Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Thời gian và không gian nghệ thuật trong truyện nguyễn nhật ánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU TRANG

THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU TRANG

THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận Văn học
Mã số: 60.22.01.20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Lý Hoài Thu

Hà Nội - 2016



LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Lý Hoài Thu- người đã
tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn, từ việc định
hướng, lựa chọn đề tài đến việc xây dựng đề cương và triền khai luận văn. Cô
đã có những góp ý cụ thể cho công trình và luôn luôn động viên để tôi có thể
hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô của Khoa Văn học, đặc biệt là
các thầy cô trong Tổ Lý luận văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã hết sức nhiệt tình trong công tác
giảng dạy, giúp tôi có những kiến thức nền cũng như những kiến thức bổ trợ
quý giá phục vụ trực tiếp cho quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô là cán bộ Khoa Văn học nói
riêng và các cán bộ trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nói chung
đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Qua đây, tôi xin cảm ơn chân thành tới các đồng nghiệp, cơ quan công
tác, bạn bè đã giúp đỡ và chia sẻ cho tôi những kinh nghiệm quý báu.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình và người
thân của tôi, những người đã tạo cho tôi một điểm tựa vững chắc cả về vật
chất và tinh thần trong suốt thời gian qua.
Học viên

Nguyễn Thị Thu Trang


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn Thời gian và không gian trong truyện Nguyễn
Nhật Ánh là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Lý Hoài Thu. Những kết quả nghiên cứu của luận văn này chưa từng
công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu nào. Các kết quả nghiên cứu trong
luận văn là trung thực, nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 14 tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Trang


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 4
3. Mục đích nghiên cứu, Đối tượng nghiên cứu, Phạm vi nghiên cứu ......... 10
4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 10
5. Kết cấu luận văn........................................................................................ 11
Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ THỜI GIAN, KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH ...................... 12
1.1. Khái lƣợc về thời gian, không gian nghệ thuật ................................ 12
1.1.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật ...................................................... 12
1.1.2. Khái niệm không gian nghệ thuật ................................................... 13
1.2. Hành trình sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh trong dòng văn học
thiếu nhi ...................................................................................................... 15
1.2.1. Khái niệm văn học thiếu nhi ........................................................... 15
1.2.2. Bức tranh chung của văn học thiếu nhi thời kì đổi mới ................. 17
1.2.3.Vị trí của Nguyễn Nhật Ánh trong dòng văn học thiếu nhi ............. 25
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 36
Chƣơng 2: THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGUYỄN
NHẬT ÁNH ................................................................................................... 38
2.1. Thời gian hiện tại ................................................................................ 38
2.1.1. Thời gian hiện tại với những trò chơi thú vị................................... 38
2.1.2. Thời gian hiện tại với những trải nghiệm sâu sắc .......................... 42
2.2. Thời gian quá khứ ............................................................................... 51

2.2.1. Thời gian quá khứ với những dòng hồi tưởng ................................ 51
2.2.2. Điểm song hành giữa quá khứ và hiện tại ...................................... 59
2.3. Thời gian tƣơng lai của hi vọng và niềm tin ..................................... 61
1


Tiểu kết chương 2............................................................................................ 65
Chƣơng 3: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGUYỄN
NHẬT ÁNH ................................................................................................... 67
3.1. Không gian bối cảnh xã hội và thiên nhiên ...................................... 67
3.1.1. Từ không gian khuôn viên nhỏ gần gũi thân quen ......................... 67
3.1.2. Đến không gian học đường sống động ........................................... 72
3.1.3. Và một số mô hình không gian thiên nhiên khác ............................ 75
3.2. Không gian tâm tƣởng ........................................................................ 87
3.2.1. Không gian kí ức hoài niệm ............................................................ 87
3.2.2. Không gian miền cổ tích ................................................................. 89
3.2.3. Không gian mơ ước......................................................................... 93
Tiểu kết chương 3.......................................................................................... 102
KẾT LUẬN .................................................................................................. 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 107

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
1.1.Thi pháp học là một môn khoa học nghiên cứu các hình thức nghệ
thuật của văn học trong tính chỉnh thể, tính quan niệm. Trong những năm gần
đây, hướng nghiên cứu văn học trên cơ sở lí luận thi pháp học đã trở thành xu
hướng phổ biến giúp người đọc đi sâu khám phá cách thức phản ánh hiện

thực, tầm vóc, tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ, sự sáng tạo của nhà văn
trong cách tổ chức tác phẩm. Ngoài các phạm trù truyền thống như cốt truyện,
kết cấu, điểm nhìn, lời văn, thời gian và không gian nghệ thuật là hai phạm trù
nghiên cứu căn bản của thi pháp học, là chìa khóa quan trọng để mở cánh cửa
bước vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
1.2.Văn học thiếu nhi là một bộ phận quan trọng của văn học của mỗi dân
tộc. Nó có vai trò quan trọng trong việc giáo dục, hình thành nhân cách, làm
giàu tâm hồn con người từ thuở ấu thơ, là hành trang không thể thiếu cho các
em. Trong thời đại thế giới phẳng của giao lưu và hội nhập như hiện nay, văn
học thiếu nhi không tránh khỏi quy luật cạnh tranh khốc liệt cả về phương
thức lưu hành lẫn chất lượng nghệ thuật với các tác phẩm văn hóa ngoại nhập.
Nghiên cứu về văn học thiếu nhi, người viết mong muốn đóng góp một phần
vào công cuộc giáo dục nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ qua những trang văn
trong sáng, hồn hậu.
Trên văn đàn văn học thiếu nhi hiện nay, Nguyễn Nhật Ánh được coi là
một tác giả tiêu biểu, là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào, đạt nhiều giải
thưởng cả trong nước và quốc tế. Được coi là "hoàng tử bé" trong thế giới trẻ
thơ, tác giả đã vượt qua những cuộc "thử lửa" khốc liệt và chinh phục độc giả
nhỏ tuổi. Nguyễn Nhật Ánh có thể xem là nhà văn có bút lực khá mạnh hiện
nay với sức sáng tạo dồi dào. Hầu hết các sáng tác của anh như Mắt biếc,
Kính vạn hoa, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ đều tạo được dấu ấn trong lòng
3


công chúng, được tái bản nhiều lần và một số còn được dịch ra tiếng nước
ngoài. Là nhà sư phạm, hoạt động đoàn, nhà báo và viết văn, dường như cuộc
tương ngộ tương phùng giữa tác giả và văn học thiếu nhi là một sự bén duyên
đầy hữu ý. Nhà văn đã gieo hạt trên cánh đồng trẻ thơ, nuôi dưỡng nhiều giá
trị tinh thần quý báu, giúp các em chống lại nguy cơ bị lãnh cảm, bị cằn cỗi
trong tác động của kinh tế thị trường.

