Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thi pháp văn xuôi tự sự trong truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn nguyễn huy tưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.6 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

NGUYỄN HỮU NHẤT

THI PHÁP VĂN XUÔI TỰ SỰ TRONG TRUYỆN VIẾT CHO
THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN HUY TƢỞNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội
1 - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

NGUYỄN HỮU NHẤT

THI PHÁP VĂN XUÔI TỰ SỰ TRONG TRUYỆN VIẾT CHO
THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN HUY TƢỞNG

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận Văn học
Mã số: 60.22.01.20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS Phạm Thành Hƣng

Hà Nội - 2016
2




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực
hiện dưới dự hướng dẫn khoa học của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thành
Hưng.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả của đề tài này là trung thực và
chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.
Học viên
Nguyễn Hữu Nhất

3


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình với Phó Giáo sư,
Tiến sĩ Phạm Thành Hưng, người thầy đã định hướng và luôn quan tâm, tận
tình hướng dẫn để tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy, cô giáo trong Khoa Văn học, nhà
trường, gia đình và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận
văn thạc sĩ này./.
Học viên
Nguyễn Hữu Nhất

4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………….….


3

1. Lý do chọn đề tài……................................................................

3

2. Lịch sử vấn đề…………………………………………………

4

3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu…………………….

8

4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………

9

5. Cấu trúc của luận văn………………………………………….

10

Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ THI PHÁP VĂN XUÔI TỰ SỰ VÀ
MẢNG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN HUY
TƯỞNG………………………………………………………………....

11

1.1. Khái lược về thi pháp văn xuôi tự sự của Nguyễn Huy

Tưởng…………………………………………………………………...

11

1.1.1. Khái lược về thi pháp học.....…………………………

11

1.1.2. Thi pháp truyện kể cho thiếu nhi của Nguyễn Huy
Tưởng.......................................................................................................

13

1.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng………....

15

1.2.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Huy Tưởng……...………

15

1.2.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng
trong dòng chảy văn học thiếu nhi………...……………………..

20

Chương 2: THI PHÁP NHÂN VẬT VÀ TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN….

24


2.1. Thi pháp nhân vật…….…………………………………..….

24

2.1.1. Khái niệm nhân vật………………………….………..

24

2.1.2. Nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn
Huy Tưởng…..…………………………………………………...

25

2.1.2.1. Nhân vật thiếu nhi…….………………………......

26

2.1.2.2. Nhân vật anh hùng………………………………..

30

2.1.2.3. Nhân vật từ thế giới loài vật…….……………..…

37

1


2.1.3. Một số biện pháp khắc họa nhân vật: …………...……


40

2.1.3.1. Khắc họa nhân vật qua hành động và xung đột…..

40

2.1.3.2. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình………………..

43

2.1.3.3. Khắc họa nhân vật bằng mô tả và phân tích tâm
lý………………………………………………………………….

45

2.2. Tổ chức cốt truyện…………………………………..………

50

2.2.1. Khái niệm cốt truyện………………..………………...

50

2.2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện của Nguyễn Huy
Tưởng………………………………………………………….…

51

Chương 3: NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ NGÔN NGỮ TRUYỆN KỂ.….


57

3.1. Người kể chuyện……..………………………….…………..

57

3.1.1. Khái lược về người kể chuyện…………...……….…..

57

3.1.1.1. Điểm nhìn trần thuật trong truyện thiếu nhi của
Nguyễn Huy Tưởng……...………………………………………

58

3.1.1.2. Mối quan hệ giữa người kể chuyện và điểm nhìn
trần

thuật

trong

truyện

thiếu

nhi

của


Nguyễn

Huy

Tưởng………………………………………………………….…

60

3.1.2. Người kể trong truyện của Nguyễn Huy Tưởng…..….

63

3.1.2.1. Người kể chuyện lịch sử………………………….

63

3.1.2.2. Người kể chuyện hướng đạo……………………...

74

3.2. Ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Huy Tưởng……...………

79

3.2.1. Khái lược ngôn ngữ kể chuyện………………..……...

79

3.2.2. Ngôn ngữ truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng…


80

KẾT LUẬN…………….…………………………………………….…

88

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………

91

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với một di sản văn học phong phú, trải rộng trên khá nhiều lĩnh vực,
Nguyễn Huy Tưởng xứng đáng là một đại diện xuất sắc của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Ông viết truyện ngắn, tiểu thuyết, soạn kịch, cả kịch bản sân
khấu lẫn kịch bản phim. Ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được những thành công
nhất định. Với những đóng góp sáng tạo của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã và
đang ngày càng thu hút được sự chú ý, tìm hiểu, lí giải, đánh giá không chỉ
trong giới nghiên cứu văn học nghệ thuật trong nước, mà cả ở nước ngoài.
Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn đã dành trọn đời để sáng tác về các đề tài lịch
sử, kháng chiến, về thủ đô Hà Nội, nhưng sẽ là thiếu sót nếu không nói đến
mảng văn chương mà nhà văn đã dành tâm huyết để viết cho tuổi thơ như:
Tìm mẹ, Hai bàn tay chiến sĩ, Cô bé gan dạ, đặc biệt là những truyện lịch sử
như: An Dương Vương xây thành Ốc, Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu
sáu chữ vàng… đã góp phần tạo lập một “văn hiệu” thực sự đáng kính trọng
mang tên ông.
Ở mảng đề tài lịch sử trong các truyện viết cho thiếu nhi, Nguyễn Huy

Tưởng đã hướng các em vào những thời kỳ hào hùng, trọng đại trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc, mà ở đấy những người anh hùng đã viết nên
những bản anh hùng ca chói lọi, vang vọng mãi non sông Việt Nam. Dù đấy
là những câu chuyện kể về những người anh hùng thời kỳ trung cận đại như:
Quang Trung, Trần Quốc Toản, hay là thời kỳ cổ đại như An Dương Vương
… Tất cả hiện vẫn không thể nào phai mờ trong ký ức của người dân đất Việt.
Việc nghiên cứu về con người, sự nghiệp và những sáng tác của ông đã
có khá nhiều các công trình nghiên cứu. Ở đây chúng tôi có thể kể đến một số
tác giả như: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Phong Lê, Bích Thu, Tôn Thảo
Miên… hay những nhà văn nổi tiếng nhận xét về các tác phẩm của Ông như
3


Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyên Ngọc… Qua các công trình
nghiên cứu và bài viết phê bình đó chúng ta thấy được những thành quả và
đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng đối với nền văn học nước nhà qua các tác
phẩm kịch, tiểu thuyết đặc biệt là truyện viết cho thiếu nhi. Mặc dù vậy, cho
đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào đi sâu vào tìm hiểu
đầy đủ toàn diện về thi pháp văn xuôi tự sự của Nguyễn Huy Tưởng trong
truyện viết cho thiếu nhi. Để làm rõ những đặc điểm nổi bật trong thi pháp
văn xuôi tự sự của ông, xuất phát từ thực tế, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Thi
pháp văn xuôi tự sự trong truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng”. Với đề tài này, thông qua sự lý giải những thành công của văn
xuôi thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng từ bình diện thi pháp tự sự, chúng tôi có
kỳ vọng được góp một phần nhỏ vào việc đánh giá chung và khẳng định tài
năng cùng những đóng góp của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Huy Tưởng được dư luận công chúng quan tâm như một tài
năng nghệ thuật ngay từ trước cách mạng tháng Tám, khi ông cho ra đời Vũ
Như Tô, An Tư công chúa. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu thực thụ về

Nguyễn Huy Tưởng phải được tính từ chuyên luận Nguyễn Huy Tưởng (19121960) của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, xuất bản năm 1966.
Trong công trình này các tác giả đã dành trọn chương Một để khảo sát sự
chuyển biến tư tưởng, con đường đến với văn chương và những bước đường
sáng tạo nghệ thuật của nhà văn từ một thanh niên yêu nước phấn đấu trở
thành một nhà văn cộng sản trên mặt trận văn nghệ. “Con đường đi của anh
không phải là thẳng tắp, dễ dãi. Có lúc anh bi quan, dao động, có lúc lòng tin
của anh bị lung lay nhưng nói chung con người đôn hậu, trung thực và đầy ý
thức trách nhiệm đó luôn luôn hướng về chân lý, hướng về Đảng. Ngòi bút
của anh lúc nào cũng đứng ở hàng đầu của cuộc chiến đấu cách mạng” [2, tr.
4


21]. Điều đáng ghi nhận trong công trình nghiên cứu này là các tác giả đã có
sự khảo sát kỹ về tư liệu, gắn tác phẩm với bối cảnh thời đại, trong hoàn cảnh
sáng tác cụ thể để thấy được ý nghĩa xã hội, tính thời sự và những hiệu ứng
tích cực trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Dựa trên nguyên lý và
phương pháp nghiên cứu theo quan điểm Mácxít, nghiêng về đánh giá, thẩm
bình những giá trị nội dung với những mô típ, kết cấu quen thuộc như: Hoàn
cảnh sáng tác, hình ảnh thời đại, thành công và một vài tồn tại, tinh thần dân
tộc trong tác phẩm, vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử, vài nét về
nghệ thuật…các tác giả chuyên luận đã đi sâu phân tích nội dung xã hội của
tác phẩm trong sự tương quan, gắn kết với hiện thực cuộc sống. Tuy nhiên
chúng tôi thấy trong chuyên luận đầu tay, có tính khai phá đầu tiên này, hai
nhà nghiên cứu còn thiên về miêu tả lại tác phẩm, tường thuật diễn biến cốt
truyện mà chưa đi sâu tìm hiểu những giá trị nghệ thuật, những nét đặc sắc
của một cây bút tài hoa.
Với độ lùi của thời gian, sự thông thoáng, đổi mới trong tư duy đánh
giá, nhìn nhận các hiện tượng văn học thời kỳ trước đổi mới, những vấn đề
đặt ra trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng tiếp tục trở thành đề tài được
bàn luận, nghiên cứu trên các diễn đàn khoa học với các bài viết công phu

nhiều phát hiện mới của các nhà nghiên cứu Phong Lê, Hà Minh Đức, Bích
Thu, Tôn Thảo Miên, Đỗ Đức Hiểu, Phạm Vĩnh Cư, Trần Đăng Suyền,
Nguyên Ngọc, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu… Bên cạnh đó là các Hội thảo
khoa học về cuộc đời, sự nghiệp Nguyễn Huy Tưởng thu hút sự quan tâm của
giới nghiên cứu, phê bình đã đưa ra những đánh giá khách quan nhằm khẳng
định vai trò, vị thế văn chương Nguyễn Huy Tưởng đối với sự phát triển của
văn chương dân tộc.
Năm 1996, bộ sách Nguyễn Huy Tưởng toàn tập do Nhà xuất bản Văn
học ấn hành, ra mắt bạn đọc, đã cung cấp một cách tương đối đầy đủ các tác
5


phẩm của nhà văn trên tất cả các thể loại, giúp người đọc có điều kiện thuận
lợi khi tiếp cận văn nghiệp Nguyễn Huy Tưởng.
Năm 2006, bộ ba Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng được Nhà xuất bản
Thanh niên xuất bản đã giúp người đọc có những hình dung rõ hơn về quá
trình lao động nghệ thuật miệt mài và những khát vọng lớn của nhà văn muốn
cống hiến cho văn học dân tộc. Đây là tập nhật ký được nhà văn cần mẫn ghi
chép trong suốt những năm cầm bút, bắt đầu từ ngày 02/11/1930 khi ông còn
là cậu học sinh trường Bonnal - Hải Phòng và kết thúc ngày 21/06/1960 với
những dòng cuối được ghi chép ngay trên giường bệnh Bệnh viện Việt - Xô
chỉ ít hôm trước khi nhà văn qua đời. Tập nhật ký đã “thâu tóm, phản ánh
toàn bộ sự nghiệp văn chương và cách mạng của ông, bắt đầu từ việc tìm
đường cho đến khi đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp, một chiến sĩ của
Đảng hoạt động trên lĩnh vực văn nghệ, với tất cả những đam mê và khát
khao sáng tạo, những thành tựu đã đạt được và cả những hẫng hụt của một
nhà văn không bao giờ bằng lòng với mình, những phơi phới lạc quan và
những băn khoăn, trăn trở của một người cả nghĩ” [20, tr. 6].
Tiêu biểu như cuốn Nguyễn Huy Tưởng về tác gia, tác phẩm (Bích
Thu, Tôn Thảo Miên tuyển chọn giới thiệu); Nguyễn Huy Tưởng khát vọng

