Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

luận văn thạc sĩ Thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.36 KB, 106 trang )

thùc hiÖn ph¸p luËt vÒ ngêi khuyÕt tËt
ë ViÖt Nam hiÖn nay
hµ néi - 2009
MC LC
Trang
M U
1
Chơng 1: cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật Về
ngời khuyết tật
8
1.1
Khái nim, c im, các hình thc v vai trò th c hin pháp
lut v ngi khuyt tt 8
1.2. Yêu cầu và điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về ngời
khuyết tật 21
1.3. Kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động xây dựng pháp luật và
thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật 25
Chơng 2: thực trạng ngời khuyết tật và thực hiện pháp
luật về ngời khuyết tật ở Việt Nam 45
2.1 Tình hình ngời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay 45
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật ở Việt Nam
hiện nay 54
Chơng 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp
luật về ngời khuyết tật 73
3.1.
Quan điểm trong thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật ở Việt
Nam hiện nay 73
3.2.
Các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về ngời
khuyết tật ở nớc ta hiện nay 75
KT LUN


DANH MC TI LIU THAM KHO
99
101
PH LC
104
Danh mục các chữ viết tắt
ADA : Luật ngời khuyết tật Mỹ
BHYT : Bảo hiểm y tế
HĐND : Hội đồng nhân dân
LNKT : Luật ngời khuyết tật
NCCD : Văn phòng điều phối các hoạt động trợ giúp ngời tàn tật
NKT : Ngời khuyết tật
NĐ- CP : Nghị định Chính phủ
ICF : Phân loại khuyết tật hoạt động chức năng
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TDTT : Thể dục thể thao
TW : Trung ơng
UBND : Uỷ ban nhân dân
VABED : Hiệp hội sản xuất kinh doanh của ngời tàn tật việt nam
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngời khuyết tật là ngời bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể
hoặc một hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do
khuyết tật nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập,
lao động và tham gia hoạt động xã hội. Do đó việc đảm bảo sự bình đẳng
trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội đối với ngời khuyết tật là nghĩa vụ của gia đình, xã hội và nhà nớc.
Là mắt xích quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống
nhân đạo của dân tộc, ngời khuyết tật luôn nhận đợc sự quan tâm của Đảng và

Nhà nớc ta. Cơng lĩnh xây dựng đất nớc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(6-1991) khẳng định: "Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao
đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ
ngơi, chữa bệnh Chăm lo đời sống những ngời già cả neo đơn, tàn tật, mất
sức lao động và trẻ mồ côi" [17]. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI chỉ rõ Từng bớc xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân, theo
phơng châm Nhà nớc và nhân dân cùng làm, mở rộng và phát triển sự nghiệp
bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho những
ngời có công với cách mạng và những ngời gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung
chính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới và cơ chế
quản lý kinh tế, quản lý xã hội [15].
Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 đều khẳng định ngời tàn tật
là công dân - thành viên của xã hội, đợc hởng đầy đủ các quyền lợi và nghĩa
vụ của công dân, đợc chung hởng thành quả xã hội. Vì tàn tật, ngời tàn tật có
quyền đợc xã hội trợ giúp để thực hiện đợc quyền bình đẳng và tham gia tích
cực vào các hoạt động của xã hội, đồng thời vì tàn tật, họ đợc miễn trừ một số
nghĩa vụ công dân. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) khẳng định:
Nhà nớc và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật đợc học văn hoá và học
nghề phù hợp(Điều 59), Ngời già, ngời tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi n-
ơng tựa đợc Nhà nớc và xã hội giúp đỡ (Điều 67) [29].
Thể chế hoá các quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp, nhiều văn
bản pháp luật đã đợc ban hành tạo hành lang và cơ sở pháp lý để ngời khuyết
tật thực hiện những quyền cơ bản của con ngời, tham gia vào đời sống và sự
phát triển của xã hội. Ngày 30 tháng 7 năm 1998, Uỷ ban thờng vụ quốc hội
thông qua Pháp lệnh về ngời tàn tật. Pháp lệnh quy định trách nhiệm của gia
đình, nhà nớc và xã hội đối với ngời tàn tật, quyền và nghĩa vụ của ngời tàn tật
trên các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ và hỗ trợ nuôi dỡng, học văn hoá, học
nghề và việc làm, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao và sử dụng công trình
công cộng đối với ngời tàn tật. Nhà nớc khuyến khích và tạo điều kiện thuận
lợi cho ngời tàn tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn

hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập
cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội. Ngời khuyết tật đợc nhà nớc và xã
hội trợ giúp chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và
đợc hởng các quyền khác theo quy định của pháp luật. Cùng với Pháp lệnh về
ngời tàn tật, Quốc hội đã ban hành hệ thống các luật chuyên ngành chứa đựng
nhiều quy phạm liên quan đến ngời khuyết tật nh: Bộ luật lao động, Luật Giáo
dục, Luật Dạy nghề, Luật bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em, Luật giao
thông đờng bộ, Luật thanh niên, Luật trợ giúp pháp lý, Luật xây dựng, Pháp
lệnh u đãi ngời có công với cách mạng Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa
phơng đã ban hành hàng trăm văn bản nhằm hớng dẫn thi hành Pháp lệnh về
ngời Tàn tật và các quy định liên quan đến ngời khuyết tật của các luật chuyên
ngành.
Sau nhiều năm thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật, nhà nớc đã tạo đợc
hành lang pháp lý và môi trờng xã hội tơng đối thuận lợi cho ngời khuyết tật
hoà nhập cộng đồng, góp phần cải thiện đời sống của ngời khuyết tật, đồng
thời tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nớc tham gia trợ
giúp ngời khuyết tật có hiệu quả thiết thực.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật nảy sinh
nhiều vấn đề bất cập. Hệ thống văn bản pháp luật vừa thừa, vừa thiếu, không
đồng bộ, thiếu tính thống nhất và sự chồng chéo giữa các văn bản luật đã gây
khó khăn cho quá trình tổ chức thực hiện. Có những quy phạm sau hơn mời
năm vẫn không thể thực hiện nh quy định lập Quỹ việc làm dành cho ngời
khuyết tật; Quy định bắt buộc một số loại hình doanh nghiệp phải nhận từ 2%
đến 3% lao động là ngời khuyết tật vào làm việc. Việc bảo đảm cho ngời
khuyết tật tiếp cận các dịch vụ y tế, học văn hoá, học nghề, tìm kiếm việc làm,
tham gia giao thông công cộng thực tế còn gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại.
Việt Nam là một nớc nghèo, chịu ảnh hởng nặng nề sau chiến tranh, cùng
với sự tác động của ô nhiễm môi trờng, của tai nạn giao thông, tai nạn lao
động, thiên tai, dịch bệnh, chắc chắn con số 6,34% dân số là ngời khuyết tật
hiện nay- khoảng 6 triệu ngời sẽ ngày càng tăng lên.