Chúng tôi thực sự ấn tượng với truyện viết cho tuổi thơ và tuổi mới lớn
của Nguyễn Nhật Ánh. Những tác phẩm đó cuốn hút chúng tôi vào hành trình
khám phá truyện Nguyễn Nhật Ánh, để rồi nhận thấy sức hấp dẫn từ lòng
nhiệt thành của một tâm hồn người lớn mang trái tim trẻ thơ sáng trong, từ
những trang văn hóm hỉnh giàu ý nghĩa nhân sinh. Từ hồi ức về một thời đã
xa trong sáng tác của nhà văn, chúng tôi tìm thấy chính mình ở trong đó. Bởi
vậy, người viết yêu thích tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh một cách tự nhiên
và chân thành. Thực hiện đề tài này cũng là cách thể hiện lòng ngưỡng mộ
của tác giả với nhà văn nguyễn Nhật Ánh – một “hiện tượng” của văn học
thiếu nhi Việt Nam.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: "Thời gian và không gian
nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh" với mong muốn có thêm một
hướng tiếp cận theo hướng thi pháp về nhà văn vốn có nhiều đóng góp cho
văn học thiếu nhi Việt Nam, cũng như lí giải sức hút mãnh liệt của tác phẩm
đối với bạn đọc.
2.Lịch sử vấn đề
Với đề tài “Thời gian và không gian nghệ thuật trong truyện Nguyễn
Nhật Ánh”, khi tiến hành khảo sát các công trình nghiên cứu, chúng tôi chia
làm hai loại tài liệu:
 Những công trình chuyên biệt nghiên cứu về Nguyễn Nhật Ánh và
các tác phẩm của ông
4


Bài viết mang tính nghiên cứu tổng quát truyện Nguyễn Nhật Ánh phải kể
đến Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ – Đọc văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh của
Nguyễn Thị Thanh Xuân đăng trên báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số
237 (ra ngày 26/12/1996). Theo tác giả bài viết, giá trị độc đáo của truyện
Nguyễn Nhật Ánh trước hết là thái độ vào cuộc của nhà văn, “nghĩa là
Nguyễn Nhật Ánh nắm rõ luật chơi, tuân thủ nghiêm chỉnh các quy ước tự

nhiên giữa những người trẻ tuổi”, “nói các ngôn ngữ họ nói, nghĩ những điều
họ nghĩ và thấy những gì họ nhìn thấy” [47, tr.12]. Nhà văn nắm bắt những
nét tâm lí trong thế giới nội tâm của nhân vật, thể hiện những bâng khuâng
rung cảm đầu đời. Nguyễn Thị Thanh Xuân rất tinh tế trong sự phát hiện:
“Chắc hẳn rằng dù không đa dạng như ở người lớn, trạng thái tinh thần này
ở lứa tuổi thiếu niên vẫn đòi hỏi được thê hiện ở nhiều cung bậc, sắc thái, mà
Nguyễn Nhật Ánh thì còn tựa quá nhiều vào quá khứ. Qua màn sương hoài
niệm, những mối tình mới chớm đều buồn, dở dang và gắn liền với một nhân
dáng” [47, tr.13].
Vũ Ân Thy trong Nguyễn Nhật Ánh – người bạn thân mến của độc giả trẻ
đăng trên báo Sài Gòn giải phóng (1997) đề cao tác phẩm của nhà văn xứ
Quảng “có sức hấp dẫn lạ và mới. Nó lôi cuốn thiếu nhi và có sức thuyết phục
người lớn có trách nhiệm với thế hệ trẻ” [28, tr.52]. Tác giả bài viết đã khái
quát giá trị truyện Nguyễn Nhật Ánh: “Nhỏ nhắn, hóm hỉnh và sâu sắc, trữ
tình; duyên dáng và bất ngờ... truyện kể Nguyễn Nhật Ánh luôn gần gũi như
truyện dân gian cổ tích, như ước mơ của tuổi thơ mà lại mang tính hấp dẫn
hiện đại” [28, tr.52].
Vân Thanh trong Nguyễn Nhật Ánh nhà văn thân quý của tuổi thơ đăng
trên Tạp chí Văn học số 6- 1998 nhận định: “Nguyễn Nhật Ánh đã nói được
tiếng nói, đã nghĩ theo cách nghĩ của lứa tuổi thơ” [40, tr.75]. Đó cũng là yêu

