẩm quyền giải quyết tố cáo: Khoản 1 Điều 12 Luật Tố
cáo quy định “Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện
nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng
đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên
chức đó giải quyết”. Nguyên tắc xác định thẩm quyền và thẩm quyền
giải quyết cụ thể của từng chức danh, cơ quan chưa được hiểu thống
nhất.
+ Thực tế, việc áp dụng xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo
theo quy định còn vướng mắc khi xác định thẩm quyền giải quyết tố
cáo là tại thời điểm tố cáo hay tại thời điểm người bị tố cáo thực hiện
hành vi bị tố cáo. Xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo trong
trường hợp người bị tố cáo đã chuyển công tác; cán bộ, công chức đã
nghỉ việc, nghỉ hưu nhưng bị tố cáo về hành vi vi phạm lúc đương
nhiệm; tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức tại
thời điểm cán bộ, công chức đó giữ chức vụ thấp, nhưng tại thời
điểm tố cáo đã giữ chức vụ cao hơn.
11



+ Khoản 1, Điều 13 của Luật Tố cáo về thẩm quyền giải quyết
tố cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đối với hành vi vi phạm
pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công
chức do mình quản lý trực tiếp. Qua nghiên cứu các quy định của
pháp luật có liên quan, pháp luật về cán bộ công chức cho thấy cán
bộ, công chức cấp xã do Chủ tịch Ủy ban nhân cấp huyện tuyển dụng
hoặc bổ nhiệm nên khi có hành vi vi phạm sẽ không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
+ Khoản 2, Điều 13 Luật Tố cáo quy định “Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm
pháp luật trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ
tịch Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, người đứng đầu, cấp phó của
người đứng dầu cơ quan chuyên môn thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực
tiếp”. Việc hiểu khái niệm “quản lý”, “bổ nhiệm, quản lý trực tiếp”
còn chưa thống nhất, chưa cụ thể, rõ ràng. Như vây đối với cán bộ,
công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp huyện nếu bị tố cáo thì ai là người có thẩm quyền giải quyết.
- Về thời hiệu tố cáo: Thực tế hiện nay có tố cáo về hành vi vi
phạm pháp luật đã diễn ra từ lâu, không còn tính nguy hiểm cho xã
hội nhưng cơ quan nhà nước vẫn thụ lý và xem xét, giải quyết. Điều
này gây tốn kém, lãng phí trong quá trình giải quyết tố cáo. Pháp luật
hiện hành không quy định về thời hiệu tố cáo hành chính. Do vậy,
cần phải có quy định về thời hiệu tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực hành chính để phù hợp với pháp luật Hình sự, Luật xử
12


lý vi phạm hành chính, pháp luật về cán bộ công chức. Thời hiệu xử

lý kỷ luật cán bộ, công chức quy định là 02 kể từ khi có hành vi vi
phạm.
- Về thời hạn giải quyết tố cáo: Điều 21 Luật Tố cáo quy định
thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố
cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ
ngày thụ lý giải quyết tố cáo. Trường hợp cần thiết, người có thẩm
quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn giải quyết một lần nhưng
không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày.
Quy định như vậy còn mang tính chung chung, cần quy định thời hạn
giải quyết cụ thể hơn đối với từng cấp, ngành, cũng như đối với các
vụ việc đơn giản, phức tạp phải khác nhau, nhằm tránh kéo dài thời
gian giải quyết. Việc trưng cầu giám định trong quá trình giải quyết
khi xét thấy cần thiết nhưng chưa quy định nguồn kinh phí để tổ
chức thực hiện.
- Việc bảo vệ người tố cáo đã được Luật Tố cáo và Nghị định
số 76/20012/NĐ-CP ngày 3/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Tố cáo quy định. Tuy nhiên, quy định
“khi có căn cứ cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính
mạng, sức khỏe, xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm...”
còn rất chung chung, khó xác định ở chỗ những biểu hiện nào, hành
vi nào thì được coi là có căn cứ. Ngoài ra, chưa có quy định cụ thể về
việc phối hợp giữa các cơ quan trong việc bảo vệ người tố cáo, vì thế
các quy định về bảo vệ người tố cáo chưa thật sự đi vào cuộc sống,
người tố cáo không yên tâm sợ bị đe dọa, trù dập, trả thù dẫn đến tố
13


cáo nặc danh, mạo danh, nên chưa góp phần cùng các cơ quan nhà
nước phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
- Về khen thưởng người tố cáo: Việc khen thưởng phải chính