Đất nớc ta đang trong tiến trình tạo lập nền kinh tế thị trờng, xây dựng
nhà nớc pháp quyền XHCN, với mục tiêu tăng trởng kinh tế đi đôi với tiến bộ
xã hội và công bằng xã hội chăm lo cho con ngời, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mọi ngời; tạo điều kiện khơi dậy mọi nguồn lực, nhân lực để tiến
hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc vì mục tiêu Dân giàu,
nớc mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hơn lúc nào hết cần phải tổ
chức tốt hoạt động thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật với hệ thống pháp
luật đồng bộ, không rào cản đối với ngời khuyết tật nói riêng và hoạt động
thực hiện hệ thống pháp luật nói chung.
Xuất phát từ những cơ sở nêu trên, việc nghiên cứu: Thc hin phỏp lut
v ngi khuyt tt Vit Nam hin nay đang là vấn đề cấp thiết cả về mặt
lý luận và thực tiễn. Chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ tôi hy vọng sẽ góp
phần nhỏ bé vào việc phát triển, hoà nhập đời sống cộng đồng xã hội và bảo
đảm thực hiện các quyền của ngời khuyết tật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật liên quan đến nhiều Bộ,
ngành, nhiều cấp chính quyền, nhiều lĩnh vực do vậy trong quá trình tổ chức
và thực hiện pháp luật cũng nh thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nớc,
nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của các cơ quan trong bộ máy nhà nớc đã có
một số công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Cụ thể
- Dự án: Dự án phân tích, đánh giá chính sách pháp luật chăm sóc và
bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, năm 1999 của Bộ Lao động, thơng binh
và xã hội.
- Đánh giá việc thực hiện Bộ luật lao động đối với lao động là ngời tàn
tật và pháp lệnh ngời tàn tật- Nguyễn Diệu Hồng- Bộ Lao động, thơng binh và
xã hội .
- Nội dung và phơng pháp giáo dục trẻ em có tật ở Việt nam- Viện
Khoa học giáo dục thuộc Bộ Giáo dục.
- Đề tài: Các biện pháp tổ chức giáo dục hoà nhập giúp trẻ em khuyết tật
thính giác vào lớp 1, Luận án Tiến sĩ giáo dục học của Nguyễn Thị Hoàng Yến.

- Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về quyền của ngời khuyết tật ở Việt nam
hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Báo - Học viện Chính trị -
Hành chính Quốc gia.
- Báo cáo kết quả thực hiện Pháp lệnh về ngời tàn tật và đề án trợ giúp
ngời khuyết tật giai đoạn 2006 2010 của Bộ Lao động, thơng binh và xã hội
năm 2008.
- Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện các chính sách trợ giúp phụ nữ
khuyết tật năm 2008 của TW Hội Liên hiệp phụ nữ Việt nam.
- Báo cáo thực hiện các chính sách trợ giúp ngời khuyết tật trong dạy
nghề, học nghề (Báo cáo năm 2008 của Cục việc làm Bộ Lao động Thơng
binh và Xã hội).
- Báo cáo thực hiện các chính sách về việc làm cho ngời khuyết tật- nhìn
từ góc độ luật pháp. Tham luận khoa học của Cục việc làm- Bộ Lao động- Th-
ơng binh và Xã hội năm 2008 tại Hội thảo về chính sách việc làm đối với ngời
khuyết tật.
- Tổng kết tình hình thực hiện Quyết định của Thủ tớng năm 2005 về
thực hiện hỗ trợ ngời khuyết tật giai đoạn 2005 2010 do Bộ Lao động- Th-
ơng binh và Xã hội xây dựng năm 2009.
Tất cả các công trình trên, dù tiếp cận dới góc độ chính sách pháp luật,
giáo dục, đào tạo ngời khuyết tật, chăm sóc sức khoẻ ngời khuyết tật hoặc
đánh giá quá trình thực hiện pháp luật lao động liên quan đến đối tợng là ngời
khuyết tật trong quá trình tìm việc làm và tiếp cận xã hội trong các lĩnh vực
khác nhau thì cũng đã có những nội dung liên quan tới quy trình, các giai
đoạn thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật. Tuy vậy hiện nay cha có công
trình khoa học nào nghiên cứu một cách trực tiếp và có hệ thống về hoạt động
thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật ở Việt nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về nhà
nớc và pháp luật, nghiên cứu và đánh giá chính xác thực trạng công tác thực hiện