một đời văn (Phương Ngân tuyển chọn và biên soạn)… Và đặc biệt phải kể
tới những công trình do Nguyễn Huy Thắng - con trai nhà văn, người đã dành
nhiều thời gian nghiên cứu, tìm hiểu về những trước tác của cha mình, về
những tâm sự, suy nghĩ khó nói của ông với mong muốn khắc họa một cách
chân thực, rõ nét gương mặt nhà văn, nhà văn hóa Nguyễn Huy Tưởng trong
cuộc sống đời thường và trong sáng tạo văn chương. Đó là các ấn phẩm có giá
trị như: Nguyễn Huy Tưởng trong vầng sáng hồi nhớ; Nguyễn Huy Tưởng
trước khi là nhà văn; Nguyễn Huy Tưởng với người thân; Nguyễn Huy Tưởng
văn và người…
6


Gần đây cuốn Nguyễn Huy Tưởng một nhà văn Hà Nội (Nxb Hà Nội,
2011) ra mắt bạn đọc nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội và 50
năm ngày mất nhà văn. Cuốn sách tập hợp những bài viết, bài tham luận của
các học giả, các nhà nghiên cứu trong Hội thảo khoa học “Nguyễn Huy Tưởng
với Hà Nội” (do Hội Nhà văn, Viện Văn học và Nhà xuất bản Kim Đồng tổ
chức) đã nhấn mạnh đến những đóng góp và cống hiến to lớn của Nguyễn
Huy Tưởng - người nối dài những vẻ đẹp của Thăng Long, của Hà Nội dấu
xưa. Cuốn sách giới thiệu nhiều bài viết hay của các nhà nghiên cứu như:
Nguyễn Huy Tưởng, một nhà văn Hà Nội (Phạm Xuân Nguyên), Thăng Long
- Hà Nội trong kịch và truyện của Nguyễn Huy Tưởng (Phong Lê), Cốt cách
của một người viết sử (Dương Trung Quốc), Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng với
tuổi thơ Hà Nội (Lê Phương Liên)… Những nhận định, đánh giá của các nhà
nghiên cứu đã nói lên tầm vóc và những đóng góp của “một nhà văn Hà Nội”,
người đã mang đến cho đất kinh kỳ những trang văn hay nhất đời mình.
“Nguyễn Huy Tưởng vĩnh biệt Hà Nội khi thành phố Thủ đô vào tuổi chín
trăm năm mươi. Ông đã viết nhiều về Thăng Long - Hà Nội, nhưng hình như
điều sâu xa nhất ông vẫn chưa nói hết, nói trọn, nói xong. Ông ra đi mang
theo tất cả những trăn trở và ước vọng của một người con Hà Nội, một con

người Hà Nội và một nhà văn Hà Nội cho xứ kinh kỳ - kẻ chợ đẹp hơn lên,
văn hóa hơn lên, phong phú hơn lên, cả trên mặt đất và trong hồn người.
Tưởng như bất cứ cái gì đụng đến Hà Nội hôm qua, hôm nay, và ngày mai,
vẫn khiến ông xúc động và lo lắng, dù đã tan vào cõi thinh không nửa thế kỷ
nay. Và những con chữ trên trang viết của ông về Hà Nội, cho Hà Nội, vì Hà
Nội đọc lên dịp nghìn năm Thăng Long vẫn thấy động cựa, xôn xao. Trên tất
cả, Nguyễn Huy Tưởng yêu Hà Nội, yêu những con người dám sống và chết
cho Hà Nội.” [17, tr. 204].

7


Ở mỗi công trình nghiên cứu các tác giả đã đề cập đến những khía cạnh
tiêu biểu, nổi bật trong những tác phẩm cụ thể, đồng thời có sự đối sánh với
tác phẩm của tác giả khác cùng viết về một thể loại để chỉ ra những nét đặc
trưng riêng và sự thành công trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng ở hai
bình diện nội dung tư tưởng và bút pháp nghệ thuật.
Ngoài các công trình nghiên cứu được xuất bản còn có những luận văn
thạc sĩ về sáng tác Nguyễn Huy Tưởng đã bảo vệ thành công gần đây như:
“Thể tài lịch sử - dân tộc trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng” (Trần Thị
Hồng Minh, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011); “Mạch lạc trong văn bản kịch
Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng” ( Đỗ Thị Bích Phượng, Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2011); “Điểm nhìn trong kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy
Tưởng” (Bùi Thị Tú, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2012)… Ở mỗi công trình
nghiên cứu các tác giả đã đề cập đến những khía cạnh tiêu biểu, nổi bật trong
những tác phẩm cụ thể.
Tuy nhiên vấn đề thi pháp tự sự trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy
Tưởng vẫn để bỏ ngỏ, như là vùng đất trống mà chúng tôi hy vọng mình có
thể góp được một tiếng nói riêng.
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn sẽ hướng trọng tâm vào tìm hiểu thi pháp văn xuôi tự sự
truyện thiếu nhi như: Cô bé gan dạ, Chiếc bánh chưng, Truyện Tấm Cám,
Tìm mẹ, Thằng Quấy, Con cóc là cậu ông Giời, Con chim Trĩ lông trắng, An
Dương Vương xây thành Ốc, Hai bàn tay chiến sĩ, Điện Biên Phủ của chúng
em, Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết cho thiếu nhi để
thấy được tài năng của nhà văn qua bình diện thi pháp tự sự như: người kể
chuyện, ngôn ngữ kể, tổ chức cốt truyện và hệ thống nhân vật. Cùng với khảo
sát 12 truyện nêu trên, ở đây chúng tôi còn khảo sát nhật ký của ông để làm rõ
8