xác, công bằng, kịp thời, bảo đảm thống nhất giữa tính chất, hình
thức và đối tượng khen thưởng, đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa động
viên tinh thần với khuyến khích bằng lợi ích vật chất. Tố cáo hành vi
tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng chống tham
nhũng, khen thưởng được quy định tại Thông tư liên tịch số
03/2011/TTLT-BNV-TTCP ngày 6/5/2011 của Thanh tra Chính phủ
và Bộ Nội vụ. Riêng việc khen thưởng và trích lập quỹ khen thưởng
theo quy định của Luật Tố cáo hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể.
- Về vấn đề xử lý hành vi vi phạm pháp luật tố cáo: Việc xử lý
hành vi vi phạm các quy định pháp luật về tố cáo theo quy định tại
Điều 46, 47 và Điều 48 Luật Tố cáo còn gặp nhiều khó khăn. Pháp
luật hiện nay còn thiếu các quy định cụ thể, cũng như chế tài đối với
hành vi vi phạm pháp luật của người giải quyết tố cáo, người có trách
nhiệm chấp hành quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo, người
tố cáo lợi dụng quyền tố cáo sai sự thật mang tính trục lợi cá nhân,
xâm hại danh dự, uy tính cơ quan, tổ chức, cá nhân, cũng như hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp…
2.3.2. Nhận xét, đánh giá việc áp dụng pháp luật trong giải
quyết tố cáo và kết quả giải quyết tố cáo của các cơ quan hành
chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre
2.3.2.1.Về ưu điểm:

14


- Việc giải quyết tố cáo có bám sát nhu cầu nhiệm vụ chính trị
của Đảng, Nhà nước cũng như sự lãnh chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban
nhân dân tỉnh; về thẩm quyền và thủ tục giải quyết tố cáo phù hợp
với tình hình thực tế tại địa phương.
- Công tác tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn thư ngày càng nề

nếp hơn, việc tiếp nhận và xử lý đơn tố cáo được thực hiện theo quy
định.
- Công tác giải quyết tố cáo được thực hiện đúng thẩm quyền,
trình tự thủ tục cũng đã góp phần đẩy nhanh quá trình cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước của
các cơ quan hành chính nói riêng và cả tỉnh Bến Tre nói chung.
- Nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của công dân được
nâng lên. Tinh thần trách nhiệm, nhận thức, ý thức chấp hành pháp
luật của cán bộ, công chức làm nhiệm vụ xác minh đề xuất giải
quyết, người có thẩm quyền giải quyết, trách nhiệm của các cơ quan,
tố chức, cá nhân có liên quan có nhiều chuyển biến tích cực.
- Với quy định về thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết tố
cáo theo quy định của pháp luật về tố cáo, trong thời gian qua các cơ
quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã giải quyết kịp
thời và có hiệu quả 129 đơn tố cáo, với tổng số tiền, tài sản xử lý, thu
hồi là 1.545 triệu đồng; chất lượng giải quyết được nâng lên, đơn tố
cáo được giải quyết đúng thời gian quy định, các vụ việc phức tạp đã
được giải quyết dứt điểm, tỷ lệ thi hành quyết định xử lý tố cáo
tương đối cao 45/47 quyết định, đạt tỷ lệ 95,74%.
2.3.2.1.Về hạn chế:
15


Công tác giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà
nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã được một số kết quả nhất định, tuy
nhiên vẫn còn một số hạn chế như sau:
- Công tác báo cáo tổng hợp việc tiếp nhận, phân loại và xử lý
đơn tố cáo chưa rõ ràng và cụ thể; chưa xác định số đơn tiếp nhận, số
đơn thuộc thẩm quyền giải quyết và kết quả giải quyết tố cáo của các
cơ quan hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; chưa phân định

được số lượng đơn tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ
công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi
phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước ở các lĩnh vực.
- Về tiếp nhận, phân loại và xử lý đơn tố cáo. Tiếp nhận đơn
còn thiếu sót chưa giao biên bản ghi nội dung tố cáo cho người tố
cáo; việc phân loại đơn còn nhầm lẫn giữa vụ việc khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh. Việc mở sổ sách theo dõi, ghi chép tiếp công
dân còn chưa đầy đủ, thiếu tính hệ thống, nội dung sơ sài, dẫn tới
việc kiểm tra, theo dõi và tổng hợp báo cáo còn gặp khó khăn. Có
trường hợp đề xuất thụ lý đơn tố cáo chưa đúng quy định, không
đúng thẩm quyền và điều kiện thụ lý.
- Việc ban hành quyết định thụ lý và thông báo thụ lý đơn tố
cáo thuộc thẩm quyền không đúng quy định và chưa bảo đảm đúng
thời gian quy định; việc đề xuất phân công thụ lý giải quyết đơn chưa
phù hợp với chức năng nhiệm vụ của cơ quan tham mưu. Một số
trường hợp cán bộ tiếp dân, xử lý đơn chưa nêu cao tinh thần trách
nhiệm, còn né trách nhiệm, chưa bám sát vào thủ tục khi tiếp nhận