pháp luật về ngời khuyết tật ở nớc ta hiện nay, trên cơ sở đó đa ra những giải
pháp khả thi nhằm nâng cao hoạt động thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật,
góp phần bảo đảm việc thực hiện các quyền của ngời khuyết tật, tạo cơ hội cho
ngời khuyết tật bình đẳng và hoà nhập cộng đồng xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt đợc mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Một là: Hệ thống hoá, khái lợc hoá một số nội dung cả về lý luận và thực
tiễn liên quan đến ngời khuyết tật, tàn tật. Trên cơ sở đó hình thành cơ sở lý
luận về thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật ở nớc ta hiện nay, phân tích các
hình thức và vai trò thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật đồng thời luận văn
giới thiệu khái quát kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực xây dựng văn bản
pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật.
Hai là: Phân tích đánh giá thực trạng ngời khuyết tật và hoạt động thực
hiện pháp luật về ngời khuyết tật, trong đó phân tích, đánh giá những thành
tựu và hạn chế, nguyên nhân của thực trạng thực hiện pháp luật về ngời khuyết
tật hiện nay.
Ba là: Khẳng định các quan điểm và đề xuất giải pháp bảo đảm hoạt
động thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật ở nớc ta hiện nay. Những giải
pháp cần đợc xây dựng mang tính chất tổng thể và phù hợp với hoạt động
quản lý nhà nớc cũng nh hoạt động thực hiện pháp luật ở nớc ta hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật có phạm vi rất rộng có liên quan
đến nhiều văn bản luật khác nhau cũng nh nhiều hoạt động của các cơ quan
trong bộ máy nhà nớc. Luận văn xác định phạm vi nghiên cứu là qúa
quantrình thực hiện pháp luật mà chủ yếu là từ khi có Pháp lệnh về ngời tàn tật
năm 1998. Để có căn cứ khoa học khi đa ra các giải pháp nâng cao chất lợng
thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật, luận văn đánh giá thực trạng hoạt động
thực hiện pháp luật dựa trên những báo cáo tổng kết của cơ quan chịu trách
nhiệm thực hiện hoạt động quản lý nhà nớc về ngời khuyết tật là Bộ Lao động-
Thơng binh và Xã hội.

5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài đợc nghiên cứu dựa trên phơng pháp luận Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí
Minh và đờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nớc và pháp luật.
5.2. Phơng pháp nghiên cứu
Đề tài đợc thực hiện bởi các phơng pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
để xử lý tài liệu thu thập, so sánh và minh hoạ bằng biểu đồ, sơ đồ, tham khảo
tài liệu trong và ngoài nớc.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên ở trong nớc nghiên cứu có hệ thống
hoạt động thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật và có những đóng góp mới
sau đây:
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và những đặc điểm của hoạt động thực hiện
pháp luật về ngời khuyết tật.
- Đánh giá có hệ thống và khái quát thực trạng hoạt động thực hiện pháp
luật trong phạm vi cả nớc. Trong đó có những đáng giá mang tính chất chuyên
sâu hoạt động thực hiện pháp luật.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện công
tác thực hiện pháp luật và từ đó nâng cao nhận thức cả xã hội đối với ngời
khuyết tật
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung nhận thức lý luận
về thực hiện pháp luật và đề xuất những giải pháp cần thiết trong quá trình
hoạch định chính sách, làm tài liệu tham khảo trong thực hiện pháp luật và
góp vào trong quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền của ngời khuyết tật ở
Việt nam hiện nay.
Nhà nớc ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện những quy định
liên quan đền ngời khuyết tật mà cụ thể là xây dựng Dự án luật về ngời khuyết
tật, những nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa trong việc hoàn thiện chính
sách và là những đóng góp cả về lý luận và thực tiễn trong hoạch định chính

sách liên quan đến ngời khuyết tật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chơng, 7 tiết.
Chơng 1
cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật
về ngời khuyết tật ở việt nam hiện nay
1.1. Khái niệm, đặc điểm, các hình thức và vai trò thực
hiện pháp luật về ngời khuyết tật
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật
Để tìm hiểu khái niệm thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật, trớc hết
cần làm rõ khái niệm thực hiện pháp luật.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do
cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Hệ thống các quy phạm này tạo khuôn khổ cho hoạt động xã hội, chứa đựng các
quy tắc cấm đoán hoặc bắt buộc chung và tác động, điều chỉnh tới các quan hệ
xã hội Vì vậy hoạt động thực hiện pháp luật không chỉ là sự quan tâm của Nhà n-
ớc mà còn là của mỗi cá nhân bởi kết quả của quá trình đó tác động mạnh mẽ tới
mọi mặt của đời sống xã hội. Việc tự giác thực hiện các quy phạm pháp luật gắn
chặt với yêu cầu của các cơ quan trong bộ nhà nớc, là mục tiêu và là đòi hỏi các
tổ chức, cá nhân trong xã hội tôn trọng, thực hiện chính xác, đầy đủ pháp luật.
Nh vậy, thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của
con ngời phù hợp với quy định của luật pháp.
Thực hiện pháp luật là bớc tiếp theo sau khi văn bản pháp luật đợc ban
hành để đa các quy phạm pháp luật trở thành các quy tắc xử sự của các chủ
thể pháp luật làm cho các yêu cầu, quy định của văn bản pháp luật trở thành
hiện thực.
Về pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp, hành vi đó
không trái, không vợt ra ngoài các quy định của pháp luật. Thực hiện pháp
luật có thể là hành vi của mỗi cá nhân nhng cũng có thể là hoạt động của các

cơ quan nhà nớc, các tổ chức xã hội.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy hiện nay có một số quan
niệm về thực hiện pháp luật sau:
Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về nhà nớc
và pháp luật của Viện Nhà nớc và Pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh thì: "Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm
cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra
cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật" [23, tr.270].
Giáo trình của Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng: "Thực
hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định
của pháp luật đi vào cuộc sống trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của
các chủ thể pháp luật" [21, tr.494].
Theo Giáo trình lý luận nhà nớc và pháp luật của Trờng Đại học Luật
Hà Nội thì: "Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm
cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [31, tr.461].
Từ những quan niệm thực hiện pháp luật nêu trên cho thấy:
- Các định nghĩa đều thống nhất về thực hiện pháp luật là hoạt động có
mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật.
- Thực hiện pháp luật là các hoạt động thực tế, hợp pháp, làm cho những
quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế trong cuộc sống con ngời.
- Thực hiện pháp luật là một quá trình của các chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật.
Nh vậy, theo chúng tôi khái niệm thực hiện pháp luật đợc hiểu nh
sau: Thực hiện pháp luật là một quá trình của chủ thể pháp luật nhằm mục
đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật là một quá trình hoạt động có
mục đích làm cho những quy định của pháp luật về ngời khuyết tật đi vào
cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp trong mối quan hệ giữa