hơn quan điểm, nghệ thuật truyện viết cho thiếu nhi mà ông đã dành cho độc
giả trẻ.
3.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Với đề tài đã chọn, luận văn của chúng tôi nhằm đem lại cách nhìn hệ
thống, chỉ ra những đặc điểm riêng biệt về các truyện ngắn viết cho thiếu nhi
của Nguyễn Huy Tưởng trong dòng chảy văn học viết cho thiếu nhi nói chung
của nước ta. Đồng thời, qua nghiên cứu truyện viết cho thiếu nhi của ông
chúng tôi cũng thử nghiệm vận dụng lý thuyết thi pháp văn xuôi tự sự vào
nghiên cứu một hiện tượng văn học cụ thể.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi kiến thức: Vận dụng lý thuyết tự sự học và các phương pháp
nghiên cứu cụ thể để làm rõ vấn đề về thi pháp văn xuôi tự sự như người kể
chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tổ chức cốt truyện và ngôn ngữ kể
trong văn xuôi mảng đề tài viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng. Đề tài được thực hiện cũng là dịp chúng tôi củng cố thêm kiến thức
văn học sử về văn học Việt Nam hiện đại.
- Phạm vi tư liệu: Thực hiện đề tài Thi pháp văn xuôi tự sự trong truyện
viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng chúng tôi tập trung khảo

sát :
+ Những truyện hay viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng – sách
xuất bản tại Nxb Kim Đồng, năm 2013;
+ Nguyễn Huy Tưởng tuyển tập, Nxb Văn học; năm 2012.
+ Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, 3 tập, Nxb Thanh niên; 2016.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu đã được xác định, đề tài sử dụng
phương pháp tiếp cận thi pháp học và lý thuyết tự sự học. Ngoài ra, cũng như
mọi luận văn chuyên ngành lý luận văn học khác, chúng tôi không thể không
9


sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như: phương pháp phân
tích - tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh.
5. Cấu trúc của luận văn
Về cấu trúc luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,
phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Khái lƣợc về thi pháp văn xuôi tự sự và mảng truyện
viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tƣởng.
Chương 2: Hệ thống nhân vật và tổ chức cốt truyện.
Chương 3: Ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ truyện kể.

10


Chƣơng 1
KHÁI LƢỢC VỀ THI PHÁP VĂN XUÔI TỰ SỰ VÀ MẢNG
TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN HUY TƢỞNG
1.1. Khái lƣợc về thi pháp văn xuôi tự sự của Nguyễn Huy Tƣởng.
1.1.1. Khái lược về thi pháp học.

Trong việc định nghĩa thi pháp và thi pháp học, cũng như hầu hết các
phạm trù cơ bản của khoa học nghiên cứu văn học và nhiều bộ môn của khoa
học nhân văn, ta gặp phải một tình hình chung: ở trình độ phát triển hiện nay,
các khoa học này chưa có khả năng đưa ra được những định nghĩa “đơn
nghĩa” về đối tượng nghiên cứu của mình. Chính điều này đã liệt hầu hết khoa
học nhân văn vào lớp các khoa học “chưa trưởng thành”. Nếu như toán học
hoặc vật lý học đã có thể xây dựng những định nghĩa “đúng duy nhất” về
điểm, đường thẳng, vận tốc âm thanh, trị số mét,… thì ngược lại, có thể nói
rằng có bao nhiêu nhà nghiên cứu về truyện kể và thi pháp văn xuôi thì có gần
như bấy nhiêu định nghĩa về thể loại và về thi pháp với tư cách một phân
ngành khoa học. Xét về mặt định nghĩa, “thân phận của thi pháp học không
khác gì mấy so với thân phận tiểu thuyết”. Vì thế, cái dung sai mà viện sĩ M.
Khrapchenco đã dành cho các định nghĩa về thi pháp học của ông lại phải
cộng thêm những dung sai rất đa dạng mà mỗi người sử dụng. Tuy nhiên, có
thể nói định nghĩa của M. Khrapchenco vẫn là một trong những định nghĩa
tổng quát nhất và thuyết phục nhất về thi pháp học. Ông viết: “Không hề kỳ
vọng một định nghĩa thật đầy đủ, thật bao quát, tôi cho rằng có thể xác định
thi pháp học như một bộ môn khoa học nghiên cứu của các phương thức và
phương tiện thể hiện cuộc sống bằng nghệ thuật, khám phá cuộc sống bằng
hình tượng” [10, tr. 242].
Thi pháp học là khoa học về hình thức nghệ thuật. Ngay luận điểm xuất
phát đó đã chứa đựng một đặc trưng rất cơ bản của cách tiếp cận đối tượng
11


trong bộ môn này. Thi pháp học cần phát hiện ra những quy luật chi phối cái
thế giới hết sức đa dạng và phong phú các hiện tượng nghệ thuật.
Với tư cách là một khoa học, sự tiếp cận của thi pháp học với các đối
tượng của nó luôn có những xu hướng vươn đến tính hệ thống. Điều này tuyệt
nhiên không phải do ngẫu hứng của các nhà nghiên cứu hay thôi thúc của thời