5


cầu trong những sáng tác cho thiếu nhi – điều tưởng như đơn giản nhưng
không dễ thực hiện.
Trong bài viết Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975: Diện mạo và quá
trình phát triển của Bắc Lý, mặc dù vẫn trích dẫn và lấy những ví dụ minh họa
cho các luận điểm về văn học thiếu nhi trong thời kì đổi mới nhưng tác giả có
nhiều đoạn khái quát, giới thiệu giá trị của tác phẩm Kính vạn hoa, bộ truyện

dài đầu tiên của Nguyễn Nhật Ánh.
Tác giả Hương Giang đã dành cả bài viết Người nuôi dưỡng tâm hồn trẻ
thơ trong Bách khoa toàn thư văn học thiếu nhi Việt Nam do hai tác giả Vân
Thanh và Nguyên An biên soạn và giới thiệu để nói về Nguyễn Nhật Ánh và
một loạt các tác phẩm của ông như: Cô gái đến từ hôm qua, Bàn có năm chỗ
ngồi, Chú bé rắc rối, Thiên thần nhỏ của tôi…Nguyễn Nhật Ánh không chỉ
được đánh giá cao vì ông đã viết nhiều, viết hay về văn học thiếu nhi, đã động
chạm đến mảng đề tài còn ít và khó viết như đề tài trường học và việc học của
trẻ em. Không những thế, qua những trang viết ấy Nguyễn Nhật Ánh còn
đóng vai trò như một người thầy, một nhà giáo dục dạy cho các em những giá
trị Chân - Thiện - Mỹ ở đời. Nguyễn Hương Giang đã đánh giá: “Những cuốn
sách bé nhỏ của Nguyễn Nhật Ánh sẽ là món ăn tinh thần trong hành trang
vào đời của các em”. “Truyện Nguyễn Nhật Ánh là tiếng nói từ chính tâm
hồn anh – một tâm hồn còn trong sáng, thơ trẻ cho đến tận bây giờ”. Điều đó,
theo Nguyễn Hương Giang chính là điểm hấp dẫn, là sức lôi cuốn rất riêng
để các em tìm đến với nhà văn [17, tr.23].
Tại Hội thảo khoa học về ảnh hưởng của văn học thiếu nhi đến sự phát
triển nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế do Đại học
Sư phạm Hà Nội tổ chức năm 2009, tên tuổi Nguyễn Nhật Ánh được nhắc tới
trong các bài tham luận như một cây bút tiêu biểu viết cho thiếu nhi. Lê
Phương Liên trong Viết cho thiếu nhi là viết cho tương lai đã xác định các
6


giai đoạn của văn học viết cho thiếu nhi thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế ở
nước ta. Trong giai đoạn từ 1995 – 2005, khi internet phát triển với sự phổ
biến của trò chơi điện tử (game online), sách của nguyễn Nhật Ánh vẫn tạo
sức hút đối với độc giả nhỏ tuổi: “với tài năng mô tả tâm lí trẻ em và trình
bày đời sống sinh hoạt thiếu nhi học sinh vui tươi, hóm hỉnh, Nguyễn Nhật
Ánh đã thực sự là nhà văn được trẻ em cả nước đọc nhiều nhất” [22].

Năm 2013, cuốn Nguyễn Nhật Ánh – hoàng tử bé trong thế giới tuổi thơ
(Lê Minh Quốc biên soạn) ra đời giúp người đọc có cái nhìn khá đầy đủ về
tiểu sử, hành trình văn chương của Nguyễn Nhật Ánh. Với tình cảm nồng hậu
dành cho bạn văn đồng hương xứ Quảng, tác giả tập sách nhận định: “Với
dòng văn học dành cho thiếu nhi và tuổi mới lớn, hiện nay anh (Nguyễn Nhật
Ánh – Lê Minh Quốc) đang giữ một vị trí đặc biệt. Khó có người thay thế. Khi
liệt kê tên tuổi và tác phẩm của một thế hệ nhà văn, hội đồng văn học sử có
thể nhớ người này và quên béng người kia. Có thể chọn người này và bỏ sót
người kia. Nhưng với Nguyễn Nhật Ánh, người ta không thể, dù cố tình hoặc
vô tâm” [35; tr. 51].
Cùng với sự khẳng định vị trí nhà văn, Lê Minh Quốc còn giải thích
nguyên nhân tạo ra “ma lực Nguyễn Nhật Ánh”. Đó là nhờ “cách viết phù hợp
với tâm lí đối tượng bạn đọc”, “Câu văn trong sáng như nó vốn có, như lời ăn
tiếng nói ta tiếp nhận hàng ngày...” [35; 52]. Các tác phẩm kết hợp nhuần
nhuyễn yếu tố giải trí và giáo dục” hướng trẻ thơ tới những giá trị nhân bản.
Thái Phan Vàng Anh với bài viết Nguyễn Nhật Ánh, người kể chuyện của
thiếu nhi đăng trên Tạp chí Non nước Số 187 - 2013 đã góp thêm một cách
nhìn cho việc nghiên cứu truyện Nguyễn Nhật Ánh ở góc độ nghệ thuật kể
chuyện. Điều quan trọng là tác giả hòa vào thế giới trẻ thơ, sống cùng với các
em nhỏ để rồi kể chuyện về thiếu nhi cho chính thiếu nhi. Thái Phan Vàng
Anh cho rằng dù không quá chú ý đến cách kể, đến kĩ thuật dựng truyện
7


nhưng “Cái hấp dẫn, cái “duyên” của truyện Nguyễn Nhật Ánh chủ yếu nhờ
vào sự hồn nhiên, tươi tắn ở ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật” [2, tr.61].
Bên cạnh đó, phải kể đến các luận văn nghiên cứu về Nguyễn Nhật Ánh.
Công trình Thế giới trẻ thơ qua cách nhìn của Nguyễn Nhật Ánh trong bộ
truyện Kính vạn hoa của tác giả Phạm Thị Bền (Luận văn thạc sĩ ngữ văn,
2005, Đại học sư phạm Hà Nội) là công trình chuyên biệt đầu tiên đi sâu