quyền của ngời khuyết tật với quyền của các chủ thể khác nhau khi tham gia
quan hệ pháp luật.
Với t cách chủ thể quản lý, nhà nớc đã sử dụng pháp luật làm phơng
tiện quan trọng nhất để tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. khi ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật nhà nớc mong muốn các văn bản đó
phải đợc tôn trọng và thực thi có hiệu quả trong thực tế. Thực hiện pháp luật là
quá trình hoạt động có mục đích, định hớng nhằm hiện thực hoá nội dung các
quy định của pháp luật bằng các hành vi thực tế của các chủ thể khi tham gia
vào quan hệ pháp luật.
Dới góc độ pháp lý, chỉ những hành vi xử sự phù hợp với các quy định
của pháp luật về ngời khuyết tật của các chủ thể có đầy đủ khả năng nhận thức
đợc yêu cầu của quy phạm pháp luật, có khả năng tự chịu trách nhiệm và gánh
chịu những hậu quả bất lợi do hành vi của họ gây ra thì đợc coi là quá trình
thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật.
Nh vậy, thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật là hoạt động có mục đích
của các chủ thể mà các chủ thể đó có thể là cá nhân, cơ quan nhà nớc, tổ chức
xã hội, các cá nhân đợc nhà nớc trao quyền nhằm làm cho các quy định của
pháp luật về ngời khuyết tật trở thành những hành vi trong thực tế bảo vệ và
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp đối với ngời khuyết tật.
1.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật
Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật mang đầy đủ đặc điểm của quá
trình thực hiện pháp luật nói chung. Với bản chất là hoạt động xã hội của con
ngời, thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật hàm chứa những đặc điểm chung
của các hoạt động xã hội khác đồng thời với bản chất pháp lý của mình, thực
hiện pháp luật về ngời khuyết tật đã tạo nên những đặc điểm nổi trội và đặc
thù sau đây:
Thứ nhất: Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật bao giờ cũng thông
qua những hành vi cụ thể của con ngời. Đời sống xã hội của con ngời bao giờ
cũng đợc bộc lộ thông qua các hành vi cụ thể trong các mối quan hệ xã hội.
Hành vi cũng chính là các phơng thức tồn tại của con ngời, chính vì lẽ đó, việc

thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật thờng tồn tại là những dạng hành động
tích cực là chủ yếu và phổ biến của các cá nhân hoặc cơ quan trong bộ máy
nhà nớc.
Kết quả của việc thực hiện các hành vi đó trên thực tế không phải lúc
nào cũng hợp pháp, cũng bảo vệ và mang lại lợi ích đối với ngời khuyết tật mà
có thể do nhiều nguyên nhân dẫn tới hoặc trái pháp luật hoặc mục đích bảo vệ
và bảo đảm quyền lợi cho ngời khuyết tật không thể đạt đợc.
Thứ hai: Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật là hành vi phù hợp với
pháp luật về ngời khuyết tật. Đó là những hành vi cụ thể của con ngời song
thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật có đặc điểm là phải phù hợp với các
quy định hiện hành liên quan tới ngời khuyết tật. Việc phù hợp ở đây đợc hiểu
là pháp luật cấm điều gì làm ảnh hởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của ngời
khuyết tật thì chủ thể không làm, pháp luật có những quy định bắt buộc gì
nhằm tạo điều kiện và bảo vệ quyền lợi của ngời khuyết tật, quyền tiếp cận đời
sống xã hội của ngời khuyết tật thì chủ thể tích cực tham gia và pháp luật cho
phép làm gì thì các chủ thể đa ra quyết định để thực hiện hành vi hoặc không
thực hiện hành vi phù hợp.
Nói đến việc thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật bao giờ các chủ thể
cũng quan tâm tới việc thực hiện cái gì? Nói cách khác là thực hiện nội dung
gì liên quan tới ngời khuyết tật và cách thức, hình thức thực hiện bằng hình
thức nào? Nh vậy, tính hợp pháp trong quá trình thực hiện pháp luật về ngời
khuyết tật bao gồm thực hiện cả những quy phạm về nội dung và những quy
phạm về hình thức, quy trình và thủ tục. Chỉ có sự đảm bảo và phù hợp cả về
nội dung và hình thức thì quá trình thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật mới
làm cho các hành vi và quan hệ pháp luật phát sinh trong thực tế hợp pháp và
tích cực bảo vệ việc thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật.
Thứ ba: Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật là một quá trình có mục
đích, nó bao gồm nhiều hoạt động kế tiếp nhau. Để biến những quyền và
nghĩa vụ pháp lý bảo vệ ngời khuyết tật thành những hành vi xử sự trong thực
tế thì cần thiết phải thông qua hàng loạt các hoạt động cụ thể của con ngời mà