thượng vì càng ngày tiếp cận hệ thống càng trở thành một phương pháp khoa
học tiên tiến và hữu hiệu. Tính hệ thống như là một đặc điểm cơ bản mang ý
nghĩa phương pháp luận của thi pháp học có cơ sở từ trong bản thân đối tượng
của khoa học này: những hiện tượng hình thức nghệ thuật.
Thi pháp học có nhiệm vụ phát hiện ra những liên hệ đó dưới dạng các
quy luật và trong những trường hợp sáng rõ nhất – các hệ thống. Khả năng hệ
thống hóa – khả năng xây dựng và sắp xếp nhận thức trong một hệ thống, tức
là một tổ chức chặt chẽ, nhất quán theo những nguyên tắc nhất định – là một
đòi hỏi và một biểu hiện của sự trưởng thành khoa học. Mỗi trình độ nhận
thức mới của khoa học lại được đánh dấu bởi những cấp độ mới, những tầm
vóc mới của năng lực hệ thống.
Không chỉ có nhiệm vụ thống kê và mô tả đơn thuần các phương diện,
các thành tố cụ thể hiện tồn của hình thức nghệ thuật. Nó còn phải nghiên cứu
hình thức đó trong chức năng tổ chức và thể hiện nội dung. Đồng thời, nó cần
đi ngược lên phát hiện ra những cơ sở và ảnh hưởng vô cùng phức tạp đã quy
định sự lựa chọn của người nghệ sĩ, đã định hướng và dẫn dắt anh ta rốt cục
đến những giải pháp hình thức cụ thể trong số vô vàn khả năng có thể có. Thi
pháp học đồng thời là một kiểu “triết luận” về hình thức nghệ thuật.
Tựu trung, thi pháp học hiện thân như một khoa học về kỹ nghệ văn
chương, lấy đối tượng nghiên cứu của mình không phải là văn học chung
chung, mà nói như Jakobson, là “tính văn học của tác phẩm văn chương”. Nó
giải thích vì sao một văn bản ngôn từ lại trở thành tác phẩm nghệ thuật.
12


Thi pháp học phát triển theo ba hướng chính là thi pháp học quy phạm,
thi pháp học lịch sử và thi pháp học cấu trúc. Căn cứ trên những thành tựu
nghiên cứu về lý thuyết và kết quả ứng dụng vào khảo cứu, phê bình các hiện
tượng văn học cụ thể, ngày nay chúng ta đã có một hệ thống điểm nhìn thi
pháp mới, như: thi pháp thể loại, thi pháp tác giả, thi pháp tác phẩm, thi pháp

trào lưu… Thi pháp học hiện đại đã khẳng định hướng nghiên cứu rất hiệu
quả của nó trong lĩnh vực nghiên cứu văn xuôi tự sự. Kết quả là tự sự học ra
đời và phát triển theo xu hướng “xin ở riêng”, tách lập như một phân ngành
khoa học độc lập bên cạnh thi pháp học truyền thống.
Do vậy, thi pháp văn xuôi tự sự được hiểu một cách giản dị như là kỹ
thuật kể, hay hệ thống thủ pháp, cách thức trần thuật và xây dựng hình tượng
trong các thể truyện ngắn và tiểu thuyết.
1.1.2. Thi pháp truyện kể cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng.
Việc tiếp nhận và khảo cứu mảng truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng có thể được tiến hành từ nhiều góc độ khác nhau. Có một
số nhà sử học (như Dương Trung Quốc) tiếp cận di sản văn chương của
Nguyễn Huy Tưởng từ tiêu chí thẩm định về tư liệu lịch sử. Đối với các
truyện lịch sử viết cho thiếu nhi, các nhà sử học cũng có thể trân trọng rút ra
từ đó tính chân thực lịch sử và ý nghĩa giáo dục truyền thống của văn chương
Nguyễn Huy Tưởng. Nhiều công trình nghiên cứu văn học sử khi tiếp cận
hiện tượng Nguyễn Huy Tưởng cũng chủ yếu đánh giá đóng góp của nhà văn
về tính thời sự, ý nghĩa chính trị của đề tài và chủ đề tác phẩm. Phần lớn các
nghiên cứu đó đã ghi nhận những đóng góp của nhà văn ở phương diện nội
dung tư tưởng và tính hiện thực của tác phẩm. Trong luận văn này chúng tôi
quan tâm chủ yếu tới phương diện hình thức nghệ thuật như: ngôn ngữ, thủ
pháp dàn dựng kết cấu, nghệ thuật tổ chức cốt truyện, loại hình xây dựng

13


nhân vật. Tạm thời chúng tôi có những đánh giá sơ bộ về đặc điểm thi pháp tự
sự của Nguyễn Huy Tưởng gắn với các tác phẩm cụ thể sau:
Ngôn ngữ trong truyện của Nguyễn Huy Tưởng viết cho thiếu nhi, có
đặc điểm riêng khác để nhận ra với các tác giả cùng thời khác, một kiểu ngôn
ngữ mộc mạc, dân dã, dễ hiểu, cú pháp đơn giản, cơ bản, mang đặc trưng

chung của ngôn ngữ viết cho độc giả thanh thiếu niên, bộc lộ rõ nhất trong
truyện Tìm Mẹ; Giọng kể chuyện thân tình, mang tính đối thoại trực tiếp thể
hiện rõ trong truyện Hai bàn tay chiến sỹ; Chú trọng thông tin sự kiện, không
thi vị hóa kiểu Tô Hoài - truyện Điện Biên Phủ của chúng em. Với truyện về
đề tài lịch sử, ngôn ngữ và giọng điệu kể có thay đổi theo đối tượng, theo đề
tài: thâm trầm, trang trọng hơn trong truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng.
Về thủ pháp dàn dựng kết cấu, đặc điểm dễ nhận thấy trong truyện viết
cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng là ông tổ chức cốt truyện theo trình tự
phát triển tự nhiên của thời gian theo lịch sử cụ thể, sự việc trong truyện xảy
ra tuần tự từ đầu đến cuối và không bị đứt quãng, liên tục phát triển và tiếp
diễn. Những đặc điểm đó thể hiện rõ qua cốt truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng,
Kể chuyện Quang Trung, Điện Biên Phủ của chúng em . Đó cũng là những
truyện tuân thủ mẫu kết cấu chương hồi; mỗi chương hồi gắn với một giai
đoạn phát triển nào đó của cốt truyện. Truyện Điện Biên Phủ của chúng em
được tác giả xây dựng kết cấu làm ba phần: phần một “Đường lên Điện Biên
Phủ”, phần hai “Điện Biên Phủ lịch sử”, phần ba “Điện Biên Phủ xây dựng
chủ nghĩa xã hội”. Ở mỗi phần nội dung của truyện được tác giả nêu cụ thể
theo tiến trình thời gian của lịch sử dẫn dắt chúng ta con đường đi lên Điện
Biên - những địa danh, những trận đánh và địa danh các trận đánh giành giật
của bộ đội ta với địch và sự chiến thắng oai hùng của bộ đội. Cuối câu chuyện
tác giả đưa chúng ta tới một Điện Biên đang ngày đêm xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
14