16


đơn tố cáo, có trường hợp không thụ lý giải quyết tố cáo cũng không
ra thông báo trả lời nêu rõ lý do.
- Quá trình xác minh giải quyết tố cáo còn cứng nhắc, cán bộ
xác minh đôi lúc tinh thần trách nhiệm chưa cao, sợ đụng chạm, còn e
dè, nể nang, tham mưu giải quyết cho xong, cho hết nhiệm vụ mà chưa
quan tâm nhiều đến kết quả giải quyết; việc xác định, lựa chọn pháp
luật, quy phạm pháp luật để áp dụng đôi lúc phù hợp; chưa tập trung
xác minh thực tế, thu thập chứng cứ để làm rõ sự việc mà chủ yếu do
người tố cáo cung cấp. Biên bản làm việc, xác minh, thể thức báo cáo

xác minh, kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo chưa tuân
thủ đúng về biểu mẫu, thể thức ban hành văn bản…
- Việc gửi kết luận nội dung tố cáo, quyết định, văn bản xử lý
tố cáo, văn bản thông báo kết quả giải quyết tố cáo và công khai kết
luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo còn
hạn chế và chưa đúng quy định

tại Điều 11, Nghị định số

76/2012/NĐ-CP của Chính phủ. Một số vụ việc thời hạn giải quyết
còn kéo dài hơn so với thời gian quy định
- Công tác giải quyết tố cáo được quan tâm tổ chức thực hiện
nhưng việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện kết
luận, quyết định xử lý còn hạn chế, chủ yếu thông qua báo cáo của
các đơn vị. Việc trang bị cơ sở vật chất tại nơi tiếp công dân, xử lý
đơn thư tố cáo còn chưa đầy đủ, chưa có cơ sở dữ liệu và phần mềm
kết nối chung giữa các ơ quan, điều này cũng làm ảnh hưởng đến
công tác tổng hợp, thống kê báo cáo theo quy định. Thủ tục tiếp nhận
và giải quyết tố cáo chưa đăng tải trên trang thông tin điện tử của Uỷ
17


ban nhân dân tỉnh, trên thực tế chỉ tổ chức công khai thông qua hình
thức niêm yết tại nơi tiếp dân, trụ sở tiếp dân.
Nguyên nhân hạn chế: Các hạn chế nêu trên do các nguyên
nhân chủ yếu sau đây:
- Do nhu cầu hội nhập để phát triển kinh tế của đất nước, nên
quy định của pháp luật thường xuyên có sự thay đổi, trong đó có pháp
luật về tố cáo, nhất là pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh
vực. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ trong

hoạt động giải quyết tố cáo chưa thường xuyên cập nhật thông tin,
kiến thức pháp luật mới hoặc chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ nên ảnh
hưởng ít nhiều đến hiệu quả và kết quả giải quyết.
- Quy định của pháp luật về tố cáo còn hạn chế bất cập, chưa
cụ thể rõ ràng các nội dung trong công tác tổng hợp báo cáo (số vụ
việc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; số vụ
việc tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ công chức trong
việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và số vụ việc tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước ở các lĩnh vực);
việc xác định thẩm quyền giải quyết; về thời hiệu thụ lý giải quyết;
đồng thời chưa có chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật của
người giải quyết tố cáo, người có trách nhiệm chấp hành quyết định
xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo, người tố cáo lợi dụng quyền tố cáo
sai sự thật …
- Nhận thức, tư duy về quản lý nhà nước và thi hành nhiệm vụ
của một số cán bộ, công chức, còn hạn chế, chưa thấy được hết mục
đích, ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của công tác giải quyết tố
18


cáo thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước; chưa
phân định rõ rõ mục đích, ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng giữa
công tác giải quyết tố cáo đối vi hành vi vi phạm pháp luật của cán
bộ, công chức và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật
trong hoạt động quản lý nhà nước ở các lĩnh vực.
- Đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tiếp dân, nhận và
xử lý đơn thư và tham mưu giải quyết tố cáo còn thiếu, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm còn hạn chế nhất định, việc áp
dụng chính sách, pháp luật vào quá trình giải quyết chưa đúng quy
định. Chế độ đãi ngộ cho cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tiếp dân,

