Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Thực hiện pháp luật về người khuyết tật từ thực tiễn thành phố hà nội (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.89 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HẬU PHƯỢNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 60.38.01.02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Văn Nghĩa

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học xã hội


hồi

giờ

ngày tháng năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia thành viên tích cực của các công ước quốc tế về
quyền con người, , bao gồm hai Công ước quan trọng được Liên hợp quốc (LHQ)
thông qua vào năm 1966 và Việt Nam phê chuẩn năm 1982, đó là: Công ước quốc
tế về quyền dân sự, chính trị (ICCPR), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa (ICESCR), đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về quyền của
người khuyết tật (năm 2007). Nhà nước Việt Nam luôn chăm lo, quan tâm đặc
biệt đến quyền của các nhóm DBTT, trong đó có NKT, thông qua việc ghi nhận,
tôn trọng và thực hiện tận tâm, hiệu quả và có trách nhiệm đối với các nghĩa vụ
quốc tế và các quy định vêc quyền con người. Sự thay đổi nhận thức từ NKT chỉ
được coi là những đối tượng chính sách, những người bệnh, hay nhóm xã hội,
sang là chủ thể thụ hưởng đầy đủ của các quyền con người, trong hệ thống luật,
chính sách và thực tiễn, đã và đang mang lại những chuyển biến lớn trong luật
pháp quốc gia và quốc tế và việc tôn trọng, bảo đảm và thực hiện các quyền con
người của NKT.
Ở Việt Nam, người khuyết tật là một trong những nhóm đối tượng xã hội
được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm trong quá trình phát triển.Hỗ trợ người
khuyết tật khắc phục khó khăn, hòa nhập xã hội, góp phần vào công cuộc xây
dựng đất nước là trách nhiệm pháp lý của nhà nước, xã hội. Tinh thần đó thể hiện

trong Nghị quyết Đại hội Đảng; Sác lệnh; Nghị định; Hiến pháp các năm 1946,
1959, 1980, 1992, hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001), Luật Người khuyết tật năm
2010... Sự hiện diện của vấn đề người khuyết tật trong nội dung các Hiến pháp
Việt Nam đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này đối với xã hội Việt Nam.
Hiến pháp đã khẳng định: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ
hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp
người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn
khác” [19], “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu
tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người
nghèo được học văn hóa và học nghề.” [19].
Cụ thể hóa các quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp, Luật người
khuyết tật năm 2010 cùng với hệ thống các Bộ luật cũng như luật chuyên ngành
quy định chứ những quy phạm liên quan tới người khuyết tật như: Luật người
khuyết tật, Bộ Luật lao động, Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật Hình sự, Luật Giáo dục,
Luật Bình đẳng giới, Luật Bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em, Luật công nghệ
thông tin... và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành luật các quy định liên quan tới
người khuyết tật của các Luật chuyên ngành của Chính phủ, các Bộ, ngành và các
địa phương đã ban hành, tạo ra cơ sở pháp lý cũng như những điều kiện cho người
1


khuyết tật thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính
trị và văn hóa.
Việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật diễn ra ở tất cả các tỉnh thành
trên phạm vi toàn quốc. Tại Hà Nội Thủ đô của nước Việt Nam có nền chính trị kinh tế - văn hóa phát triển.Vì vậy, Thành phố Hà Nội luôn dành những quan tâm
nhất định tới người khuyết tật cũng như chủ trương chính sách pháp luật về người
khuyết tật ngày được quan tâm cũng như ưu tiên phát triển. Trong những năm
thực hiện Luật về người khuyết tật cũng như Hiến pháp, Bộ luật, luật, thông tư,
các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ,các bộ ngành, UBND Thành phố

Hà Nội luôn đi đầu trong việc triển khai và thực hiện chính sách pháp luật về
người khuyết tật luật định cũng như đề ra nhiều hoạt động, chính sách phù hợp
với người khuyết tật tại Thành phố Hà Nội.
Việc làm này giúp cho Pháp luật về người khuyết tật ngày càng đi vào thực
tiễn đời sống và các chính sách cho người khuyết tật được thực hiện hiệu quả giúp
cho người khuyết tật có được điều kiện tốt nhất để thể hòa nhập với cộng đồng.
Tuy nhiên việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật trên Thành phố Hà Nội
còn nhiều khó khăn nhất là trong vấn đề huy động các nguồn lực từ xã hội trợ
giúp họ hoà nhập cộng đồng cũng như phát huy tiềm năng của chính người khuyết
tật đo là những khó khăn về: Nhận thức của xã hội về vấn đề người khuyết tật còn
hạn chế; Sự thiếu đồng bộ trong hệ thống chính sách khiến nhiều người khuyết tật
gặp trở ngại hoà nhập; các cơ chế để thực hiện pháp luật còn nhiều bất cập chưa
có sự đồng bộ và thiếu hiệu quả cao; huy động sự ủng hộ từ bản thân nội lực các
cơ quan tổ chức trong nước chưa nhiều; chưa biết sử dụng có hiệu quả nguồn ủng
hộ từ các tổ chức quốc tế mà nguyên nhân chính là do năng lực quản lý; điều kiện
giao thông chưa tiếp cận; các chính sách an sinh xã hội như giáo dục, y tế, việc
làm còn chưa đi vào chiều sâu và hiệu quả; bản thân nhiều người khuyết tật còn
chưa khẳng định được tiếng nói của chính mình trong xã hội do mặc cảm, tự ti…
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu: “Thực hiện pháp luật về người
khuyết tật từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ của mình góp
phần làm rõ cả về lý luận và thực tiễn từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp
đảm bảo việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật tại Thành phố Hà Nội nói
riêng và cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật diễn ra ở rất nhiều lĩnh vực
liên quan tới nhiều Bộ, ngành, các cấp chính quyền vì vậy có rất nhiều những
nghiên cứu, đánh giá trong quá trình tổ chức và hoạt động thực hiện pháp luật về
người khuyết tật.


2


Quyền con người của các nhóm dễ bị tổn thương nói chung và quyền của
người khuyết tật nói riêng luôn là một đề tài được nghiên cứu, tiếp cận và phân
tích từ nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt từ phương diện cách tiếp cận dựa trên
quyền con người, pháp luật và chính sách nói chung cũng như pháp luật về quyền
con người nói riêng. Hàng loạt các công trình nghiên cứu đã đề cập khái quát,
tổng thể và nhiều chiều về quyền con người nói chung và quyền của người khuyết
tật nói riêng. Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của các chuyên gia luật và
quyền con người, đó là:
- GS. Võ Khánh Vinh, chủ biên, Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên
ngành luật học , Nxb KHXH H., 2010. Trong công trình nghiên cứu này, các tác giả
đã phân tích và làm rõ đặc trưng và nội dung cơ bản của khoa học về quyền con người
từ cách tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học.Công trình đã làm nổi bật được khái
niệm, nội hàm và đặc điểm của các quyền con người, trong đó có các quyền của các
nhóm dễ bị tổn thương bao gồm quyền của người khuyết tật.
- GS.TS. Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao – Lã Thanh Tùng (Đồng
chủ biên) (2011), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, tái bản lần
thứ nhất có sửa đổi, bổ sung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Các tác giả đã làm rõ
những khía cạnh về lý luận và pháp luật, nhất là pháp luật quốc tế và quốc gia về
quyền con người, bao gồm một số chương, phần và nội dung trực tiếp đề cập đến
quyền của người khuyết tật như là nhóm DBTT.
- GS.TS. Tạ Ngọc Tấn, PGS.TS. Đặng Dũng Chí và PGS.TS. Hoàng Văn
Nghĩa (đồng chủ biên), Sách Thành tựu quyền con người ở Việt Nam 70 năm qua,
Nxb Lý luận chính trị, H., 2016. Với hơn 500 trang được tiếp cận từ góc độ lý
luận và thực tiễn, đây là công trình nghiên cứu công phu và tương đối toàn diện sự
phát triển của các quyền con người, bao gồm các quyền về dân sự chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hóa, quyền của các nhóm DBTT, bao gồm NKT, trong suốt 70 năm
qua kể từ khi lập hiến và lập pháp.