các hoạt động đó phải có mục đích, mục tiêu cụ thể.
Các hoạt động cụ thể đó bao gồm: Chủ thể tìm hiểu các quy định của
pháp luật có nội dung cụ thể nh thế nào? Xem xét vị trí, chức năng vai trò của
bản thân, ra các quyết định về cách thức, thời gian hoạt động cụ thể. Tất cả
các hoạt động đó phải cần thiết xác định mục tiêu cụ thể là bảo vệ và bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của ngời khuyết tật thông qua việc thực hiện các
quy phạm cụ thể.
Tích mục đích có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình thực hiện
pháp luật nói chung. Đối với quá trình thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật
có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi ngời khuyết tật là đối tợng yếu thế trong xã
hội. Nh vậy, đòi hỏi tích mục tiêu, mục đích không chỉ có ý nghĩa trong việc
thiết lập, xây dựng các quy phạm pháp luật cụ thể mà còn là đòi hỏi đối với
các chủ thể trong quá trình thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật.
Thứ t: Quá trình thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật đợc bảo đảm
bằng các biện pháp của nhà nớc.
Để pháp luật thật sự đi vào đời sống xã hội thì quá trình thực hiện pháp
luật cần thiết phải đợc bảo đảm từ phía nhà nớc chính đặc điểm này tạo ra sự
khác biệt cơ bản giữa pháp luật với đạo đức. Đối với nớc ta pháp luật về ngời
khuyết tật thể hiện ý chí của nhà nớc nhằm bảo vệ và bảo đảm cho ngời
khuyết tật tiếp cận với đời sống xã hội do vậy thực hiện pháp luật về ngời
khuyết tật không chỉ là mong muốn của quản lý hành chính nhà nớc mà còn là
nguyện vọng chung của đa số nhân dân lao động. Chính sự bảo đảm của nhà
nớc mới làm cho pháp luật về ngời khuyết tật đợc thực thi trong môi trờng
thực hiện bình đẳng bảo đảm cho việc việc thụ hởng các lợi ích hợp pháp của
ngời khuyết tật. Trong trờng hợp các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật
liên quan tới ngời khuyết tật không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các
yêu cầu thì nhà nớc bằng quyền lực của mình sử dụng các biện pháp bắt buộc
hoặc các biện pháp cỡng chế nhằm yêu cầu các chủ thể thực hiện hành vi hợp
pháp với ngời khuyết tật. Nhà nớc sử dụng các hình thức bảo đảm pháp lý, sử
dụng các tổ chức xã hội hoặc các thiết chế khác nhau phù hợp với từng nhóm

đối tợng khuyết tật.
Thứ năm, thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật vừa mang tính thực
hiện quyền lực nhà nớc, vừa mang tính xã hội rộng rãi. Thực hiện pháp luật về
ngời khuyết tật thông qua các hình thức riêng có của mình làm cho những quy
phạm pháp luật về ngời khuyết tật đi vào cuộc sống. Những quy phạm này chính
là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nớc ban hành hoặc thừa nhận và bảo
đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực ngời khuyết
tật. Đó chính là hệ thống các quy phạm quy định về các giải pháp bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của ngời khuyết tật trong việc tiếp cận các hoạt
động về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.tổ chức, về các đảm bảo khác trong
lĩnh vực quản lý nhà nớc về ngời khuyết tật. Những quy phạm này có tính bắt
buộc chung đối với mọi công dân, mọi chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về
ngời khuyết tật. Việc thực hiện nghiêm chỉnh hệ thống quy phạm này cũng
chính là thực hiện quyền lực nhà nớc trong lĩnh vực ngời khuyết tật. Mặt
khác, ngời khuyết tật là bộ phận dân c quan trọng, là bộ phận không thể
tách rời của đời sống xã hội. Việc tiếp cận với đời sống xã hội của bộ phận
dân c yếu thế này nh thế nào có ảnh hởng sâu rộng trong đời sống cộng
đồng. Vì lẽ đó, để thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật có hiệu quả cần
phải phát huy sức mạnh tối đa của các chủ thể, các cá nhân, tổ chức và toàn
xã hội trong chấp hành, tuân thủ, sử dụng và áp dụng pháp luật về ngời
khuyết tật. Do đó, thực hiện pháp luật có tính xã hội rộng lớn.
1.1.3. Hình thức thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật
Các quy phạm pháp luật liên quan đến ngời khuyết tật đợc quy định
trong rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Việc thực hiện đầy đủ các văn
bản pháp luật này đòi hỏi có sự thống nhất và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nớc. Căn cứ vào tính chất và đặc
điểm hoạt động thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật có thể chia hình thức
thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật bao gồm:
- Tuân thủ pháp luật về ngời khuyết tật .
Tuân thủ pháp luật về ngời khuyết tật là một hình thức thực hiện pháp

luật về ngời khuyết tật, trong đó các chủ thể thực hiện pháp luật tự kiềm chế
để không tiến hành những hoạt động mà những văn bản pháp luật chứa đựng
các quy phạm điều chỉnh những quan hệ pháp lý liên quan đến ngời khuyết tật
ngăn cấm. Thực tiễn cho thấy đang tồn tại khoảng hai mơi văn bản luật điều
chỉnh những vấn đề liên quan đến ngời khuyết tật, những văn bản này quy
định những biện pháp, giải pháp nhằm bảo vệ và bảo đảm quyền tiếp cận đối
với ngời khuyết tật trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Tuân thủ
pháp luật về ngời khuyết tật vừa là hành vi không thực hiện những hành vi
nguy hiểm đối với ngời khuyết tật mà còn thực hiện hành vi bắt buộc hoặc làm
việc bắt buộc nào đó do pháp luật quy định nhằm bảo vệ đối với ngời khuyết
tật trong những điều kiện và hoàn cảnh mà các quy phạm pháp luật cụ thể đã
dự liệu.
- Thi hành pháp luật về ngời khuyết tật.
Thi hành pháp luật về ngời khuyết tật là hình thức thực hiện pháp luật
trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý bằng hành động tích cực.
Điều này có nghĩa rằng những quy phạm pháp luật liên quan đến ngời khuyết
tật bao giờ cũng xác định trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia quan hệ
pháp luật cụ thể. Việc thi hành đó mang tính chất tự nguyện bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của ngời khuyết tật. Trong một số trờng hợp, nếu các chủ thể
không thực hiện hành vi phù hợp sẽ bị các cơ quan chức năng của nhà nớc
thực hiện biện pháp cỡng chế và việc thực hiện đó cũng chính là quá trình thi
hành pháp luật về ngời khuyết tật.
- Sử dụng pháp luật về ngời khuyết tật.
Sử dụng pháp luật về ngời khuyết tật là hình thức thực hiện pháp luật
mà trong đó các chủ thể thực hiện pháp luật sử dụng các quyền năng về mặt
pháp lý, công cụ pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của ngời
khuyết tật. Trong nội dung này bao hàm cả hoạt động mà bản thân ngời
khuyết tật sử dụng các công cụ pháp lý nhằm bảo vệ chính bản thân mình.
Trong quá trình sử dụng pháp luật đối với ngời khuyết tật, biểu hiện là những
hoạt động nh sử dụng quyền khiếu nại, quyền tố cáo, quyền khởi kiện hoặc