Nghệ thuật tổ chức cốt truyện các truyện viết cho thiếu nhi Nguyễn
Huy Tưởng trên cơ sở khảo sát 12/12 truyện thì cốt truyện đơn tuyến theo trật
tự thời gian tuyến tính, tác giả hạn chế sự hồi cố, hoài niệm vì trong các tác
phẩm này thường chỉ có một nhân vật chính, đóng vai trò là trung tâm của cốt
truyện; truyện phần nhiều ít kịch tính, và kết thúc có hậu (truyện Thằng Quấy,

Tìm Mẹ). Kết thúc truyện có phân biệt rõ các giá trị “Thiện - Ác”, “Tốt Xấu”, “Địch - Ta” như Cô bé gan dạ, hai bàn tay chiến sĩ, Lá cờ thêu sáu chữ
vàng, Kể chuyện Quang Trung; Cốt truyện tổ chức trên nguyên tác các mâu
thuẫn xã hội, mâu thuẫn địch ta, tuy nhiên chưa phát triển thành xung đột cao
trào.
Về loại hình nhân vật: các nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng được hình thành qua ba tuyến nhân vật chính:
nhân vật thiếu nhi tiêu biểu là nhân vật Trần Quốc Toản truyện Lá cờ thêu
sáu chữ vàng, nhân vật cô Thứ truyện Cô bé gan dạ, nhân vật em Nhà và em
Gạo truyện Tìm mẹ; nhân vật anh hùng như An Dương Vương - truyện An
Dương Vương xây thành Ốc, nhân vật Quang Trung trong Kể chuyện Quang
Trung, nhân vật từ thế giới loại vật như con Cóc – truyện Con cóc là cậu ông
Giời, chim vàng anh truyện Tấm Cám…
1.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tƣởng.
1.2.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng sinh ngày 06/5/1912, tại làng Dục Tú,
phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội. Cha
là một ông Tú nghèo, sống nhờ vợ tần tảo buôn bán. Khi Nguyễn Huy Tưởng
lên 7 tuổi thì cha mất, mẹ gửi ông ra Hải Phòng sống cùng gia đình người chị,
học tiểu học ở trường Bonnal. Năm 1932, khi 20 tuổi, ông đậu bằng Thành
Chung và cũng bắt đầu học chữ Hán. Ra trường, sau 3 năm vất vả tìm việc,
đến 1935 ông thi đậu vào ngạch thư ký Nhà Đoan (cơ quan hải quan). Năm
15


1939, ông cưới vợ, là tiểu thư con một vị quan ở Hải Phòng. Dù sống cuộc
sống công chức Nhà Đoan, nhưng Nguyễn Huy Tưởng có một đời sống nội
tâm phong phú, ông chăm đọc sách, chịu khó tìm ý tưởng, hàng ngày viết
nhật ký.
Từ năm 1938, Nguyễn Huy Tưởng đã hoạt động cho hội Truyền bá
quốc ngữ. Cuối năm 1944, bắt đầu tham dự các buổi họp bí mật của hội Văn

hóa cứu quốc. Tháng 4/1944, ông chuyển từ Hải Phòng lên Hà Nội công tác
và được gặp các trí thức Hà thành như Nguyễn Xuân Huy, Như Phong,
Nguyên Hồng, Nam Cao, Trần Huyền Trân... Tháng 6/1945, Nguyễn Huy
Tưởng tham gia ban biên tập tạp chí Tiên Phong của Văn hóa cứu quốc. Sau
đó hai tháng, Nguyễn Huy Tưởng đi dự Đại hội quốc dân ở Tân Trào, Tuyên
Quang. Ông còn là đại biểu Văn hóa cứu quốc, giúp biên tập các tờ báo Cờ
giải phóng, Tiên Phong. Tiếp đó ông giữ chức vụ Tổng thư ký Ban Trung
ương Vận động đời sống mới. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn
Huy Tưởng trở thành một trong những người lãnh đạo chủ chốt của Hội văn
hóa cứu quốc. Ông qua đời ngày 25/7/1960, tại Hà Nội, khi mới 48 tuổi.
Trong kí ức của những bạn văn cùng thời - những người cùng hoạt động
cách mạng, cùng gắn bó, sẻ chia những vui buồn trong hành trình sáng tạo,
Nguyễn Huy Tưởng luôn để lại ấn tượng và hình ảnh đẹp về một người chân
thành, giản dị, cởi mở và đôn hậu. Nói về Nguyễn Huy Tưởng, đa số các văn
nghệ sĩ đều nhận thấy những phẩm chất tốt đẹp tỏa ra từ cuộc đời và những
trang viết của ông. Nhà văn Nguyễn Minh Châu khi soi chiếu cuộc đời và
những tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã chỉ ra một đặc điểm thống nhất
trong con người và văn nghiệp của nhà văn: “Những cái tên sách của nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng cũng như toát lên từ tính nết của ông thường kín đáo,
điềm đạm, thủ thỉ và giản dị.” [16, tr. 582]. Nhà thơ Hoàng Trung Thông thì