- Viện nghiên cứu quyền con người, H., 2000. Hiến pháp, pháp luật về
quyền con người: kinh nghiệm Việt Nam và Thụy Điển.Các tác giả đã phân tích và
so sánh những điểm tương đồng và khác biệt trong những hệ thống luật và thực
tiễn bảo đảm quyền con người ở Việt Nam và Thụy Điển.
- Công trình nghiên cứu “Cơ chế bảo hiến và quyền con người: kinh
nghiệm CHLB Đức và Việt Nam” do các nhà khoa học của Việt Nam và CHLB
Đức phối hợp nghiên cứu (Hoàng Văn Nghĩa và Đặng Dũng Chí đồng chủ biên,
Nxb Lý luận Chính trị, H., 2014) đã cung cấp cơ sở lý luận từ khía cạnh luật học
và quyền con người về vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết phải xây dựng các
thiết chế bảo hiến và quyền con người.
- Tác phẩm “Chủ nghĩa xã hội và Quyền con người” (Đặng Dũng Chí và
Hoàng Văn Nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2014) đã khái quát sự phát

3


triển lý luận và thực tiễn, bao gồm hệ thống pháp luật và việc thực hiện pháp luật
về quyền con người nói chung và quyền của các nhóm DBTT (trong đó có NKT)
nói riêng, đồng thời chỉ ra những rào cản, thách thức và hạn chế của việc bảo đảm
trong bối cảnh hiện nay.
- Nguyễn Thị Báo (2008) “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Tiến sĩ (Học viện Chính trị hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh).Tác giả đã phân tích và làm rõ khái niệm, bản chất và nội
dung cơ bản của quyền NKT và hệ thống pháp luật về NKT ở Việt Nam hiện nay.
- Các công trình nghiên cứu khác có liên quan từ góc độ phân tích thành
tựu và thực trạng của hệ thống pháp luật về NKT, bao gồm: Phạm Thị Trang
(2016), “Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật – từ thực tiễn tại
Thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ (Đại học Quốc gia Hà Nội); Hồ Thị Trâm
(2013), “Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật”, Luận văn Thạc sĩ (Trường
Đại học Luật Hà Nội); và Trần Thị Thúy (2012), “Chế độ giáo dục đối với người

khuyết tật ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ (Trường Đại học Luật Hà Nội), …đã
tiếp cận từ nhiều góc độ và lĩnh vực khác nhau liên quan đến NKT ở Việt Nam
hiện nay.
- An sinh xã hội đối với lao động là người khuyết tật “Dự án” nâng cao
năng lực của các cơ quan và tổ chức chính quyền Việt Nam trong việc triển khai
Nghị quyết 15/NQTW về một số chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020;
Một số công trình nghiên cứu khác có liên quan tiếp cận NKT từ thực tiễn bảo
đảm, chỉ ra những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện chính sách, pháp luật
về NKT. Cụ thể: “Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Luật người khuyết tật và Đề
án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012- 2020 trên địa bàn thành phố Hà
Nội”, Sở Thương binh lao động và xã hội thành phố Hà Nội; “Kế hoạch Thực
hiện trợ giúp người khuyết tật thành phố Hà Nội giai đoạn 2013-2020”, Sở
Thương binh lao động và xã hội thành phố Hà Nội;Tạo việc làm cho Người
khuyết tật-kinh nghiệm từ một dự án quốc tế;Thái Ninh Thắng , “Sự cần thiết đưa
chuyên đề của Người khuyết tật ở Việt Nam vào giảng dạy trong chương trình các
chuyên đề tự chọn thuộc môn Luật Hiến pháp”, bài trích số 5 tạp chí Luật học,
2008;- Th.S Đỗ Thị Dung, “ Chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật và
phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí Luật học số 10/2013; và Th.S Đinh Thị Cẩm
Hà, “Hoàn thiện các quy định của Hiến pháp bảo đảm quyền của người khuyết
tật”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 9(217) 5/2012.
Một số công trình nghiên cứu cũng đã tiếp cận NKT từ phương diện quyền
con người, đồng thời phân tích và so sánh các quy định của pháp luật quốc gia và
quốc tế về quyền của NKT. Đó là: Đinh Thị Cẩm Hà (2012), “Bảo vệ một số
quyền cơ bản của người khuyết tật. So sánh pháp luật Việt Nam với công ước Liên
hợp quốc về quyền của người khuyết tật”. Sách tham khảo, Thành phố Hồ Chí

4


Minh, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Th.S Nguyễn Thị Báo, “Quyền

của người khuyết tật trong các văn kiện quốc tế về quyền con người”, Tạp chí
Luật học số 10/2007,TS Trần Thái Dương (Đại học Luật Hà Nội), “Phê chuẩn
Công ước về quyền của Người khuyết tật và việc thực thi nghĩa vụ thành viên
công ước”, tạp chí Cộng sản ngày 30/6/2015; - Eric Rosenthal và Viện Quốc tế
bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần thực hiện theo yêu cầu của UNICEF Việt
Nam (tháng 12 năm 2009), “Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt - Đưa Luật pháp
của Việt Nam phù hợp với Công ước Liên Hiệp quốc về Quyền của Người khuyết
tật”,… - Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, Văn phòng điều phối
các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam (NCCD), 2008; Bộ lao động thương
binh và xã hội, (2013), “Chiến lược INCHOEN nhằm “thực hiện hóa” cho người
khuyết tật khu vực Châu Á - Thái Bình Dương”, Nxb Lao động xã hội;
Tuy nhiên, cho tới nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một các
hệ thống và đi sâu về việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật, đặc biệt trên
phạm vi cụ thể: Thành phố Hà Nội.
2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Người khuyết tật, thực hiện pháp luật về người khuyết tật hay việc bảo
đảm quyền của người khuyết tật, luôn là một trong những chủ đề thời sự của các
nhà lập pháp, học giả và hoạt động thực tiễn trên toàn thế giới, đặc biệt là từ sau
khi hệ thống luật nhân quyền liên hợp quốc ra đời (đánh dấu bằng Tuyên ngôn
Thế giới về Nhân quyền năm 1948, 2 Công ước 1966 và 2 Nghị định thư của
Công ước ICCPR). Đã có hàng chục ngàn các công trình nghiên cứu về người
khuyết tật, quyền của người khuyết tật và việc thực thi pháp luật quốc tế, khu vực
và quốc gia về NKT. Điển hình là công trình nghiên cứu “the UN Convention on
the Rights of Persons with Disabilities: European and Scanadivian Perspectives”
do tác giả Gerard Quinn (chủ biên, 2009) đã cung cấp cách tiếp cận của các quốc
gia phát triển ở châu Âu và Bắc Âu về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
chính sách và thực tiễn bảo đảm các quyền của NKT..:
Tác phẩm, “The development of disability rights under international law:
from charity to human rights”, của tác giả Arlene S. Kanter, Abingdon, Rougtlege
Publishers, 2015, đã phân tích và làm rõ những khía cạnh luật pháp quốc tế, nhất

là luật nhân quyền quốc tế, quy định về NKT và quyền của NKT.
Giáo trình nhân quyền quốc tế (Textbook on international human rights),
Rohna K.M. Smith, Nxb Đại học Oxford, phân tích và làm rõ nội hàm, khái niệm
và đặc trưng của các quyền của DBTT trong đó có NKT,…
Công trình nghiên cứu “ASEAN and the convention on the rights of
persons with disabilities: using international law to promote social and economic
development” của tác giả Carole J. Petersen đã phân tích những quy định của luật

5


quốc tế cũng như các cơ chế, thiết chế của ASEAN trong việc bảo đảm quyền của
những người khuyết tật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu về cơ sở lý luận chung về nhà nước cũng như pháp luật
người khuyết tật dựa trên những hiểu biết và thực trạng của việc thi hành pháp
luật người khuyết tật ở nước ta hiện nay cũng như trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Từ đó đưa ra những cái nhìn khái quát từ những hạn chế trên cơ sở đó đưa ra
những cơ sở pháp lí cũng như những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống cơ
sở pháp luật về người khuyết tật và nâng cao hiệu quả của việc thực thi pháp luật
về người khuyết tật.Từ đó góp phần bảo đảm cho quyền và nghĩa vụ của người
khuyết tật trên mọi phương diện kinh tế, chính trị và xã hội giúp họ hòa nhập với
xã hội trong và ngoài nước.
Để đạt được mục đích trên cần thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu về lý luận và thực tiễn liên quan tới người khuyết tật,
cũng như hệ thống pháp luật về người khuyết tật.Trên cơ sở đặc điểm đặc thù của
người khuyết tật với những người không khuyết tật đó tác động tới việc hình
thành cũng như thực thi pháp luật như thế nào về hình thức, vai trò thực hiện pháp
luật về người khuyết tật.Bên cạnh đó cần liên hệ về người khuyết tật cũng như
pháp luật về người khuyết tật với các quốc gia trên thế giới.