các quyền năng pháp lý khác nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nớc, quyền và lợi
ích của bản thân ngời khuyết tật.
Quá trình sử dụng pháp luật phải bảo đảm tuân thủ pháp luật một cách
tuyệt đối, bởi chính từ quá trình sử dụng pháp luật rất có thể dẫn tới hiện tợng
vợt quá thẩm quyền hoặc không sử dụng đúng các quy định của pháp luật về
ngời khuyết tật.
- áp dụng pháp luật về ngời khuyết tật.
áp dụng pháp luật về ngời khuyết tật là một hình thức thực hiện pháp
luật trong đó nhà nớc thông qua các cơ quan trong bộ máy nhà nớc hoặc đội
ngũ cán bộ công chức có thẩm quyền do pháp luật quy định thực hiện hoạt
động tổ chức cho các chủ thể khác nhau thực hiện những quy định có liên
quan đến ngời khuyết tật. Tuy nhiên biểu hiện phổ biến của hoạt động áp dụng
pháp luật là các cán bộ, công chức trong các cơ quan chức năng của nhà nớc
căn cứ vào các quy định hiện hành của nhà nớc về ngời khuyết tật để ra các
quyết định pháp lý nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ
pháp lý liên quan tới ngời khuyết tật.
1.1.4. Vai trò thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật.
Yêu cầu quan trọng đặt ra đối với việc xây dựng pháp luật của Nhà n-
ớc ta là pháp luật phải là cơ sở của việc tổ chức và hoạt động của Nhà nớc,
pháp luật phải là công cụ gìn giữ trật tự, kỷ cơng xã hội, pháp luật là phơng
tiện xử sự của mọi công dân. Đờng lối, quan điểm của Đảng, chủ trơng,
chính sách của Nhà nớc, nhu cầu khách quan của xã hội phải đợc phản ánh
thông qua hệ thống pháp luật.
Quản lý xã hội bằng pháp luật nhng vấn đề cơ bản không chỉ Nhà n-
ớc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ, mà điều quan
trọng hơn cả là pháp luật của Nhà nớc phải đợc mọi thành viên trong xã hội
tôn trọng và chấp hành một cách nghiêm chỉnh và triệt để, pháp luật phải đi
vào cuộc sống, phải biến thành hành động của mọi công dân, mọi tổ chức
trong xã hội.
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ cũng cha đủ vì pháp

luật ở trạng thái đó vẫn là trạng thái tĩnh nó có thể tác động đến trật tự pháp
luật, thúc đẩy quá trình phát triển của các quan hệ xã hội nhng mức độ rất
hạn chế và chủ yếu mới chỉ là thông qua ý thức pháp luật của công dân ở
một bộ phận không đáng kể. Pháp luật chỉ có thể phát huy hết tác dụng khi
nó đợc tổ chức thực hiện tốt trong đời sống xã hội, khi các quy định của
pháp luật trở thành những hành vi, cách xử sự thực tế của các cá nhân, tập
thể trong cuộc sống hằng ngày.
Trong đời sống xã hội có rất nhiều lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi Nhà
nớc phải xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật để đáp ứng yêu cầu
điều chỉnh các quan hệ xã hội đó. Thực tiễn cho thấy có rất nhiều văn bản
pháp luật phát huy tác dụng tốt, đem lại hiệu quả thiết thực trong công tác
quản lý, nhng vẫn còn không ít văn bản luật cha phát huy đợc hiệu lực thi
hành, không mang lại hiệu quả nh mong muốn. Mặt tồn tại đó có nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do cha tổ chức tốt việc thực hiện
pháp luật. Khi giữa hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật có
một khoảng cách lớn, tức là pháp luật đợc ban hành với khối lợng lớn mà ít
đi vào cuộc sống, thì sẽ dẫn đến tình trạng pháp luật bị coi thờng, không hiệu
quả. Vì vậy, thực hiện pháp luật có vai trò to lớn trong việc chuyển văn bản
pháp luật của Nhà nớc đợc thực thi trong đời sống thực tiễn.
Để nhà nớc quản lý xã hội bằng pháp luật thì phải có phơng thức
thực hiện tốt các hoạt động về pháp luật từ khâu xây dựng pháp luật, phổ
biến, giáo dục pháp luật, thực hiện pháp luật, kiểm tra, xử lý những hành
vi vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật. Để pháp luật phát huy hiệu
lực, đạt hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội, thì Nhà
nớc ngoài việc tạo lập môi trờng chính trị - xã hội thuận lợi, nâng cao
trình độ pháp lý cho cán bộ và nhân dân, xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, đòi hỏi phải xác lập cơ chế thực hiện pháp luật một cách
có hiệu quả.
Nh vậy có thể khẳng định rằng, thực hiện pháp luật có vai trò và tầm
quan trọng đặc biệt trong toàn bộ các hoạt động về pháp luật. Thực hiện