16


cho rằng: “Nguyễn Huy Tưởng, con người ấy, nhà văn ấy, như tôi biết là một
con người chí tình…đối với bạn bè anh là một người trung hậu.”[16, tr. 562].
Là người cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc, nhiều năm gắn
bó với Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn Như Phong nhận định: “Anh Tưởng
người cao lớn, khỏe mạnh, nhưng có vẻ rất hiền. Đôi mắt lim dim dưới một
cặp lông mày thường nhướng cao lên như lúc nào cũng đương ngạc nhiên,

một cặp môi luôn luôn hé mở hoặc tủm tỉm cười làm cho anh có vẻ thật thà,
cả tin hết sức. Anh có một đức tính hiếm có ở một người đã ở vào một lứa
tuổi già dặn là hết sức khâm phục, dễ hâm mộ những chuyện gì hay, những
người nào tốt, hoặc anh cho là hay, là tốt…Có lẽ đó là nguyên nhân làm cho
sáng tác của anh về sau này phần nhiều thiên về ca ngợi, ca ngợi với tất cả
lòng chân thành, trọn vẹn và trong sáng không vẩn một chút dè dặt nào…
Anh Tưởng là một người say mê lý tưởng và rất lạc quan tin tưởng ở bản chất
tốt đẹp của con người”[16, tr. 532 - 540].
Với nhà văn Lưu Văn Lợi, người bạn học cùng trường Bonnal, từng có
những năm tháng làm việc với Nguyễn Huy Tưởng đã có nhận xét tinh tế về
người bạn thân của mình: “Trong lao động nghệ thuật, Tưởng có hai nét đặc
biệt: viết khó khăn, nhưng say sưa như không biết có gì xung quanh, viết viết,
gạc gạc, suy nghĩ tập trung mặt thẫn thờ, cho nên Nguyên Hồng mới đặt cho
Tưởng cái tên ông Mao Thuẫn (mặt thuỗn ra)” [17, tr. 31].
Bằng lối nói giàu hình ảnh, nhà thơ Xuân Diệu cảm nhận: “Huy Tưởng
không ánh chói, không làm người ta choáng phục ngay; nhưng anh chầm
chậm nói chuyện rất có duyên, và dần dần mới hay anh có một sức hấp dẫn
sâu sắc”[16, tr. 508].
Sau này trong Điếu văn của Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam đọc
khi Nguyễn Huy Tưởng mất, nhà thơ Nguyễn Đình Thi xúc động viết:
“Khiêm tốn trong đời sống hằng ngày, trong cách cư xử, trong khi viết
17


văn…Thật thà với từng ý nghĩ, với từng dòng chữ viết ra…anh là nhà văn của
lòng yêu và niềm tin cậy, anh hay nói đến niềm vui trong cuộc sống, miệng
anh cười nhân hậu, mắt anh mở nhìn về phía ánh sáng” [16, tr. 501-502].
Gần đây, khi đánh giá về con người và văn nghiệp của Nguyễn Huy
Tưởng, nhà nghiên cứu Phong Lê đã phác thảo rõ nét chân dung, con người
Nguyễn Huy Tưởng bằng những câu văn ngắn gọn, ấn tượng: “Con người

Nguyễn Huy Tưởng, gương mặt Nguyễn Huy Tưởng: Hiền. Và lành. Chân
thành. Và đôn hậu.” (Báo Văn nghệ 16/5/1992).
Còn trong hồi ức của những người thân trong gia đình, Nguyễn Huy
Tưởng là người con chí hiếu, nặng tình, sống có trách nhiệm với gia đình.
Đặc biệt qua những trang Nhật ký chân thực, sinh động mà ông ghi chép cần
mẫn, bền bỉ suốt 30 năm, người đọc thấy hiện lên những phẩm chất đáng quý
trong con người Nguyễn Huy Tưởng.
Ông là người giàu lòng yêu nước, gắn bó sâu nặng với quê hương. Tuổi
mười tám đôi mươi ông đã ý thức rõ về trách nhiệm, bổn phận của bản thân
trước vận mệnh quốc gia, “Viết văn để tỏ lòng yêu nước”. Trải qua những
thăng trầm, của đời sống cách mạng và kháng chiến, không lúc nào ông
không trăn trở, thao thức về nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng phải viết được
những tác phẩm lớn nói lên được sức sống mạnh mẽ, trường tồn của văn hóa
dân tộc; cái vĩ đại của đất nước, con người Việt Nam.
Nguyễn Huy Tưởng là người có khát vọng lớn, khát vọng viết được
những tác phẩm có thể đạt giải Nobel như lời tâm sự ông ghi trong Nhật ký
ngày 29-3-1945: “Mơ mộng viết một truyện dài, những truyện dài. Khao khát
một phần thưởng Nobel”, Tác phẩm ấy phải nói lên được tinh thần Việt Nam;
ngợi ca, đề cao, tôn trọng con người. Ông muốn mỗi người dân Việt Nam
phải hiểu sâu sắc về lịch sử dân tộc mình, nhất là trong những năm tháng chịu
kiếp nô lệ, tù đày, vì “Người không biết lịch sử nước mình là một con trâu đi
18


cầy ruộng. Cầy với ai cũng được, mà cầy ruộng nào cũng được” (Nhật ký
ngày 13-01-1932).
Với Nguyễn Huy Tưởng, công việc viết văn không dễ mà là hành trình
đầy gian nan, vất vả nhưng không vì thế mà ông nản lòng. Ông luôn cố gắng,
nỗ lực tìm tòi, sáng tạo. Không bao giờ ông bằng lòng, thỏa mãn với những gì
đã làm được mà luôn lắng nghe, bình tĩnh suy xét, chỉnh sửa, bổ sung những

điều mà ông cảm thấy còn khiếm khuyết, hạn chế trong từng câu chữ, trang
văn.
Một đặc điểm nổi bật trong con người Nguyễn Huy Tưởng là đức tính
chân thành, tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh những
vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra. Với quan điểm đúng đắn, tiến bộ về con
người, về nghệ thuật, Nguyễn Huy Tưởng kiên trì đấu tranh với những tư
tưởng tập thể giản đơn, công thức, những hành động nhất thời làm tổn thương
tình cảm, cuộc đời con người dù ông biết hậu quả sẽ phải nhận là những hiểu
lầm, những thiệt thòi, day dứt.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã để lại cho
đời sau nhiều tác phẩm có giá trị về văn chương và lịch sử. Về tiểu thuyết có
Đêm hội Long Trì (1942), An Tư công chúa (1944), Truyện Anh Lục (1955),
Bốn năm sau (1959), Sống mãi với Thủ đô (1960)... Về kịch có Vũ Như Tô
(1943), Cột đồng Mã Viện (1944), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948),
Anh Sơ đầu quân (tập kịch - 1949), Lũy hoa (1960)... Về truyện ký có Ký sự
Cao Lạng (1951), Chiến sĩ ca nô... Ngay trong lĩnh vực truyện thiếu nhi, ông
để lại những dấu ấn sâu sắc, có lẽ bởi ông chính là Giám đốc đầu tiên của Nhà
xuất bản Kim Đồng; với Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Tìm mẹ, Hai bàn tay chiến
sĩ, Con cóc là cậu ông giời, An Dương Vương xây thành Ốc, Kể chuyện
Quang Trung, Cô bé gan dạ... và một tập Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, dày
1.700 trang.
19