Thứ hai, từ những thực trạng thực tế đánh giá phân tích hoạt động thực
hiện pháp luật về người khuyết tật ở Thành phố Hà nội hiện nay kể từ khi ban
hành Luật người khuyết tật 2010 tại những phạm vi cụ thể. Qua những phân tích,
đánh giá cần đánh giá thực trạng pháp luật về người khuyết tật đã thể hiện hạn chế
cũng như nguyên nhân thực trạng của việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật
ở Thành phố Hà Nội.
Thứ ba, từ những nhìn nhận hạn chế để đưa ra những giải pháp cụ thể để
hoàn thiện pháp luật về người khuyết tật và đảm bảo cũng như nâng cao hoạt
động thực hiện pháp luật tại Thành phố Hà Nội.Những giải pháp cần được xây
dựng thống nhất, chặt chẽ và phù hợp với các pháp luật hiện hành và với hoạt
động quản lý nhà nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu Luận văn là pháp luật về người khuyết tật và việc
thực hiện pháp luật về người khuyết tật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện pháp luật về người
khuyết tật trên địa bàn Thành phố Hà Nội, đồng thời giới hạn ở một địa bàn cụ thể
(quận/huyện) của thành phố Hà Nội để phân tích, đánh giá và so sánh.

6


Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Pháp luật về người khuyết tật rất rộng
lớn từ Hiến pháp, Bộ luật, Luật, Thông tư, Nghị định... và rất nhiều văn bản dưới
luật. Tuy nhiên trong luận văn sẽ chú trọng đánh giá về Hiến pháp, các Bộ luật và
các luật chuyên ngành quy định về người khuyết tật (như: Bộ Luật lao động, Bộ
Luật Dân sự, Bộ Luật Hình sự, Luật Giáo dục, Luật Bình đẳng giới, Luật Bảo vệ
và chăm sóc, giáo dục trẻ em, Luật công nghệ thông tin...). Đồng thời, luận văn
chỉ tập trung nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về NKT trên một số lĩnh vực

chủ yếu, bao gồm: lao động-việc làm, giáo dục, sức khỏe và văn hóa-xã hội (hay
việc thực hiện pháp luật về một số quyền cụ thể của NKT, đó là quyền có việc
làm, quyền được giáo dục, quyền về sức khỏe…).
Giới hạn về thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích và làm rõ
việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật từ năm 2010 trở lại đây (kể từ khi có
luật người khuyết tật 2010).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước Việt Nam về
người khuyết tật cũng như các bộ luật khác được sử dụng cho việc nghiên cứu.
5.2. Phương pháp và cách tiếp cận
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể đó là là: phương
pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, khảo cứu tài liệu, thống kê, Luận văn cũng sử
dụng các cách tiếp cận dựa trên bằng chứng (evidence-based) và cách tiếp cận dựa
trên quyền con người (a human rights-based approach),…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiện của luận văn
Luận văn hệ thống hóa các cơ sở lý luận về người khuyết tật, pháp luật về
người khuyết tật. Qua đó nhận biết chung nhất về chủ trương chính sách của nhà
nước trong việc bảo đảm quyền của người khuyết tật thông qua pháp luật. So sánh
pháp luật về người khuyết tật của Việt Nam với các nước khác trên thế giới.
Đánh giá được thực trạng của hoạt động thực hiện pháp luật về người
khuyết tật từ đó nhận thức được những hạn chế và nguyên nhân của nó.
Ý nghĩa thực tiễn luận văn đó là từ những thực tiễn hoạt động đề ra hệ
thống giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về người khuyết tật và giúp hoạt động
thực hiện pháp luật về người khuyết tật diễn ra hiệu quả.
Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu
về pháp luật về người khuyết tật.
7. Cơ cấu của luận văn
Chương 1: Một số lý luận về người khuyết tật và thực hiện pháp luật về

người khuyết tật;

7


Chương 2: Thực trạng người khuyết tật và thực hiện pháp luật về người
khuyết tật từ thực tiễn thành phố Hà Nội;
Chương 3: Quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao thực hiện
pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1 Khái luận chung về người khuyết tật
1.1.1 Khái niệm người khuyết tật
1.1.1.1 Quan niệm về người khuyết tật trên thế giới hiện nay
Thứ nhất, tại Tuyên ngôn của LHQ về quyền của NKT,“người khuyết tật”
là “bất cứ người nào mà không có khả năng tự đảm bảo cho bản thân, toàn bộ
hay từng phần, những sự cần thiết của một cá nhân bình thường hay của cuộc
sống xã hội do dự thiếu hụt bẩm sinh hay không bẩm sinh trong những khả năng
về thể chất hay tâm thần của họ”.[38]
Thứ hai, Công ước quốc tế về các quyền của người khuyết tật (CRPD) đã
nhận định: “khuyết tật là một khái niệm mới và rằng khuyết tật là kết quả của sự
tương tác giữa những người có khiếm khuyết và những rào cản về thái độ và môi
trường mà ở đó hạn chế sự tham gia một cách đầy đủ, và có hiệu quả vào các
hoạt động trên cơ sở bình đẳng với các thành viên khác trong xã hội,”
Thứ ba, thuật ngữ khuyết tật còn được tiếp cận dưới góc độ quyền lao động
việc làm trong một số văn kiện của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) Theo các văn
kiện này, thuật ngữ “người khuyết tật”: “dùng để chỉ người mà triển vọng tìm
được một việc làm thích hợp, cũng như triển vọng tiến bộ về mặt nghề nghiệp, đều
bị giảm sút một cách rõ rệt, do một sự khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần

được Công nhận rõ ràng.”[27]
Tại Trung Quốc quy định: “Người khuyết tật là một trong những người bị
bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm lý hay sinh
lý, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc một phần
khả năng tham gia vào các hoạt động bình thường”[35]
Luật bình đẳng về việc làm của Nam phi định nghĩa NKT là “người bị suy
giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời gian dài hoặc tiếp diễn nhiều
lần, khiến người đó bị hạn chế đáng kể về khả năng tham gia hoặc phát triển sự
nghiệp.”
Có thể thấy rằng, mỗi quốc gia đều có cách quan niệm, quy định khác nhau
tuy nhiên đều có điểm chung đó là đều dựa trên sự suy giảm chức năng làm căn
cứ định nghĩa NKT.

8


1.1.1.2. Các cách tiếp cận khái niệm người khuyết tật
Thứ nhất, cách tiếp cận từ góc độ từ thiện: Cách nhìn nhận của xã hội đối
với NKT chỉ là những người đáng thương, những bi kịch đau khổ mà họ phải chịu
đựng chứ họ chưa được nhìn nhận thấy giá trị của con người họ làm cho họ mặc
cảm về bản thân và xa kánh xã hội hơn.
Thứ hai, cách nhìn nhận dưới góc độ sinh học, y tế hay mô hình cá nhân
cho rằng NKT là do hạn chế của cá nhân của chính con người đó. Điều này dẫn
tới trong thực tế khi họ muốn hòa nhập vào xã hội, họ lại phải đối mặt với những
hình thức phân biệt đối xử khác và họ lại rơi vào vai trò là thụ động.
Thứ ba, cách nhìn nhận dưới góc độ xã hội: đây là mô hình được cho là nền
tảng của những chuyển biến của vấn đề của NKT. Cách tiếp cận này cho thấy
chính xã hội mới biến họ thành khuyết tật, tuy nhiên cách tiếp cận xã hội không
phủ nhận những giá trị của NKT, mô hình này thừa nhận NKT theo cách tích cực
hơn và khiến NKT được hưởng quyền công dân.