nghiên cứu về một tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh. Tác giả luận văn đi sâu
vào khai thác trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật dưới góc nhìn “thế
giới trẻ thơ”.
Tiếp nối, tác giả Vũ Thị Hương thể hiện niềm say mê nghiên cứu về hiện
tượng nhà văn trẻ thơ qua công trình Thế giới nghệ thuật truyện Nguyễn Nhật
Ánh, trong đó đề cập đến các vấn đề nghệ thuật xây dựng hình tượng, nghệ
thuật tổ chức cốt truyện, vấn đề thời gian và không gian nghệ thuật.
Ngoài ra, công trình Đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh của Bùi Thị Thu
Thủy (Luận văn thạc sĩ ngữ văn, 2011, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn)
là một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về đặc điểm nội dung và
nghệ thuật truyện thiếu nhi Nguyễn Nhật Ánh.
Về hình tượng trẻ em, công trình Nhân vật trẻ em trong truyện Nguyễn
Nhật Ánh của Nguyễn Thị Đài Trang (Luận văn thạc sĩ ngữ văn, 2013, Đại
học sư phạm Hà Nội 2) đi sâu vào tìm hiểu đặc điểm nhân vật trẻ em trong
truyện Nguyễn Nhật Ánh một cách hệ thống cũng như sự sáng tạo của nhà
văn khi xây dựng nhân vật trẻ em.
Ngoài các công trình trên, còn một số công trình nghiên cứu về tác phẩm
Nguyễn Nhật Ánh mà chúng tôi khó có thể khảo sát hết. Mỗi sự lựa chọn đề
tài, mỗi hướng nghiên cứu đều có những quan điểm riêng nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu về thời gian và không gian trong truyện Nguyễn Nhật
Ánh . Ở đây, chúng tôi muốn mở rộng hướng nghiên cứu tiếp cận các tác
8


phẩm của ông dưới góc độ thi pháp thời gian và không gian nghệ thuật với hi
vọng sẽ bổ sung thêm những nội dung làm toàn vẹn hơn bức tranh nghiên cứu
về nhà văn được mệnh danh là “Hoàng tử bé của thế giới tuổi thơ ” [39,
tr.22].
 Những công trình gián tiếp phục vụ cho đề tài
Thành công với các tác phẩm viết cho thiếu nhi, tên tuổi Nguyễn Nhật

Ánh thu hút sự quan tâm khá nhiều của các báo, tạp chí, trang thông tin điện
tử, các cuốn sách về văn học thiếu nhi Việt Nam. Có thể kể một số tác phẩm
như Văn học thiếu nhi Việt Nam- Nghiên cứu, lý luận, phê bình, tiểu luận, tư
liệu do Vân Thanh biên soạn và tập hợp (Nhà xuất bản Kim Đồng, 2001),
Giáo trình văn học thiếu nhi- phần 1 của Lã Thị Bắc Lý (NXB Đại học Sư
phạm, 2006). Gần đây nhất, cuốn Nguyễn Nhật Ánh- Hoàng tử bé của thế giới
tuổi thơ của Lê Minh Quốc (NXB Kim Đồng, 2012) đã nghiên cứu toàn diện
về tiểu sử, con người Nguyễn Nhật Ánh từ khi là anh bồ câu của báo Mực
Tím đến khi trở thành tên tuổi nhà văn thiếu nhi như hiện nay. Ngoài ra, các
bài viết về Nguyễn Nhật Ánh và các tác phẩm của ông xuất hiện nhiều trên
các trang báo Người lao động. Tiền Phong, Tuổi trẻ… và các trang báo điện
tử như vnexpress.net, thanhnien.vn, ringing.vn,…
Bài viết Lý giải sức hút từ các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh của
Nguyễn Ngân trên trang ringring.vn đã phân tích bốn lí do tác phẩm của
Nguyễn Nhật Ánh luôn được bạn đọc đón nhận là: Tình cảm tuổi học trò,
miêu tả thiên nhiên sinh động, giọng văn đa dạng và những đoạn kết xúc
động. Cuối bài tác giả nhận xét “Nguyễn Nhật Ánh vẫn còn những cách rất
riêng để đi vào từng ngõ ngách trong tâm hồn độc giả, để họ cùng vui, cùng
cười, cùng ngẫm bằng những câu chữ không bao giờ thừa thãi. Và nét hóm
hỉnh, đáng yêu, những bài học nhẹ nhàng, những kỉ niệm chẳng-của-riêngai… sẽ còn khiến cái tên Nguyễn Nhật Ánh tiếp tục được yêu mến”.
9


Các bài viết ít nhiều đề cập đến các vấn đề thuộc nội dung, nghệ thuật của
tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh, đều là những gợi ý quý báu để chúng tôi triển
khai đề tài nghiên cứu của mình.
3.Mục đích nghiên cứu, Đối tƣợng nghiên cứu, Phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Từ lí thuyết thi pháp về thời gian và không gian
nghệ thuật trong tác phẩm văn học, luận văn tập trung nghiên cứu cách tổ
chức các kiểu thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật trong truyện

Nguyễn Nhật Ánh.
-Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu vấn đề: Thời gian và
không gian nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
-Phạm vi nghiên cứu:Trong hơn hai mươi năm cầm bút, Nguyễn Nhật
Ánh có một tuyển tập đồ sộ gồm hàng trăm tác phẩm viết cho thiếu nhi. Với
hướng nghiên cứu về thời gian và không gian nghệ thuật cũng như khuôn khổ
luận văn thạc sĩ, chúng tôi sẽ đi sâu vào bốn tác phẩm truyện dài: Cô gái đến
từ hôm qua, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh
và Ngồi khóc trên cây. Bên cạnh đó, các tác phẩm khác của Nguyễn Nhật
Ánh và các nhà văn khác viết cho thiếu nhi chúng tôi cũng sử dụng tư liệu để
mở rộng, liên hệ, so sánh.
4.Phƣơng pháp nghiên cứu
Từ mục đích và đối tượng nghiên cứu nói trên, luận văn sử dụng kết hợp
các phương pháp nghiên cứu:
- Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này giúp chúng tôi
tìm hiểu một cách có hệ thống về thời gian nghệ thuật và không gian nghệ
thuật trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh theo hướng nghiên cứu thi pháp.
- Phƣơng pháp phân tí ch – tổ ng hơ ̣p : Từ những đặc điểm về thời gian
và không gian nghệ thuật trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh, chúng tôi sẽ
đi sâu phân tích nhằm làm sáng tỏ vấn đề, đồng thời phát hiện những điểm
10


sáng tạo của Nguyễn Nhật Ánh trong quá trình triển khai thời gian và
không gian nghệ thuật.
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: Bên cạnh Nguyễn Nhật Ánh, còn khá
nhiều nhà văn viết về văn học thiếu nhi khác nên trong quá trình phân tích
chúng tôi sẽ tiến hành so sánh thời gian và không gian trong truyện Nguyễn
Nhật Ánh với một số nhà văn khác như Nguyễn Ngọc Thuần, Tô Hoài, Võ
Quảng.