Có thể nói con người Nguyễn Huy Tưởng có sự kết hợp hài hòa những
phẩm chất tốt đẹp của một người giàu lòng yêu nước, yêu lịch sử dân tộc;
không ngừng tìm tòi, sáng tạo để vươn tới những giá trị tốt đẹp của chân thiện - mỹ. Đường đời, đường cách mạng và đường văn chương Nguyễn Huy
Tưởng có sự song hành, bổ sung, thống nhất. Điều đó đã làm nên một chân
dung, phong cách Nguyễn Huy Tưởng độc đáo, ấn tượng.
1.2.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng trong dòng

chảy văn học thiếu nhi.
Nếu nhìn vào chiều sâu lịch sử của văn hóa dân tộc, chúng ta đều thấy
rằng văn học dành cho trẻ em ở ta đã tồn tại từ lâu đời dưới dạng văn chương
truyền miệng qua những bài hát đồng dao, trò chơi dân gian, truyện cổ tích,
giai thoại và truyện dã sử về các nhân vật anh hùng... Khi công cuộc truyền bá
chữ quốc ngữ được các nhà văn hóa yêu nước Việt Nam dấy lên thành một
phong trào rộng lớn, mà nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cũng là một thành viên
tích cực của phong trào này, nhu cầu phổ biến văn hóa cho thế hệ trẻ có lẽ đã
thúc đẩy sự ra đời một thể loại văn học mới, hiện hình như một loại sách
riêng: Tủ sách Truyền bá, Tủ sách Hoa Xuân, Tuổi Hồng, Tuổi Xanh... dành
cho lứa tuổi thanh thiếu nhi, ra đời trong những năm 1940, 1941, 1942...
Cũng chính từ đây, tác phẩm bất hủ Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài đã xuất
hiện và một số truyện viết cho thiếu nhi khác.
Nguyễn Huy Tưởng trong quá trình sáng tác của mình ông đã viết rất
nhiều thể loại như tiểu thuyết, kịch… đặc biệt với tuổi thơ ông đã dành tình
cảm nhiệt huyết nhất với thiếu nhi và đã sáng tạo và viết các truyện Cô bé gan
dạ, Chiếc bánh chưng, Truyện Tấm Cám, Tìm mẹ, Thằng Quấy, Con cóc là
cậu ông Giời, Con chim Trĩ lông trắng, An Dương Vương xây thành Ốc, Hai
bàn tay chiến sĩ, Điện Biên Phủ của chúng em, Kể chuyện Quang Trung, Lá
cờ thêu sáu chữ vàng.
20


Trong lời giới thiệu tập Cô bé gan dạ, anh Nguyễn Huy Thắng, con trai
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã cho bạn đọc biết, nhà văn khi ấy 27 - 28 tuổi
đời, đã hăng hái tham gia phong trào hướng đạo, một tổ chức tập hợp những
thanh thiếu niên giàu nhiệt huyết, yêu đời, tràn đầy lòng tự hào dân tộc... Từ
sở trường riêng sớm xác định cho mình, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã
hướng suy tư thẩm mỹ của mình vào việc tìm hiểu kho tàng truyện lịch sử và
cổ tích của dân tộc. Không chỉ làm công việc sưu tầm Kho tàng truyện cổ

tích như nhà văn hóa Nguyễn Đổng Chi, hay sưu tầm Tục ngữ phong dao như
học giả Nguyễn Văn Ngọc, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng với ý thức sáng tạo
đã xuất phát từ truyện cổ tích sưu tầm ở dân gian như Cô bé gan dạ và sau
này là Tìm mẹ, viết nên những truyện ngắn như huyền thoại, làm ra một bản
sắc riêng trong văn học cho thiếu nhi.
Có thể nói rằng trong các tác phẩm này, dưới ngòi bút của nhà văn,
tiếng Việt đã trở nên tinh xảo và sinh động, có sức gợi mở trí tưởng tượng cho
người đọc. Truyện Cô bé gan dạ thể hiện hình ảnh một cô con gái liễu yếu
đào tơ, dám liều mình nhận làm vật hiến sinh cho con quái vật, để rồi đối mặt
chiến đấu với mãng xà và cuối cùng đã chiến thắng, diệt trừ được mối tai họa
cho dân làng. Tấm lòng của Nguyễn Huy Tưởng khi ông tâm niệm: “Văn
chương viết cho thiếu niên phải cốt làm sao cho bao giờ họ cũng có một tấm
lòng bồng bồng bột bột, mà vẫn biết lẽ phải, và vẫn biết thương nhau”. Điều
này sẽ còn được tác giả thể hiện rõ nét hơn, hào hùng hơn trong Lá cờ thêu
sáu chữ vàng sau này.
Đã có nhiều bài nói về các tác phẩm viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy
Tưởng, những bài của đồng nghiệp, bạn bè, nhà nghiên cứu như Tô Hoài, Vũ
Ngọc Bình, Văn Hồng, Vân Thanh... và cũng đã có nhiều hội thảo về sự
nghiệp văn học của ông trong đó có phần sáng tác cho thiếu nhi. Nhưng hình
như mỗi lần đọc lại tác phẩm của ông, ta lại thấy sáng ra một điều gì khác. Rõ
21


×