Thứ tư, cách nhìn nhận dưới góc độ quyền hay cách tiếp cận dựa trên
quyền (a human rights-based approach. Mô hình này phù hợp với các Công ước
quốc tế về quyền con người cũng như thể hiện việc tôn trọng của quốc gia đối với
các quyền cơ bản của con người.
1.1.1.3. Quan niệm về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm tổng thể về NKT như sau:
“Người khuyết tật là những người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận
cơ thể hoặc có những rối loạn về sinh lý, tâm lý hay một chức năng nào đó của
con người,không phân biệt nguồn gốc gây ra, dấn đến hạn chế một phần hoặc
mất khả năng lao động và gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt, học tập và hòa
nhấp cộng đồng”
1.1.2. Đặc điểm của người khuyết tật
1.1.2.1. Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ sinh học
Đó là nguyên nhân dẫn tới việc NKT bị hạn chế về sức khỏe, việc vận
động, giao tiếp hay tự mình có khả năng thực hiện các công việc cá nhân hàng
ngày, tiếp cận giáo dục, y tế, các dịch vụ an sinh xã hội. NKT thường sống dựa
vào gia đình, cộng đồng vì vậy bản thân họ hay những người khác luôn bi coi là
ghánh nặng.
1.1.2.2. Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế - xã hội.
Có thể nói NKT là nhóm cư dân đặc biệt thiệt thòi về mặt kinh tế và xã hội.
Những gia đình có NKT thường phải đối mặt với việc thiếu nhân lực lao động
trong khi đó lại phải giúp đỡ NKT trong mọi sinh hoạt đời thường.
1.1.3. Người khuyết tật và quyền của người khuyết tật.
Thứ nhất, các quyền dân sự, chính trị bao gồm: Quyền tự do các nhân;
Quyền sống; Quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo tín ngưỡng, tự do biểu đạt,

9


quyền được bầu cử, ứng cử; Quyền được xét xử công bằng, các quyền này chủ

yếu gắn liền với tự do cá nhân [1].
Thứ hai, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa bao gồm: Quyền được hưởng và
duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng; Quyền lao động; Quyền giáo dục; Quyền được
hưởng an sinh xã hội; Quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng
các thành tựu của khoa học.
Thứ ba, các quyền thuộc thế hệ thứ ba, bao gồm: quyền kết đoàn, quyền
phát triển, quyền hòa bình.
NKT có những quyền đặc thù đặc trưng riêng đó là: Quyền được hòa nhập
và hỗ trợ để hòa nhập vào cộng đồng; Quyền được hỗ trợ trong việc đi lại; Quyền
được hỗ trợ để phục hồi chức năng.
1.2. Pháp luật quốc tế về người khuyết tật
1.2.1. Pháp luật quốc tế về người khuyết tật
1.2.1.1. Các điều ước quốc tế về quyền con người
Thứ nhất, ngay ở lời mở đầu Hiến chương đã khẳng định: “Tuyên bố một
lần nữa lòng tin tưởng ở những quyền cơ vản của con người, ở phẩm giá và giá trị
của con người, ở quyền bình đẳng nam, nữ và ở quyền bình đẳng giữa các nước
lớn và nhỏ”[33]
Thứ hai, tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, mặc dù không phải
là văn kiện pháp lý ràng buộc nhưng Tuyên ngôn đã được toàn thế giới công nhận
là nền tảng pháp lý cho việc xây dựng công ước về quyền con người.
Thứ ba, ICCPR và ICESCR hai công ước này cùng với Tuyên ngôn thế
giới về nhân quyền có thể coi là một bộ luật hoàn chỉnh về quyền con người mang
tính quốc tế.
Thứ tư, ngoài những văn bản chính bên cạnh đó còn rất nhiều công ước về
quyền con người như: Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử
chống lại phụ nữ năm 1979; Công ước về quyền của người tàn tật năm 2006;
Công ước quốc tế về trấn áp việc buôn người và bóc lột mại dâm người khác
1946,…
1.2.1.2. Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật
CRPD là văn bản mang tính pháp lý có hiệu lực pháp lý cao, đưa ra khung

pháp lý , ghi nhận các chuẩn mực quốc tế về quyền của NKT. Công ước được coi
là công cụ thúc đẩy hành động đầy đủ, toàn diện và hiệu quả về quyền của NKT
trên thế giới. Công ước ghi nhận và đảm bảo thực hiện quyền tự do cơ bản của
NKT như những người khác được hưởng thụ quyền và bình đẳng với nhau trên
mọi lĩnh vực đời sống.
1.2.1.3. Pháp luật khu vực về người khuyết tật và quyền người khuyết tật
Việt Nam không chỉ là thành viên CRPD mà còn tham gia các tổ chức khu
vực liên quan tới vấn đề NKT ví dụ như việc Việt Nam là thành viên của ESCAP.

10


Ngoài ESCAP Việt Nam tham gia tích cực vào các tổ chức trong khu vực khác
như ASEAN với Tuyên bố Bali nhằm tăng cường vai trò và sự tham gia của NKT
trong cộng đồng ASEAN..
1.2.1.4. Một số nội dung cơ bản của pháp luật quốc tế về người khuyết tật
* Các quyền cơ bản của người khuyết tật.
- Quyền được sống và đối xử bình đẳng: đây là quyền cơ bản nhất, hiển
nhiên nhất của tất cả mọi người đều được hưởng thụ và ghi nhận trong rất nhiều
văn kiện quốc tế cũng như quốc gia. NKT không được coi trọng cho xã hội hội và
bị xã hội kì thị khi coi họ là ghánh nặng, gây cản trở cho sự phát triển của xã hội,
vì vậy, Công ước đã ghi nhận quyền được sống và đối xử bình đẳng (Điều 10)[28]
- Quyền được đảm bảo tự do cơ bản bao gồm các quyền sau: Quyền đảm
bảo tự do và an toàn cá nhân, Quyền được tôn trọng cuộc sống riêng tư, Quyền
sống độc lập và hòa nhập cộng đồng, Quyền được tôn trọng gia đình và tổ ấm,
Quyền tự do đi lại, cư trú và tự do quốc tịch, Quyền tự do biểu đạt, chính kiến, và
tiếp cận thông tin.
- Quyền được bảo vệ: Quyền không bị tra tấn, bị đối xử, áp dụng các hình
phạt tàn nhẫn, Quyền không bị bóc lột, bạo hành và lạm dụng.
- Quyền được tham gia: Quyền được tham gia đời sống chính trị và cộng

đồng: NKT được tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội không vì yếu tố
khuyết tật của bản thân mà bị hạn chế. Bao gồm: quyền về kinh tế chính trị được
bình đẳng. Quyền tham gia các hoạt động văn hóa, nghỉ ngơi, gải trí và thể
thao.Đây là những quyền của NKT trong việc hưởng thụ và phát triển đời sống
tinh thần.
- Quyền được hỗ trợ đặc biệt, có cơ hội và được phát triển bằng chính
công việc do bản thân tự do lựa chọn: Quyền được hỗ trợ đặc biệt, có cơ hội và
được phát triển bằng chính công việc do bản thân tự do lựa chọn bao gồm các
quyền như; quyền được hưởng các dịch vụ y tế, các dịch vụ đạt tiêu chuẩn cao
nhất mà không bị phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật
- Quyền được phát triển: NKT cần được tiếp cận và thụ hưởng quyền phát
triển, bao gồm quyền được trao các cơ hôi bình đẳng về tiếp cận giáo dục, thông
tin, phúc lợi xã hội, … được trao cho mọi cơ hội bình đẳng như những người khác
nhằm phát huy mọi năng lực vốn có của bản thân mình,…
* Nghĩa vụ quốc gia trong việc thực hiện pháp luật quốc tế về NKT
- Tôn trọng (respect): Việc tôn trọng việc thực hiện pháp luật về NKT đòi
hỏi nhà nước pháp kiềm chế không can thiệp, kể cả trực tiếp hay gián tiếp vào
việc hưởng thụ các quyền của NKT.
- Bảo đảm (protect): Bảo đảm thực hiện pháp luật về NKT đòi hỏi nhà
nước phải ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba.

11


- Thực thi (fulfill): Thực thi pháp luật về NKT là nhà nước có những biện
pháp hỗ trợ NKT được hưởng thụ đầy đủ các quyền của mình.
* Các cơ chế quốc tế thực hiện pháp luật về người khuyết tật:
Thứ nhất, các cơ quan được thành lập dựa trên Hiến chương Liên Hợp Quốc
Thứ hai, cơ chế giám sát chuyên biệt, so với các cơ quan trong cơ chế dựa
trên Hiến chương: Cơ chế khu vực, cơ chế quốc gia.