- Phƣơng pháp khảo sát- thống kê: Phương pháp này giúp chúng tôi
thống kê các mô hình thời gian và không gian nghệ thuật trong những sáng
tác của Nguyễn Nhật Ánh nhằm cung cấp những số liệu cụ thể khoa học, xác
thực để đi kết luận cuối cùng.
- Phƣơng pháp nghiên cứu tiểu sử và trƣờng hợp tác giả: Phương pháp
này giúp tìm hiểu về cuộc đời nhà văn Nguyễn Nhật Ánh và mối quan hệ giữa
cuộc đời và quá trình sáng tác.
5.Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương như sau:
Chƣơng 1: Khái lƣợc về thời gian, không gian nghệ thuật và vị trí
của Nguyễn Nhật Ánh trong dòng văn học thiếu nhi
Chƣơng 2: Thời gian nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh
Chƣơng 3: Không gian nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.

11


Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ THỜI GIAN, KHÔNG GIAN NGHỆ
THUẬT VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH
1.1. Khái lƣợc về thời gian, không gian nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện
phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới thực tại
bị chi phối bởi dòng thời gian thì thế giới nghệ thuật cũng tồn tại và chịu ảnh
hưởng lớn của thời gian nghệ thuật. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thì: Thời
gian là “hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể
của nó” [13;160]. Cùng với không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật
trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn trần thuật
nhất định trong thời gian. Khác với thời gian khách quan được đo bằng đồng

hồ và lịch, thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng
sự lặp đi lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, cái
chết, sự chia ly, mùa này, mùa khác…tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm. Thời
gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm
nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với
các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai. Thời gian nghệ thuật
không mang tính khách quan mà mang tính chủ quan, gắn với cảm nhận của
con người. Thời gian nghệ thuật còn gắn với việc tác giả tổ chức chất liệu
trong tác phẩm. Thời gian nghệ thuật gồm có thời gian sự kiện và thời gian
tâm tưởng.
Trong chuyên luận Thi pháp cổ điển Nga, Viện sĩ Đ.X Likhachốp đã phát
biểu quan điểm của mình về vấn đề thời gian nghệ thuật. Đây có thể coi là
quan điểm tích cực đóng góp vào công việc nghiên cứu văn học: “Thời gian
nghệ thuật là nhân tố nằm trong mạng lưới nghệ thuật. Nó buộc thời gian cú
pháp và quan niệm triết học về thời gian phải phục vụ cho những nhiệm vụ
12


nghệ thuật của nó”. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong Thi pháp thơ Tố Hữu
có viết: “Thời gian nghệ thuật trong văn học không phải giản đơn chỉ là quan
điểm của tác giả về thời gian mà là một hiện tượng thời gian sinh động, gợi
cảm, là sự cảm thụ, ý thức về thời gian được dùng làm hình thức nghệ thuật
để phản ánh và tổ chức tác phẩm (…) Còn thời gian thật sự có tính chất nghệ
thuật, đó là thời gian của hành động kể chuyện và thời gian của văn
bản…”[37, tr.190].
Điểm qua một số quan niệm về thời gian nghệ thuật của các nhà nghiên
cứu, chúng tôi rút ra quan niệm về thời gian nghệ thuật như sau:
Thời gian nghệ thuật là nhân tố nằm trong mạng lưới nghệ thuật của tác
phẩm văn học. Nó thể hiện cái nhìn tâm lý chủ quan về thời gian, cách cảm
nhận và ứng xử đối với cuộc sống theo quan điểm, ý đồ riêng của tác giả mộ

cách có hiệu quả nghệ thuật.
1.1.2. Khái niệm không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại bên trong của hình thức nghệ
thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Theo các tác giả của cuốn Từ điển Tiếng
Việt, không gian là “hình thức tồn tại cơ bản của vật chất, trong đó các vật có
độ dài và độ lớn khác nhau, cái nọ ở cạnh cái kia”, là “khoảng không gian
bao trùm mọi vật xung quanh con người”. Khi nhắc đến không gian nói
chung, người ta thường quy nó về một không gian địa lý nào đó.
Nhưng không gian nghệ thuật lại là một phạm trù khác hẳn, nó thuộc về
hình thức nghệ thuật, là “phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ
thuật” [25, tr.42].
Các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học khẳng định: “không gian nghệ
thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể
của nó. Sự miêu tả, trần thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn
ra trong một trường nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính
13


bộc lộ qua quảng tính của nó; cái này bên cạnh cái kia, liên tuc, cách quãng,
tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không
gian nghệ thuật gắn liền với những cảm thụ về không gian nên mang tính chủ
quan. Ngoài không gian vật thể, có không gian tâm tưởng. Do vậy không gian
nghệ thuật có tính độc lập tương đối với không gian địa lý”[13,tr 56].
Giáo sư Trần Đình Sử cũng chỉ rõ: “Không gian nghệ thuật là sản phẩm
sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan
điểm nhất định về cuộc sống, do đó không thể quy nó về không gian địa lý,
hay không gian vật lý, vật chất”[38,tr.94]. Chính vì thuộc về thế giới nghệ
thuật, thuộc về thế giới của “cái nhìn và mang ý nghĩa” (Trần Đình Sử) nên
không gian nghệ thuật mở ra một trường nhìn, một cách nhìn trong tác phẩm.
Trong tác phẩm, từ cái nhìn của tác giả, từ điểm nhìn của người kể chuyện