pháp luật là hoạt động đa pháp luật vào cuộc sống, biến những quy phạm
pháp luật thành những hành vi, xử sự thực tế, hợp pháp của cá nhân, tập thể
trong thực tiễn xã hội. Nếu không có tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật thì
ý chí của Nhà nớc sẽ không đi vào đời sống thực tiễn, pháp luật sẽ không
phát huy đợc hiệu lực, sẽ không đạt hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ
xã hội.
Vai trò của thực hiện pháp luật không chỉ thể hiện trong toàn bộ các
hoạt động về pháp luật (xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và bảo vệ
pháp luật) mà nó còn là: Một mặt quan trọng của nền pháp chế. Kết quả của
việc tổ chức thực hiện pháp luật là một trong những tiêu chuẩn để xác định
tính chất của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, pháp chế là một phạm
trù thể hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật phải
tôn trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Sự thực hiện
pháp luật là trung tâm của pháp chế.
Trên cơ sở vai trò của thực hiện pháp luật trên đây, vai trò thực hiện
pháp luật về ngời khuyết tật đợc thể hiện cụ thể nh sau.
1.1.4.1. Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật nhằm đa pháp luật
vào đời sống xã hội, bảo đảm quyền tiếp cận với mọi mặt đời sống xã hội
của ngời khuyết tật
Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật là đa đờng lối, chính sách của
Đảng vào cuộc sống, khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ
nghĩa. Thông qua chỉ đạo việc triển khai và tổ chức thực hiện pháp luật tổ
chức Đảng thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và đánh giá đúng mức về
năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đảng viên đồng thời rà soát
tổng kết những chính sách trên phạm vi quốc gia đồng thời từng bớc tiếp
cận Công ớc quốc tế về quyền của ngời khuyết tật.
Không thể phủ nhận sự song hành của ngời khuyết tật trong đời
sống xã hội và điều đó có nghĩa rằng nhà nớc cần thiết phải có trách
nhiệm đối với việc bảo đảm quyền tiếp cận mọi mặt đời sống xã hội. Khi
ngời khuyết tật đợc tiếp cận cũng chính là quyền của ngời khuyết tật đợc

bảo đảm. Sự ổn định xã hội cũng nh bản chất tốt đẹp của nhà nớc cũng đ-
ợc thể hiện sinh động. Trật tự xã hội đợc bảo đảm là điều kiện ổn định xã
hội nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế của đất nớc. đồng thời
góp phần ổn định xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện pháp luật chính là quá trình đua pháp luật về ngời khuyết tật
vào thực tiễn cuộc sống. Để những quy phạm đó đi vào thực tiễn nh thế nào
liên quan tới vấn đề quan niệm của cả xã hội về ngời khuyết tật. Trên thế giới
hiện nay cha có quan niệm thống nhất về ngời khuyết tật. Quan niệm về mặt y
tá cho rằng ngời khuyết tật bị khiếm khuyết bộ phận cơ thể hoặc chức năng,
nh vậy những khiếm khuyết nh vậy có thể nhận thấy và dùng biện pháp giám
định có thể xác định đợc mức độ khuyết tật. Trên cơ sở đó xây dựng chính
sách phù hợp với từng nhóm đối tợng. Quan niệm này rõ ràng cha tiếp cận dới
góc độ xã hội và quyền của ngời khuyết tật và cha xác định trách nhiệm xã hội
đối với ngời khuyết tật. Dới góc độ quyền có thể nhận thấy, mặc dù khiếm
khuyết về bộ phận cơ thể hoặc chức năng nhng nếu xã hội tạo cho họ điều
kiện tiếp cận thì họ hoàn toàn có thể tiếp cận vào đời sống xã hội. Một ngời
khuyết tật nhìn hoặc khuyết tật vận động thực tế tham gia giao thông là rất
khó khăn nhng nếu nhà nớc cung cấp các công cụ và phơng tiện về hớng dẫn
thâm gia giao thông hoặc bảo đảm các điều kiện tiếp cận thì những cá nhân đó
không còn khó khăn nữa và nh vậy họ không còn là ngời khiếm khuyết và
không khuyết tật nữa.
Phần lớn các quốc gia trên thế giới đều phân dạng và phân hạng ngời
khuyết tật để có chính sách đi kèm tuy nhiên phân hạng khuyết tật dựa vào
tiêu chí nào hiện nay ở nớc ta cha có câu trả lời chính xác.
- Thực hiện pháp luật chính là tạo điều kiện bảo đảm tiếp cận với các
hoạt động xã hội của ngời khuyết tật là không tách rời với môi trờng hoà nhập.
Hoạt động học văn hoá, học nghề, vui chơi giải trí không thể tạo môi trờng
tách biệt cộng đồng xã hội.
1.1.4.2. Pháp luật về ngời khuyết tật chi phối đến việc thực hiện hệ
thống pháp luật về an sinh xã hội

Ngời khuyết tật là bộ phận dân c yếu thế trong xã hội. hiện nay có 20
văn bản luật điều chỉnh những vấn đề liên quan đến ngời khuyết tật.Nằm
trong tổng thể chính sách an sinh xã hội của nhà nớc thì bộ phận ngời
khuyết tật là bộ phận không thể tách rời. Vì vậy thực hiện tốt pháp luật về
ngời khuyết tật chính là thực hiện tốt các quy định của pháp luật về an sinh
xã hội, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ và bảo đảm quyền tiếp cận của
ngời khuyết tật, bảo vệ trật tự an toàn xã hộiTuy nhiên cũng nhận thức rõ
vai trò và vị trí của ngời khuyết tật trong xã hội. Bản thân ngời khuyết tật
không có lỗi mà vấn đề đặt ra là nhà nớc, gia đình và xã hội có trách nhiệm
nh thế nào nhằm bảo đảm cho ngời khuyết tật thực hiện các quyền cơ bản
của con ngời. Đó cũng chính là ranh giới khi nghiên cứu pháp luật về ngời
khuyết tật và thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật.
1.1.4.3. Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật làm cho ý thức
pháp luật của tổ chức, công dân đợc nâng cao trong đó đặc biệt quan
trọng là xác định vai trò của nhà nớc, gia đình và xã hội đối với ngời
khuyết tật
Muốn thực hiện pháp luật tốt phải làm tốt công tác giáo dục, phổ biến
pháp luật. Trớc hết là các cơ quan nhà nớc và nhân viên nhà nớc phải hiểu
rõ và nắm chắc các quy định của pháp luật về ngời khuyết tật để cụ thể hoá
trong triển khai, tổ chức, kiểm tra việc thực hiện và xử lý vi phạm khi có
hành vi vi phạm pháp luật về ngời khuyết tật xảy ra. Pháp luật đợc phổ
biến, triển khai thực hiện tốt chính là làm cho nhận thức và hành động "của
phía Nhà nớc" đợc nâng lên và phục vụ ngày một tốt hơn các lợi ích của
nhân dân.
Các quy định của pháp luật về ngời khuyết tật cần phải đợc phổ biến
sâu rộng đến tất cả những ngời tham gia hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của ngời khuyết tật, bởi vì những hoạt động của họ mang ý nghĩa
quyết định đến thành công của hoạt động bảo vệ quyền của ngời khuyết tật.
1.1.4.4 Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật là đảm bảo các yêu
cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa

Chúng ta đều biết rằng pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc
biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nớc, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nớc, nhân viên các tổ chức xã
hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách
nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
Pháp chế trong lĩnh vực ngời khuyết tật là bộ phận của pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là chế độ đặc biệt của đời sống chính trị
- xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
cán bộ, công chức nhà nớc, nhân viên của các tổ chức xã hội và mọi công dân
đều phải tôn trọng và thực hiện đầy đủ pháp luật về ngời khuyết tật. Theo đó,
để bảo đảm và tăng cờng pháp chế trong lĩnh vực ngời khuyết tật: Một mặt,
đòi hỏi phải xây dựng đợc hệ thống pháp luật về ngời khuyết tật đầy đủ, đồng
bộ; ; mặt khác, yêu cầu mọi chủ thể tham gia quan quan hệ pháp luật phải
thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để đầy đủ hệ thống pháp luật này. Có nh vậy mới
hiện thực hoá đợc pháp luật về ngời khuyết tật vào đời sống xã hội. đây cũng
chính là biện pháp tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực ngời
khuyết tật.
1.2. Yêu cầu và điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về
ngời khuyết tật
1.2.1. Yêu cầu của thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật
Thứ nhất, Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật cần thiết và trên
nguyên tắc căn cứ nội dung của các văn bản pháp lý hiện hành. Hiện nay
những vấn đề liên quan tới ngời khuyết tật có 20 mơi văn bản luật và khoảng
200 văn bản của các Bộ, Ngành hớng dẫn thi hành. Thực tế trong nhiều văn
bản, tính thống nhất và chặt chẽ cha đợc bảo đảm, tuy nhiên không thể thực
hiện pháp luật nếu không dựa trên cơ sở là những văn bản pháp lý quy định
những vần đề bảo đảm quyền tiếp cận của ngời khuyết tật trong các lĩnh vực
chăm sóc sức khoẻ, học nghề và việc làm, tham gia giao thông, công nghệ
thông tin
Thứ hai, Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật đòi hỏi sự phối hợp của

nhiều cơ quan khác nhau trong bộ máy nhà nớc bởi lĩnh vực ngời khuyết tật
liên quan tới nhiều cơ quan khác nhau. Việc chăm sóc sức khoẻ hoặc học nghề
đối với ngời khuyết tật cần có sự phối kết hợp cả ngành Lao động- Thơng binh
và Xã hội , Bộ Y tế và Bộ Giáo dục.
Đặt ra yêu cầu là cần thiết phải có sự tham gia của nhiều ngành trong
việc thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật bởi thực tiễn những khó khăn của
ngời khuyết tật rất phức tạp và cần thiết phải huy động nhiều nguồn lực của
nhiều cấp chính quyền thì quá trình thực hiện chính sách mới đồng bộ trong
phạm vi cả nớc và mới khả thi trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn
nh ở nớc ta hiện nay.
Thứ ba, Thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật đợc bảo đảm bởi những
nguyên tắc của quản lý nhà nớc; công khai; minh bạch và bình đẳng trong
việc thực hiện các chính sách hỗ trợ của nhà nớc.
Thực hiện chính sách đối với ngời khuyết tật bao gồm những chính sách
tác động trực tiếp và những chính sách tác động gián tiếp. Nhũng chính sách
gián tiếp phần lớn là những bảo đảm từ phía xã hội bảo đảm quyền tiếp cận
đối với ngời khuyết tật. Do điều kiện kinh tế xã hội của đất nớc còn có sự
chênh lệch giữa các vùng miền do vậy đòi hỏi của quá trình này cần phải có
sự thống nhất trong phạm vi toàn quốc.
1.2.2. Điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật
Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về ngời khuyết tật là các điều
kiện để qui định pháp luật về ngời khuyết tật thành hiện thực. Những yếu tố ấy
bảo đảm và có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp tới kết quả thực hiện pháp
luật về ngời khuyết tật và là cơ sở để xây dựng các giải pháp đảm bảo thực
hiện pháp luật về ngời khuyết tật trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay. Để
pháp luật về ngời khuyết tật đợc thực hiện nghiêm chỉnh đáp ứng yêu cầu
hoàn thiện chính sách an sinh xã hội trong giai đoạn sắp tới cũng nh trong tiến
trình xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần phải có các yếu tố
bảo đảm nh sau:
1.2.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về ngời khuyết tật

Pháp luật là tiền đề, là cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ
thể pháp luật. Hệ thống pháp luật về ngời khuyết tật l cơ sở pháp lý cho cơ
quan, tổ chức, cán bộ, công chức có thẩm quyền tiến hành hoạt động bảo vệ và
bảo đảm quyền tiếp cận đời sống xã hội của ngời khuyết tật.
Thực tiễn hoạt động quản lý nhà nớc cho thấy nếu nh hệ thống pháp
luật về lĩnh vực nào đó không hoàn chỉnh thì không thể có hiệu quả trong hoạt
động quả lý nhà nớc cũng nh hoạt động thực hiện pháp luật. Trong những năm
vừa qua, mặc dù Pháp lệnh ngời tàn tật tác động mạnh mẽ tới nhận thức của cả

×