1.3 Pháp luật quốc gia về người khuyết tật
1.3.1 Hiến pháp
Trách nhiệm và nghĩa vụ hàng đầu của các quốc gia thành viên khi tham
gia các Công ước quốc tế đó là phải chuyển hóa vào trong hệ thống pháp luật,
chính sách và thực tiễn của mình, Nhà nước không chỉ tích cực tham gia CRPD,
mà sự quan tâm của Nhà nước ta đối với NKT còn được thể hiện cụ thể trong
pháp luật trước tiên là trong các quy phạm của Hiến pháp – đạo luật cơ bản nhất
của Nhà nước.
1.3.2. Các Bộ luật
Sau Hiến pháp các Bộ luật như: Bộ luật Dân sự , Bộ luật Hình sự, Bộ luật
Lao động, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự đều cụ thể hóa những
quyền và nghĩa vụ cơ bản của NKT vào trong văn bản pháp luật theo từng chuyên
nghành.
1.3.3. Luật chuyên nghành
Luật Người khuyết tật được Quốc hội Khoá XII, Kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 17 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011.
Đây là một bước tiến quan trọng trong việc thể chế hoá đầy đủ và toàn diện các
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về NKT nhằm tạo môi
trường pháp lý, điều kiện, cơ hội bình đẳng, không rào cản đối với NKT theo
hướng xây dựng các chính sách đối với NKT trên cơ sở tiếp cận và bảo đảm
quyền của NKT; quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội trong
việc xóa bỏ rào cản và bảo đảm các điều kiện để NKT hòa nhập xã hội như những
người bình thường khác.
1.4 Thực hiện pháp luật về người khuyết tật
1.4.1 Khái niệm, đặc điểm, các hình thức, nguyên tắc, của thực hiện
pháp luật về người khuyết tật
1.4.1.1 Khái niệm chung về thực hiện pháp luật người khuyết tật.
Thứ nhất, các quan niệm đều cho rằng thực hiện pháp luật là hoạt động có
mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật
Thứ hai, thực hiện pháp luật là những hoạt động thực tế, hợp pháp để đưa

những quy định của pháp luật đi vào thực tiễn trong cộng đồng, cuộc sống con
người.

12


Thứ ba, chủ thể của thực hiện pháp luật là mọi tổ chức, các nhân, các công
dân sinh sống và làm việc tại Việt Nam và đây là quá trình của các chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật.
Từ những nhận định đó có thể hiểu thực hiện pháp luật về NKT có thể
được nhận định như sau: Thực hiện pháp luật về người khuyết tật là quá trình có
mục đích làm cho những quy định của pháp luật về người khuyết tật được đi vào
đời sống trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật là người
khuyết tật với các chủ thể khác trong mối quan hệ giữa quyền của người khuyết
tật với quyền của các chủ thể khác khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
1.4.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về người khuyết tật.
Thứ nhất, thực hiện pháp luật bằng những hành vi của con người trong mối
quan hệ cụ thể, hành vi là toàn bộ những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra ngoài
của NKT trong những hoàn cảnh ở mối quan hệ cụ thể
Thứ hai, thực hiện pháp luật về NKT là những hành vi phù hợp với pháp
luật về NKT.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về NKT là quá trình có mục đích, mục tiêu cụ
thể.
Thứ tư, quá trình thực hiện pháp luật về NKT luôn được nhà nước đảm bảo
bằng các biện pháp.
Thứ năm, thực hiện pháp luật về NKT vừa mang tính giai cấp vừa mang
tính xã hội.
1.4.1.3. Các hình thức thực hiện pháp luật về người khuyết tật
* Tuân thủ pháp luật về người khuyết tật: Tuân thủ pháp luật về NKT là
hình thức thực hiện pháp luật về NKT, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế

không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm được ghi nhận trong văn bản
pháp luật có chứa đựng những quy phạm điều chỉnh quan hệ pháp lý liên quan tới
NKT.
* Thi hành pháp luật về người khuyết tật: Thi hành pháp luật về NKT là
một hình thưc thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa
vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực
* Sử dụng pháp luật về người khuyết tật: Sử dụng pháp luật về NKT là
hành vi các chủ thể pháp luật thực hiện quyền và tự do pháp lý của mình, những
hành vi mà pháp luật về NKT cho phép chủ thể thực hiện.
* Áp dụng pháp luật về người khuyết tật: Áp dụng pháp luật về NKT là
hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông quan các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực
hiện các quy định pháp luật về người khuyết tật, hoặc tự mình căn cứ vào những
quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ
hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật với NKT.

13


1.4.1.4. Các nguyên tắc cơ bản của Luật người khuyết tật.
* Nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền của người khuyết tật.:Theo tinh
thần Công ước về quyền của NKT của UN quy định: “Các quốc gia thành viên
cam kết sẽ bảo đảm và thúc đẩy sự công nhận đầy đủ tất cả các quyền con người
và tự do của tất cả người khuyết tật mà không có bất cứ hình thức phân biệt đối
xử nào do bị khuyết tật” (Điều 4)[28].
* Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử: Nguyên tắc này khẳng
định rằng mọi người cho dù khác nhau về thể lực, trí lực và các đặc điể khác
nhưng đều có giá trị và tầm quan trong ngang nhau(Điều 1)[37]do đó họ có quyền
được đối xử công bằng và không bị phân biệt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội (Điều 5,12)[26].

* Tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội và tổ chức xã hội: Khi ban
hành chính sách hay phê chuẩn văn bản pháp luật, chính sách về NKT những nhà
tham vấn, người tham gia xây dựng pháp luật cần có sự tham vấn rộng rãi mọi các
nhân, công dân, tổ chức và đặc biệt là người khuyết tật và các tổ chức đại diện
cho họ.
*Đảm bảo quyền được tiếp cận, hỗ trợ và điều chỉnh hợp lý đối với người
khuyết tật: Ngoài việc xác định nghĩa vụ của nhà nước đối với NKT và các chủ
thể có liên quan mà vấn đề quan trọng đó là thông qua pháp luật tạo cho người
khuyết tật những môi trường thuận lợi nhất để tiếp cận mọi mặt đời sống kinh tế,
xã hội, hòa nhập với cộng đồng.
* Đảm bảo hội nhập và thực thi các cam kết quốc tế: Hệ thống pháp luật
Việt Nam liên quan tới NKT đang ngày càng được hoàn thiện và phù hợp với
CRPD.
1.4.2. Vai trò của việc thực hiện pháp luật người khuyết tật
1.4.2.1. Thực hiện pháp luật về NKT chức góp phần kiểm nghiệm các
quy định pháp luật trong thực tiễn, là cơ sở cho quá trình hoàn thiện pháp luật
về NKT: Pháp luật là những ý chí, quan điểm của Đảng và nhà nước. Pháp luật về
NKT thể chế hóa đường lối nhất quán của Đảng cộng sản Việt Nam đó là đẩy
mạnh các hoạt động nhân đạo từ thiện. Thực hiện các chính sách bảo trợ trẻ em
mồ côi, lang thang cơ nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật.
1.4.2.2. Thực hiện pháp luật về NKT góp phần bảo đảm các quyền cơ
bản quyền lợi của NKT: Thực hiện pháp luật là hành động có mục đích không chỉ
của Nhà nước mà của cả NKT để thực hiện các quyền cơ bản của mình. Thực hiện
pháp luật là hành vi của Nhà nước nhằm đảm bảo các quyền của NKT được thực
tế hóa trong cuộc sống, trên cơ sở đó các hành vi vi phạm sẽ bị xử phạt theo quy
định của Nhà nước.