trong không gian được hiện diện rõ nét. Dù là điểm nhìn của ai thì nó vẫn
mang tính chủ thể, nhờ tính chủ thể mà một mô hình không gian với chiều
cao-thấp, rộng-hẹp, xa-gần…được xác định.
Khi nghiên cứu về không gian, các tác giả còn đưa ra các tiêu chí cụ thể để
phân loại không gian nghệ thuật, trong đó có một số quan điểm đáng chú ý
như sau:
*Giáo sư Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học:
- Dựa vào vị trí, giới hạn của sự vật, không gian được chia thành: không gian
điểm (địa điểm), không gian tuyến , không gian mặt phẳng (không gian khối).
- Dựa vào sự biến đổi, vận động của sự vật, hiện tượng, không gian được
chia thành: không gian bên trong (phi thời gian, không biến đổi, trừ khi thảm họa
làm nó bị hủy diệt), không gian bên ngoài (đổi thay, vô thường, ngẫu nhiên).
Ngoài ra còn có không gian hành động và phi hành động.
Như vậy không gian nghệ thuật là mô hình không gian của thế giới nghệ
thuật. Sự đối lập và liên hệ của các yếu tố thời gian (các miền, các phương vị, các
chiều…) tạo thành ngôn ngữ nghệ thuật để biểu hiện thế giới quan của tác phẩm.
14


Tác giả Nguyễn Thái Hòa trong cuốn Những vấn đề thi pháp của truyện
phân chia không gian nghệ thuật thành các loại cụ thể. Theo tác giả, sự tồn tại
của sự vật là sự tồn tại trong không gian. Nhận thức của con người được hình
thành riêng rẽ, biểu hiện bằng lời và được “khúc xạ” theo chủ quan của người
nói. Có thể chia thành các loại không gian như sau: Không gian bối cảnh (bao
gồm bối cảnh thiên nhiên, bối cảnh tâm trạng và bối cảnh xã hội); Không gian
sự kiện; Không gian tâm lý; Không gian kể chuyện; Không gian tâm lý.
Trong cuốn Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ, GS Huỳnh Như Phương
cũng phân chia không gian nghệ thuật thành: Không gian nghệ thuật có thể là
không gian thiên nhiên hay không gian sinh hoạt. Và những không gian này
luôn gắn với khát vọng, ước mơ, lý tưởng của con người. Không gian nghệ

thuật có thể là không gian mở hoặc không gian khép. Không gian nghệ thuật
cũng có thể là không gian linh hoạt, vận động đa dạng hay đã hướng hoặc
cũng có thể là không gian tĩnh bất động.
Như vậy không gian nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng đối với tác giả trong
việc miêu tả cuộc sống, bộc lộ tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của con người.
Vai trò của không gian nghệ thuật không dừng lại ở việc xác định nơi chốn,
địa điểm diễn ra các sự kiện, nơi liên kết đường dây cốt truyện, mà nó đã trở
thành một kí hiệu đặc biệt để diện đạt những phạm trù ngoài thời gian, hoặc
để thể hiện tâm trạng của nhân vật, hoặc để đánh giá nhân vật đó về mặt đạo
đức, thẩm mỹ.
1.2. Hành trình sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh trong dòng văn học thiếu nhi
1.2.1. Khái niệm văn học thiếu nhi
Để nghiên cứu sâu hơn về vị trí của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đối với nền
văn học thiếu nhi, câu hỏi đầu tiên chúng ta cần phải trả lời là “văn học thiếu nhi
là gì?”. Có rất nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về văn học thiếu nhi.

15


Theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Theo nghĩa hẹp, văn học thiếu nhi
gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học dành cho thiếu nhi. Tuy
vậy, khái niệm văn học thiếu nhi cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi
những tác phẩm văn học thông thường (dành cho người lớn) đã đi vào phạm
vi đọc của thiếu nhi” [40, tr.353]. Như vậy, Từ điển thuật ngữ văn học không
đưa ra một khái niệm hay một định nghĩa cụ thể về văn học thiếu nhi mà chỉ
giới hạn những “loại” tác phẩm được gọi là văn học thiếu nhi. Mà trong số
những tác phẩm văn học thiếu nhi ấy cũng gồm cả những tác phẩm không
thuộc về văn học .
Cũng về khái niệm văn học thiếu nhi thì Từ điển bách khoa mở
(Wikipedia) cho rằng: “Văn học thiếu nhi (Children’s literature) hay văn học

dành cho trẻ em là các tác phẩm dành cho độc giả và thính giả đến khoảng
mười hai tuổi và thường có tranh minh họa. Thuật ngữ này được dùng với
nhiều nghĩa, đôi khi nó loại trừ những thể loại viễn tưởng dành cho tuổi mới
lớn, các sách truyện hài hước hoặc các thể loại truyện khác…Văn học thiếu
nhi có thể là những tác phẩm do trẻ em (thiếu nhi) viết, những tác phẩm viết
cho trẻ em hoặc những tác phẩm được trẻ em lựa chọn”.
Cuốn Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam tập 1 do Vân Thanh và
Nguyên An biên soạn đã đưa quan niệm về văn học thiếu nhi tương đối rộng
và bao quát : “Văn học thiếu nhi bao gồm:
- Những tác phẩm văn học được mọi nhà sáng tạo với mục đích giáo dục,
bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là
thiếu nhi, nhiều khi cũng là người lớn, hoặc là một cơn gió, một loài vật hay
một đồ vật, một cái cây…Tác giả văn học thiếu nhi không chỉ là chính các
em, mà cũng là nhà văn thuộc mọi lứa tuổi.
- Những tác phẩm được thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi vì các em đã tìm
thấy trong đó cách nghĩ cách cảm và các hành động của chính các em, hơn
16


thế, các em còn tìm được ở trong đó một lời nhắc nhở , một sự răn dạy , với
những nguồn động viên, khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích…trong quá
trình hoàn thiện tính cách của mình.
Như thế văn học thiếu nhi là người bạn thông minh và mẫn cảm của thiếu
nhi” [28, tr.6].
Quan điểm trên về văn học thiếu nhi có nét tương đồng với khái niệm văn
học thiếu nhi được đưa ra trong Từ điển thuật ngữ văn học ở chỗ cũng phân
loại được những tác phẩm được gọi là văn học thiếu nhi. Khái niệm trên có
thể xem như một cách hiểu toàn diện và đầy đủ nhất cho bất cứ nhà nghiên
cứu nào muốn tìm hiểu về văn học thiếu nhi. Các tác giả Vân Thanh và
Nguyên An đã bổ sung vào quan niệm của mình tính mục đích (nhấn mạnh