nhận, và xử lý đơn thư một số nơi thực hiện chức đúng quy định.
Hiện nay, biên chế công chức Thanh tra tỉnh, Thanh tra cấp huyện
còn ít và đặc biệt là Thanh tra sở và cơ quan được giao chức năng
thanh tra chuyên ngành còn ít – đây là những cơ quan tham mưu trực
tiếp trong công tác giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của
các cơ quan hành chính trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
- Nhận thức, sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của
công dân còn hạn chế, chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
mình trong quá trình tố cáo; việc cung cấp chứng cứ cho cơ quan
chức năng và người có thẩm quyền giải quyết tố cáo chưa đầy đủ, cụ
thể, rõ ràng.
- Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp tại địa phương trong
quá trình giải quyết còn chưa chặt chẽ, chưa kịp thời. Trong một số
vụ việc, cơ quan được yêu cầu cung cấp chứng cứ, thông tin phục vụ
cho việc giải quyết tố cáo còn chưa quan tâm thực hiện đúng thời
19


gian. Vì thế, cơ quan thụ lý, xác minh giải quyết phải chờ kết quả trả
lời dẫn đến kết quả giải quyết trễ thời gian so với quy định. Vai trò,
giám sát của Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận tổ quốc các cấp
còn những hạn chế nhất định.
Kết luận chương 2
Nội dung chương 2, tác giả tập trung nghiên cứu tình hình tố
cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước
trên địa bàn tỉnh Bến Tre thời gian từ năm 2012 đến năm 2016,
nguyên nhân phát sinh tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của
cán bộ, công chức trong việc thi hành nhiệm vụ, công vụ và hành vi
vi pháp pháp luật trong hoát động quản lý nhà nước ở các lĩnh vực
trên địa bàn tỉnh; nghiên cứu tổ chức và hoạt động giải quyết tố cáo

của các cơ quan hành chính trên địa bàn tỉnh Bến Tre từ cấp tỉnh đến
cấp xã; phân tích việc áp dụng pháp luật về tố cáo và kết quả giải
quyết tố cáo của các cơ quan hành chính, từ đó đưa ra nhận xét đánh
giá về ưu điểm cũng như hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về
thẩm quyền, trình tự thủ tục và kết quả hiệu quả giải quyết tố cáo.
Trên cơ sở phân tích đánh giá đó, tác giả tiến hành nghiên cứu và
đưa ra quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết
tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh Bến Tre
trong chương 3.

20


Chương 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG,
HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO CỦA CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẾN TRE
3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tố
cáo của các cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh Bến Tre
Thứ nhất: Quán triệt chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà
nước
Thứ hai: Đảm bảo thực hiện giải quyết tố cáo của cơ quan
hành chính phải mang tính thống nhất, đồng bộ và phù hợp với thực
tiễn
Thứ ba: Đảm bảo công khai, minh bạch, cụ thể và thuận tiện cho
người dân thực hiện
Thứ tư: Đảm bảo giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính
phải đi đôi với tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu và năng
lực cán bộ, công chức
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tố

cáo của cá cơ quan hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện
nay
Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng trong việc
thực hiện giải quyết tố cáo của cơ quan hành chính
Thứ hai:Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tố cáo của cơ quan
hành chính
Thứ ba:Nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm, chế độ kỷ luật
của đội ngũ cán bộ, công chức trong công tác giải quyết tố cáo.
21


Thứ tư: Tăng cường thanh tra, giám sát công tác giải quyết tố cáo
Thứ năm:Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật nói chung và pháp luật về giải quyết tố cáo nói riêng
Thứ sáu:Đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động giải quyết tố
cáo của cơ quan hành chính
Kết luận chương 3
Trên cơ sở phân tích thực tiễn giải quyết tố cáo của các cơ
quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre, tác giả đã đưa
ra quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết
tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến
Tre nói riêng và các địa phương khác nói chung.

22


KẾT LUẬN

Giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội
dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo. Đây là

trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền trong
các cơ quan của hệ thống chính trị nước ta. Tố cáo thuộc thẩm quyền
giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước bao gồm, tố cáo đối
với hành vi vi phạm pháp luật luật của cán bộ, công chức trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật trong
hoạt động quản lý nhà nước ở các lĩnh vực. Thông qua hoạt động giải
quyết tố cáo, cơ quan nhà nước kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm
hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, cũng như hành vi
vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các lĩnh
vực, qua đó nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ pháp luật và trật tự xã
hội. Vấn đề này có nghĩa quan trọng đối với việc cải cách nền hành
chính, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân và quá trình hội nhập quốc tế. Qua
công tác giải quyết tố cáo, góp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý hành chính nhà nước và phát triển kinh tế xã hội ở địa
phương và đất nước.
Với ý nghĩa đó, Đề tài “Giải quyết tố cáo của các cơ quan
hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh Bến Tre”, trên cơ sở kế thừa
kinh nghiệm nghiên cứu các đề tài khoa học trước; nghiên cứu các
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và những văn bản quy phạm pháp luật
23


×