14



1.4.2.3. Thực hiện pháp luật về NKT được thực hiện hiện hiệu quả sẽ
giúp tạo sự đồng thuận xã hội, nâng cao ý thức pháp luật của công dân trong
đó xác định vai trò quan trọng của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với NKT:
Để đạt được kết quả như vây, công tác tuyên truyền là một móc xích rất quan
trọng. Khi công dân hay NKT có những hiểu biết nhất định về pháp luật cũng như
thực hiện pháp luật về NKT họ sẽ có những định hướng đúng đắn trong hành vi
của mình.
Chương 2
THỰC TRẠNG NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1 Thực trạng người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Các cuộc điều tra về thực trạng tổ chức của NKT trên địa bàn Thành phố
Hà Nội cho thất về số lượng NKT biến đổi theo từng năm có khuynh hướng biến
động.Qua đó đánh giá được những kết quả thành phố Hà Nội đạt được trong việc
thực hiện pháp luật về NKT.
2.1.1. Cơ cấu người khuyết tật.
Từ việc phân chia cơ cấu giới tính và độ tuổi để cho thấy nhà nước tùy vào
những đặc điểm riêng của từng nhóm đối tương sẽ có những chính sách thực hiện
pháp luật một cách toàn diện và hiệu quả. Ví dụ như với trẻ em khuyết tật sẽ ưu
tiên chính sách về y tế, chăm sóc và giáo dục; với thanh niên khuyết tật cần áp
dụng tốt việc chính sách giáo dục, dạy nghề và đặc biệt là vấn đề về việc làm,…
2.1.2. Các dạng người khuyết tật.
NKT được chia thành nhiều dạng khuyết tật khác nhau, việc phân chia này
rất quan trọng cho việc thực hiện pháp luật về NKT. Cũng như việc chia cơ cấu
giới tính, việc phân chia NKT thành những dạng cụ khuyết tật thể với các mức độ
nhất định giúp cho việc thực hiện pháp luật về NKT được thực hiện một cách dễ
dàng hơn với từng dạng khuyết tật sẽ có chế đô y tế cũng như giáo dục phù hợp từ
đó xóa bỏ những ròa cản giúp họ hòa nhập với cộng đồng một cách dễ dàng hơn.
2.1.3. Nguyên nhân dẫn tới những biến động của người khuyết tật

Việc số lượng những NKT có sự biến động trong từng năm có thể thấy
rằng trước đây ngoài những nguyên nhân do khuyết tật bẩm sinh, do tai nạn lao
động có thể nhận thấy rằng do một phần ảnh hưởng từ hâu quả của các cuộc chiến
tranh để lại. Việt Nam là một nước trải qua thời kì chiến tranh khốc liệt, vì vậy
khi chiến tranh không còn tỷ lệ thương binh- bệnh binh trong chiến tranh chiếm tỷ
lệ lớn.Bên cạnh đó ảnh hưởng chất đôc mầu da cam tới những thế hệ sau dẫn tới
tình trạng bị khuyết tật.

15


2.2 Thực hiện pháp luật về người khuyết tật trên địa bàn Thành phố
Hà Nội
2.2.1. Hệ thống các văn bản pháp luật và các cơ chế, thiết chế thực hiện
pháp luật về người khuyết tật ở Hà Nội hiện nay.
2.2.1.1. Hệ thống các văn bản pháp luật và các cơ chế, thiết chế thực hiện
pháp luật về người khuyết tật ở Hà Nội hiện nay: các văn bản Thành phố Hà Nội
đã thực hiện triển khai tốt các quy định của pháp luật,UBND thành phố đã ban
hành Kế hoạch, quyết định một số chính sách quan trọng đối với người khuyết tật
và chỉ đạo Sở Lao động Thương binh và Xã hội chủ động phối hợp với các Sở,
Ban, Ngành, Hội đoàn thể, UBND các quận, huyện, thị xã xây dựng chương trình,
mục tiêu, các giải pháp phù hợp để triển khai thực hiện tốt Luật người khuyết tật
trên địa bàn Thành phố, cụ thể như :
2.2.1.2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy tổ chức hoạt động thực hiện pháp luật.:
Chính phủ thống nhất thực hiện hệ thống chung nhất quản lý nhà nước về công
tác NKT, trong đó cơ quan đầu não thực hiện những chính sách liên quan tới NKT
trong phạm vi cả nước là Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội. Trên địa bàn
Thành phố Hà Nội cơ quan chịu trách nhiệm đó là Sở Lao động-Thương binh và
xã hội Thành phố Hà Nội. Ngoài ra UBND thành phố đã cho phép thành lập Hội
Người khuyết tật Thành phố và 29/30 hội người khuyết tật quận, huyện, thị xã, 70

Hội người khuyết tật xã, phường, thị trấn, 02 đơn vị có tư cách pháp nhân trực
thuộc hội NKT thành phố là Trung tâm tư vấn và hỗ trợ hòa nhập người khuyết tật
và Trung tâm hỗ trợ sống độc lập của người khuyết tật trực thuộc Hội NKT thành
phố Hà Nội.
2.3. Nội dung thực hiện pháp luật về người khuyết tật tại Thành phố
Hà Nội.
2.3.1. Lao động và việc làm đối với người khuyết tật
Với những nỗ lực cụ thể của thành phố cũng như các quận huyện đã giải
quyết được phần nào nhu cầu việc làm cho NKT. Việc NKT trong độ tuổi lao
động còn khả năng lao động được học nghề và tạo việc làm phù hợp chiếm 60%
và đạt chỉ tiêu Thành phố đưa ra[22]. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu 100%
người khuyết tật trong độ tuổi lao động còn khả năng lao động được học nghề và
tạo việc làm phù hợp; 100% người khuyết tật còn khả năng lao động, có nhu cầu
và đủ điều kiện được vay vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội và các nguồn quỹ
khác để phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và tăng thu nhập[23]. Thành
phố Hà Nội cần những phương án cụ thể và đạt hiệu quả cao. Cần phát triển hơn
nữa tại những quận, huyện có điều kiện kinh tế phát triển thấp hơn để đạt tỷ lệ
đồng đều.

16


2.3.2. Giáo dục, dạy nghề đối với người khuyết tật.
Trong thời gian qua công tác giáo dục NKT đã phát triển và mở rộng cả về
chất lượng và số lượng. Thực hiện tốt các quy định trong Luật Người khuyết tật
cũng như Luật Giáo dục, Thành phố Hà Nội đã có những chỉ đạo tới sở ban ngành
liên quan, UBND quận, huyện, thị xã và các trường học triển khai thực hiện tốt
chế độ miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập đối với NKT theo quy định của
Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010, Nghị định số 74/2013/ngày
15/7/2013 của Chính phủ. Tổ chức các lớp học xóa mù chữ cho NKT, tạo điều

kiện để NKT nói chung và trẻ em khuyết tật trong độ tuổi có nhu cầu, có khả năng
học văn hóa được đến trường, phát triển các mô hình giáo dục hòa nhập, khuyến
khích các tổ chức cá nhân mở các trường lớp chuyên biệt, học văn hóa kết hợp với
PHCN cho trẻ khuyết tật, hỗ trợ về giáo dục, tặng quà cho học sinh khuyết tật.
2.3.3. Tiếp cận y tế và chăm sóc sức khỏe của người khuyết tật
Thứ nhất, thành phố đã cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho 100% NKT hưởng trợ
cấp bảo trợ xã hội (NKT đặc biệt nặng và NKT nặng.)
Thứ hai,từ năm 2011 đến năm 2014 đã có 176.835 NKT được chăm sóc
sức khỏe, 15.402 người được chỉnh hình phục hồi chức năng, 10.052 người được
cấp xe lăn; 59.081 NKT thuộc diện đối tượng bảo trợ xã hội được cấp thẻ bảo
hiểm y tế miễn phí..
Thứ ba, trạm y tế các xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố đã triển
khai các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức
khỏe, phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật, hướng dẫn NKT phương pháp phòng
bệnh, tự chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng.
Thứ tư, Thành phố tổ chức điều tra, khám phân loại tật cho trên 4.000 trẻ
khuyết tật tại 30 quận huyện với số kinh phí gần 750 triệu đồng và hướng dẫn kỹ
năng tự chăm sóc trong sinh hoạt hàng ngày, tư vấn điều trị cho trẻ em và NKT tại
cộng đồng.
2.3.4. Tiếp cận văn hóa - xã hội đối với người khuyết tật
2.3.4.1 Tiếp cận và thụ hưởng các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí, du
lịch đối với NKT
Các sở ban ngành thành phố và UBND các quận, huyện, thị xã đã tổ chức
các hoạt động thiết thực, hiệu quả nhằm thu hút nhiều NKT tham gia gặp mặt,
giao lưu nhân ngày Người khuyết tật Việt Nam 18/4, ngày Quốc tế người khuyết
tật 3/12 và ngày lễ tết , tổ chức hội thi tiếng hát, tài năng của NKT, giao lưu văn
hóa, văn nghệ, thể dục thể thao với các đơn vị ; nhiều hoạt động tham quan, học
hỏi kinh nghiệm làm ăn của các mô hình NKT ở các địa phương khác để NKT có
thêm kiến thức làm ăn, cải thiện hoàn cảnh sống của gia đình và bản thân.
2.3.4.2. Tiếp cận và thụ hưởng việc sử dụng các công trình, dịch vụ công

cộng đối với NKT.