vào mục đích giáo dục) của các tác phẩm thiếu nhi, loại nhân vật và lực lượng
sáng tác trong văn học thiếu nhi ( điểm này có nét tương đồng với quan điểm
của Bách khoa toàn thư mở).
Triển khai đề tài Thời gian và không gian nghệ thuật trong truyện ngắn
của Nguyễn Nhật Ánh, mà thực chất là tập trung vào các truyện viết cho thiếu
nhi, chúng tôi không có “khao khát” đưa ra một khái niệm về văn học thiếu
nhi mà trên cơ sở tham khảo những khái niệm và quan điểm về văn học thiếu
nhi khác nhau, chúng tôi sẽ rút ra những đặc điểm cơ bản mang tính đặc trưng
về văn học thiếu nhi. Những cơ sở lý luận này sẽ giúp chúng tôi đi sâu phân
tích thời gian và không gian của truyện ngắn Nguyễn Nhật Ánh trong những
chương tiếp theo.
1.2.2. Bức tranh chung của văn học thiếu nhi thời kì đổi mới
Xã hội Việt Nam từ sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhất là thời kì đổi
mới đã có những bước chuyển biến to lớn, sâu sắc và toàn diện. Sự phát triển
và vận động của văn học có mối quan hệ mật thiết với sự phát triển của xã hội
vì vậy thông qua đời sống văn học ta có thể thấy được sự thay đổi của con
17


người, các mối quan hệ xã hội trong thời kì mới của đất nước. Truyện viết cho
thiếu nhi từ sau năm 1975 tuy có dòng chảy riêng nhưng cũng không nằm
ngoài diện mạo chung của văn học Việt Nam, nhất là văn xuôi giai đoạn này.
Quan sát sự vận động của văn học thiếu nhi thời kì đổi mới, chúng ta thấy có
thể chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1975-1985: Những trăn trở tìm kiếm và chuẩn bị cho giai đoạn
đổi mới
Trước đó, sự kiện cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đánh
dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại trong quá trình đấu tranh, bảo vệ đất nước
của dân tộc, đồng thời từ đây văn học Việt Nam cũng dần dần bước sang một
giai đoạn phát triển mới rực rỡ và gặt hái được nhiều thành công. Thành tựu

nổi bật nhất của văn học kháng chiến là sự phát hiện và sáng tạo hình tượng
quần chúng ở nhiều phương diện.Truyện viết cho thiếu nhi nói riêng và văn
xuôi 1945 - 1975 nói chung đã góp phần đáng kể trong việc hình thành và tạo
nên diện mạo phong phú, cũng như những giá trị của nền văn học mới trong
ba mươi năm đầu tiên. Những thành tựu và dấu ấn của nó để lại dấu ấn đáng
ghi nhớ không chỉ trong giai đoạn lịch sử đương thời mà còn góp phần vào sự
phát triển của văn học Việt Nam sau năm 1975.
Trong khoảng mười năm sau kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, văn học
trong giai đoạn trăn trở tìm tòi nhưng hầu hết các tác phẩm đều viết sử dụng
cách tiếp cận cũ. Sự tiếp nối này thể hiện rõ hơn trong những năm đầu khi
cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, phần lớn truyện vẫn chỉ xoay quanh đề
tài kháng chiến. Võ Quảng viết Tảng sáng vẫn tiếp nối cảm xúc của Quê nội.
Đó là cảm hứng ngợi ca quê hương, đất nước và ca ngợi cách mạng. Nhiều
tác phẩm viết theo cảm hứng day dứt về “một thời đạn bom”, lớp lớp trẻ em
từ thành phố về nông thôn sơ tán phải tự lập, lo toan mọi việc.

18


Tuy vẫn tiếp nối và có những nét gần gũi với văn học trước năm 1975
nhưng truyện viết cho thiếu nhi dù có những dấu hiệu mới song vẫn chưa tạo
được những chuyển biến rõ rệt, truyện đã mở ra những bình diện mới trong
cách lí giải và tìm hiểu con người. Trong quan hệ với tập thể, con người chủ
yếu được nhắc tới ở phương diện thái độ với sự nghiệp chung, cái riêng của
con người có nét thống nhất với cái chung.Viết về cuộc sống mới của con
người khi đất nước hòa bình, các nhà văn chú ý đến vấn đề đạo đức con
người. Những tác phẩm như Tình thương (Phạm Hổ), Bến tàu trong thành
phố (Xuân Quỳnh), Chú bé có tài mở khóa (Nguyễn Quang Thân), Hành trình
ngày thơ ấu (Dương Thu Hương)…có thể được coi là những tác phẩm đầu
tiên dám phanh phui và mạnh dạn tố cáo những tiêu cực của xã hội với những

xấu xa, lạc hậu, sự nhỏ nhen ích kỉ của con người.
Ở giai đoạn trước, khi nhân dân ta đang hừng hực khí thế chiến đấu chống
lại kẻ thù thì đề tài tổn thất và mất mát dường như trở thành vấn đề “cấm kị”
trong nhiều mảnh đất văn học. Văn học sống dưới bầu khí quyển chiến tranh
nên “những đứa con tinh thần” của nó cũng chủ yếu mang cảm hứng ca ngợi
cuộc kháng chiến trường kì và thần thánh của dân tộc. Biết bao thế hệ trẻ em
đã được truyền ý chí chiến đấu, đã hiểu rõ hơn việc đấu tranh để bảo vệ cuộc
sống của nhân dân mình thông qua văn học: “Chúng tôi muốn làm gì? Rõ
ràng là trong tâm trí của chúng tôi, không một đứa nào muốn đi tản cư, mặc
dù biết sẽ được đi đến nơi xa lạ. Cái nơi xa đang khơi gợi trí tò mò trong tâm
trí cũng không lấn át được sự thôi thúc bồng bột ngây thơ: hãy cho chúng tôi
ở lại chiến đấu với giặc…” (Nguyễn Minh Châu - Từ giã tuổi thơ). Đề tài lịch
sử rất phát triển ở giai đoạn trước 1975 thì giờ đây cũng chững lại. Các tác giả
thường xuyên viết về lịch sử trước đây như Nguyễn Huy Tưởng, Hà Ân, Lê
Vân, An Cương, Nguyễn Đức Hiền…thường khai thác lịch sử gắn với các
nhân vật anh hùng và truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Tới gia
19