17


Thực hiện Nghị quyết số 17/2013/NQ-HĐND ngày 23/7/2013 của HĐND
Thành phố về một số biện pháp cải tạo, xây dựng lại các chung cư đã cũ, nhà cũ
xuống cấp trong quá trình thực hiện sở Xây dựng hướng dẫn, kiểm tra, việc xây
dựng cải tạo nhà chung cư, công trình công cộng phải tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật
về xây dựng, công trình mới phải có các công trình phụ trợ (thang máy, đường
dẫn ... ) đảm bảo phù hợp với đặc điểm, nhu cầu sử dụng phục vụ NCT và NKT.
2.3.5. Chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật
Đến nay toàn thành phố đã tổ chức xác định mức độ khuyết tật và cấp giấy
xác nhận mức độ khuyết tật cho 70.236 người trên tổng số 93.162 NKT, chiếm
75,4% tổng số NKT. Hội đồng Giám định y khoa thành phố đã tổ chức giám định
mức độ khuyết tật cho 119 người khuyết tật có nhu cầu và cấp giấy xác nhận
khuyết tật cho 100% người khuyết tật đang nuôi dưỡng tại các Trung tâm BTXH
trực thuộc Sở Lao động TB&XH quản lý.
2.4. Những hạn chế và nguyên nhân của thực hiện pháp luật về người
khuyết tật trên địa bàn Thành phố Hà Nội
2.4.1. Hạn chế
Thứ nhất, công tác tuyên truyền về Luật người khuyết tật, các chính sách
liên quan đối với NKT trên địa bàn thành phố đã được triển khai thực hiện nhưng
chưa thường xuyên, chưa sâu rộng.
Thứ hai, việc xây dựng các công trình mới, sửa chữa, cải tạo những công
trình công cộng, nhà chung cư, đường giao thông đi lại trên địa bàn Thành phố để
NKT dễ tiếp cận, sử dụng còn chậm, chưa đạt được các chỉ tiêu đề ra;
Thứ ba, mức trợ cấp xã hội còn thấp, mặc dù thành phố đã điều chỉnh cao
hơn so với quy định của Trung ương nhưng chưa đảm bảo được nhu cầu của
NKT.

Thứ tư, trình độ học vấn của NKT còn thấp, thiếu tự tin trong cuộc sống,
nhiều NKT chưa được đánh giá đúng năng lực, trình độ, vì vậy cơ hội tìm kiếm
việc làm của họ còn bị hạn chế.
Thứ năm, một số cán bộ làm công tác trợ giúp NKT cấp huyện, xã chưa
được đào tạo chuyên sâu về công tác trợ giúp NKT, còn kiêm nhiệm nhiều công
việc vì vậy hoạt động trợ giúp NKT hiệu quả chưa cao.
Thứ sáu, tạo việc làm cho NKT cũng là một khó khăn cho doanh nghiệp
trong điều kiện hiện nay .
Thứ bảy, việc cấp giấy chứng nhận khuyết tật khó khăn bất cập không
thống nhất giữa kết luận của Hội đồng câó xã và kết luận của Hội đồng giám định
y khoa trong cùng dạng tật, gây nên sự mẫu thuẫn giữa các đối tượng, tốn kém
cho ngân sách nhà nước .
Thứ tám, việc chỉ đạo quan tâm của từng quận huyện trong thành phố còn
có sự khác biệt khá lớn.

18


2.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, năng lực thực hiện pháp luật của các chủ thể thực hiện pháp luật,
nhất là ở cấp cơ sở đây là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện pháp luật có
được hiệu quả cao hay không
Thứ hai, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và hoàn thiện.
Thứ ba, nguyên nhân tiếp theo đó là nguồn lực hạn chế, nhất nguồn kinh
phí hỗ trợ triển khai các kế hoạch, chương trình và hoạt động của Thành phố Hà
Nội.
Thứ tư, việc tuyên truyền phổ biến pháp luật cho chủ thể thụ hưởng quyền
và nâng cao ý thức pháp luật cho chủ thể thực thi quyền đã được quan tâm thực
hiện nhưng vẫn chưa thể cải thiện hiệu quả.
Thứ năm, chưa có cơ chế giám sát hiệu quả đố vớiviệc thực hiện pháp luật

về NKT trên địa bàn
Chương 3
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHƯỜI KHUYẾT TẬT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm và phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về người khuyết tật.
3.1.1. Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về NKT cần phải phù hợp
với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là cơ chế đảm bảo
hiệu quả.
Hoàn thiện pháp luật về NKT và những quy định thực hiện pháp luật về
NKT cần dựa trên quan điểm và phương hướng nhất quán của Đảng và Nhà nước
Việt Nam ..
Hoàn thiện pháp luật về NKT và những quy định thực hiện pháp luật về
NKT là nòng cốt để việc thực hiện pháp luật về NKT đạt được hiệu quả cao nhất.
3.1.2. Thực hiện pháp luật về NKT hiệu quả cần nâng cao ý thức pháp
luật về NKT cho chủ thể thụ hưởng quyền (rights-holders) và chủ thể nghĩa vụ/
chủ thể thực thi quyền (duty-bearers)
Việc thực hiện pháp luật về NKT diễn ra tốt nhất khi những chủ thể hưởng
thụ quyền và chủ thể nghĩa vụ đều nhận biết được những quyền lợi và nghĩa vụ
của mình. Bên cạnh đó chủ thể thực thi quyền cần sự am hiểu pháp luât về NKT
và có ý thức thực thi trách nhiệm của mình. Vì vậy công tác tuyên truyền phổ biến
pháp luật là hoạt động rất cần thiết.
3.1.3. Thực hiện pháp luật đạt hiệu quả cao khi có cơ chế giám sát của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân

19


Thông qua quá trình thực hiện pháp luật về NKT được triển khai trong thực

tế các quyền và nghĩa vụ của NKT.Bên cạnh hệ thống chính quyền các cơ quan
đoàn thể được tham gia vào quá trình tuyên truyền, phổ biến và thực hiện chính
sách mới.
3.1.4. Thực hiện pháp luật cần có giám sát của các tổ chức xã hội và
đoàn thể nhân dân đối với việc thực hiện pháp luật về NKT
Ngoài sự giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đại diện cho quyền
lực nhà nước cần có sự giám sát của các tổ chức xã hội và đoàn thể nhân dân đối
với việc thực hiện pháp luật về NKT. Những tổ chức này đại diên cho quyền lợi
của NKT vì vậy bên cạnh giám sát của nhà nước họ sẽ dễ dàng phát hiện những
hành vi vi phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của NKT hơn, từ đó có những biện
pháp khắc phục. Sự giám sát của các tổ chức này phối hợp cùng sự giám sát của
quốc hội sẽ làm cho việc thực hiên pháp luật về NKT được đánh giá và đảm bảo
thực hiện một cách hiệu quả và khách quan nhất.
3.1.5. Thực hiện pháp luật về NKT hoàn thiện khi nó được đặt trong môi
trường quốc tế và có sự hợp tác quốc tế
Việc tham gia CRPD là một bước tiến lớn cho thấy mối quan tâm sâu sắc
của nhà nước với NKT vì vậy pháp luật quốc gia không chỉ nội luật hóa các cam
kết quốc tế mà cần phải phát triển phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của quốc gia
mình và của quốc tế.
3.2. Một số giải pháp nâng cao việc thực hiện pháp luật về người
khuyết tật
3.2.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện thể chế, thiết chế và cơ chế thực
hiện pháp luật về NKT
Để khắc phục những vấn đề trên Nhà nước ta cần phải có những biên pháp
cụ thể để hoàn thiện các cơ chế, thiết chế để thực hiện pháp luật về NKT mang
đúng tinh thần đường lối chính sách của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với
NKT như sau:
Thứ nhất, với việc sống trong một “rừng luật” việc hệ thống hóa pháp luật
hiện hành là một mục tiêu lớn.
Thứ hai, cần rà soát, hệ thống hóa văn bản pháp luật về NKT hiện hành tạo

cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện văn bản pháp luật, làm cho văn bản đó được cải
tiến so với văn bản trước đây, tạo sự tương thích, hài hòa giữa văn bản mới với hệ
thống pháp luật hiện hành.
Thứ ba, cần có những khảo sát, nghiêm cứu đánh giá về thực trạng của việc
thực hiện phát hiện trong thực tiễn đời sống từ đó có những đánh giá khách quan
nhất những hạn chế và nguyên nhân để từ đó hoàn thiện.

20


Thứ tư, bên cạnh hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ, việc hoàn
thiện về các quy định xử lý vi phạm giúp cho mọi chủ thể tham gia có ý thức và
trách nhiệm hơn trong thực hiện pháp luật về NKT.
Thứ năm, việc hoàn thiện các cơ chế pháp luât về NKT là những phương
pháp, cách thứ tổ chức bộ máy nhà nước, tổ chức các hoạt động thực hiện pháp
luật về NKT.
3.2.2. Nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức pháp luật về NKT cho chủ
thể thụ hưởng quyền (rights-holders) và chủ thể nghĩa vụ/ chủ thể thực thi
quyền (duty-bearers)
Những giải pháp giáo dục cho NKT cần một quá trình lâu da, nhưng trước
hết cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
Thứ nhất, cần xây dựng những cơ sở chuyên trách về giáo dục cho NKT,
cần đưa các chương trình giáo dục quyền con người, quyền của NKT vào chương
trình học nâng cao nhận thức cho mọi người.
Thứ hai, xây dựng chương trình giáo dục cho NKT cần xác định đúng
phương thức, hình thức và cách tiếp cận giáo dục phù hợp cho các dạng khuyết tật
khác nhau.
Thứ ba, tổ chức đào tạo một cách bài bản đội ngũ người làm công tác giáo
dục pháp luật chuyên biệt có chất lượng cho NKT ở các quận, huyện đặc biệt là
những giáo viên của Trung tâm nuôi dưỡng NKT.

Thứ tư, đẩy mạnh hoạt đông tuyên truyền pháp luật trên các phương tiện
thông tin đại chúng như trên hệ thống truyền thanh xã, phường, khu phố,…
3.2.3. Nhóm giải pháp về tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội và
Hội đồng nhân dân đối với việc thực hiện pháp luật về NKT
Vì vậy cần tăng cường cơ chế giám sát để việc thực hiện pháp luật về NKT
được đi vào cuộc sống, cần đẩy mạnh trong thực tiễn, tạo điều kiện cho việc thực
hiện pháp luật được thực thi thống nhất không chỉ trên địa bàn thành phố Hà Nội
nói riêng mà cả trên toàn quốc nói chung và được thực hiện một cách đồng bộ.
Giám sát của Quốc hội trong việc các ban nghành ban hành các văn bản quy định
pháp luật, giám sát việc thực hiện pháp luật về NKT, giám sát với những cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện pháp luật về NKT.
Ngoài tăng cường cơ chế giám sát của Quốc hội bên cạnh đó cần tăng
cường vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp trong việc quan tâm triển khai việc
thực hiện thực hiện pháp luật về NKT của chính quyền địa phương.
3.2.4. Nhóm giải pháp về tăng cường vai trò giám sát của các tổ
chức xã hội và đoàn thể nhân dân đối với việc thực hiện pháp luật về NKT
Chính vì vậy cần phải tăng cường vai trò của các tổ chức này, trao cho họ
những quyền hạn nhất định phù hợp với tiêu chí hoạt động của tổ chức, đoàn thể,
giúp tiếng nói của họ có trọng lượng hơn, hoàn thiện các quy định của pháp luật

21


về tổ chức và hoạt động của các tổ chức của NKT và vì NKT. Các tổ chức xã hội
và đoàn thể nhân dân này là người nắm bắt những tâm tư nguyện vọng của NKT
một cách toàn diện và nhanh nhất vì vậy cần có nững chính sách cho họ có thể
hoạt động hiệu quả trên cơ sở pháp luật, bảo vệ và tạo điều kiện tốt nhất cho NKT
thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình một cách hiệu quả.
3.2.5. Nhóm giải pháp về tăng cường hợp tác quốc tế nhằm chia sẻ
kinh nghiệm và hỗ trợ kỹ thuật trong việc thực hiện pháp luật về NKT

Không chỉ hoàn thiện pháp luật trong nước, hệ thống pháp luật cần nội luật
hóa các quyền của NKT trong CRPD vào hệ thống của mình mà cần tăng cường
những hợp tác quốc tế nhằm trao đổi chia sẻ kinh nghiệm của mình với các nước
cũng như học hỏi các nước khác trong việc thực hiện pháp luật về NKT. Gồm các
quá trình hợp tác hỗ trợ nguồn lực cho việc nghiên cứu, xây dựng và áp dụng các
thành quả trong việc thực hiện pháp luật về NKT.Điều đó giúp chúng ta giúp ngắn
được khoảng cách, giúp hội nhập quốc tế và giúp NKT có điều kiện được thụ
quyền như tất cả NKT khác trên thế giới.

22


KẾT LUẬN
Với việc tăng trưởng kinh tế ở mức độ đáng kinh ngạc Việt Nam là quốc
gia có tốc độ dẫn đầu trên thế giới, trong đó để đảm bảo phát triển đất nước một
cách toàn diện vì vậy cần đảm bảo thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của
người khuyết tật càng được nhà nước đặc biệt quan tâm. Xuất phát từ đặc trưng
của đất nước trải quan các cuộc chiến tranh khốc liệt để bảo vệ Tổ quốc, là một
trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng bởi quá trình biến đổi khí hậu và tác
động của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh dẫn đến 7,2 triệu người
khuyết tật. Tiếp thu tinh thần “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc những người
khuyết tật là những người đã chịu khó khăn để bảo vệ cho đất nước do đó Đảng
và nhà nước luôn quan tâm và chú trọng trong công cuộc bảo vệ và phát triển
quyền của người khuyết tật.
Ngay từ khi thành lập đất nước, tinh thần của Đảng và Nhà nước luôn thể
hiên sự quan tâm của mình với bộ phận người khuyết tật bằng các quy định trong
đạo luật cao nhất của đất nước là Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, hiến
pháp 1992 (sửa đổi 2001). Hiện nay, với mục tiêu “vì một thế giới không rào
cản”- Một thế giới không rào cản là một thế giới không có sự kỳ thị, không có sự
phân biệt đối xử, là thế giới đầy ắp lòng nhân ái, tình thương và có những giá trị

sống tốt đẹp nhất đối với tất cả mọi người nói chung và người khuyết tật nói
riêng. Tại Việt Nam, công tác chăm sóc người khuyết tật luôn được Đảng, Nhà
nước quan tâm đặc biệt.Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế về quyền của
người khuyết tật và khẳng định sự cam kết mạnh mẽ của nhà nước Việt Nam với
cộng đồng quốc tế trong công tác bảo vệ, chăm sóc người khuyết tật. Bên cạnh sự
chăm sóc, giúp đỡ tận tình, chu đáo của gia đình, xã hội, bản thân người khuyết
tật đã không ngừng phấn đấu vươn lên. Bằng chính sức lao động của mình, những
người khuyết tật đã sống, học tập, lao động, vượt qua số phận để làm nên những
điều kỳ diệu trong cuộc sống.
Thực hiện pháp luật về người khuyết tật đang ngày càng được quan tâm và
đánh giá là một khâu quan trọng được Đảng và nhà nước cũng như các ban ngành
ngày càng chú trọng. Quyền và lợi ích của Người khuyết tật có được đảm bảo hay
không phụ thuộc rất nhiều vào viêc thực hiện pháp luật đó. Dưới góc độ đánh giá
việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật từ thự tiễn thành phố Hà Nội cho
thấy để làm tốt cần hoàn thiện hơn nữa thể chế, thiết chế và cơ chế thực hiện
pháp luật về người khuyết tật. Đề tài đã tiếp cận, đánh giá và giải quyết các mục
tiêu nghiên cứu về vấn đề lý luận về người khuyết tật, thực hiện pháp luật về
người khuyết tật; những hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật thực

23


×