đoạn này, Tô Hoài mở ra một hướng khai thác mới, hướng khai thác lịch sử
gắn với huyền thoại, phong tục và văn hóa. Những tri thức và bài học lịch sử
ở đây không chỉ gắn với lịch sử chiến đấu mà đã mở rộng sang tình yêu quê
hương, làng xóm tạo ra một thế giới xa xưa, hư ảo hấp dẫn: Đảo hoang,
Chuyện nỏ thần, Đảo Chử...
Dòng chảy của văn học thiếu nhi cũng nằm trong con sông lớn văn học
Việt nam, vì vậy các nhà văn văn học thiếu nhi dù đã cố tìm ra những nét đổi
mới nhưng tựu chung vẫn đi theo lối mòn đã được hình thành từ giai đoạn văn
học trước 1975. Môi trường hoạt động của trẻ em trong các tác phẩm chưa
được rộng rãi, chủ yếu chỉ xoay quanh đời sống cách mạng, đời sống lao động
và các vấn đề đạo đức xã hội. Một số tác phẩm đã có những tìm tòi, phát hiện

mới mẻ về việc quan sát con người và đời sống xã hội ở nhiều chiều kích
khác nhau nhưng sự đột phá này diễn ra chưa thật trọn vẹn.
Giai đoạn 1986 đến nay: Mở rộng đề tài, đổi mới cách tiếp cận đời sống
và tăng cường khả năng khám phá con người.
Thành công của đại hội Đảng lần thứ VI đã đem lại không khí mới cho nền
văn học, giải phóng những tiềm năng sáng tạo trong các đội ngũ sáng tác văn
học thiếu nhi. Đảng kêu gọi “cởi trói” đã tạo điều kiện cho sự phát triển tự do
của con người , bởi vì “cởi trói” trước hết là sự giải phóng cho cá tính, giải
phóng cho tiềm năng sáng tạo của con người, đặc biệt đối với các nhà văn, sự
“cởi trói” này đồng nghĩa với việc họ được tự do phóng ngòi bút của mình
đến bất cứ đâu mà họ muốn, họ có thể mặc sức để khả năng sáng tạo điều
khiển ngòi bút của mình. Thực ra không khí đổi mới văn học đã có từ trước
đó, một số nhà văn đã thể hiện tư tưởng đột phá này ngay trong tác phẩm của
mình. Nhưng phải đến giai đoạn sau năm 1986, phong trào đổi mới này mới
diễn ra đồng bộ và toàn diện. Các nhà văn được dịp phát huy cá tính sáng tạo,
ý thức tìm tòi nét riêng trong phong cách sáng tác. Trong hội thảo do báo Văn
20


nghệ đưa ra, Lã Nguyên đã nhận xét: “Văn học trước năm 1975 là tiếng nói
phát ngôn cho ý thức cộng đồng và những chuẩn mực quy phạm đã được thực
hiện hóa trong ý thức cá nhân. Văn học sau 1975 lại là sự bùng nổ của ý thức
cá nhân trước nhu cầu tự nhận thức, tự biểu hiện của dân tộc và thời đại”.
Tuy nhiên để thay đổi một cách nghĩ, một cách làm mới không phải là không
có những điều bất ổn. Có một số nhà văn đã hiểu sai, hiểu cực đoan về đổi
mới, dẫn đến phủ định một cách triệt để giá trị cũ.
Không khí đổi mới chung của đất nước, của văn học đã dội vào trong
những tác phẩm văn học thiếu nhi. Đặc biệt trong những năm đầu, không khí
đổi mới diễn ra thật hào hứng, sôi nổi, phong phú diễn ra dễ nhận thấy ở bộ
phận truyện. Truyện viết cho thiếu nhi mở rộng hướng tiếp cận mới với đời

sống trẻ em. Năm 1986, 1987 với những tác phẩm tiêu biểu như Tuổi thơ dữ
dội (Phùng Quán), Bình minh đến sớm (Hoàng Minh Tường)…Thời mở cửa,
sự giao lưu văn hóa nước ngoài, các nhà văn Việt Nam nhanh chóng cập nhật
lối viết để cạnh tranh với các ấn phẩm ăn khách vì thể tạo nên một diện mạo
khởi sắc cho nền văn học thiếu nhi. Có thể nói sự “cạnh tranh” của các tác
phẩm văn học dịch (Đô-rê-mon, TKKG…) buộc các nhà văn Việt Nam phải
cố gằng hơn để chấm dứt tình trạng “lấn sân”. Bên cạnh đó, các phương tiện
thông tin đại chúng bùng nổ cũng dẫn đến nguy cơ văn hóa nghe - nhìn lấn át
văn hóa đọc. Tuy văn hóa nghe - nhìn đáp ứng nhu cầu giải trí nhanh, sống
động, chớp nhoáng nhưng lại ít khả năng lưu động sâu sắc như văn hóa đọc.
Dường như nhu cầu và văn hóa đọc của trẻ em ngày càng bị mai một. Như
vậy, các cơ quan giáo dục nên đặc biệt quan tâm hơn nữa đến việc phát triển
văn hóa đọc cho trẻ em ngay từ khi còn nhỏ.
Thời kì này, đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi trở nên đông đảo hơn.
Những tác giả cũ mặc dù tuổi đã cao nhưng vẫn tiếp tục sáng tác với nhiệt
huyết mang lại cho thiếu nhi những tác phẩm văn học hay, ý nghĩa. Họ tiến
21


×