Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Đặc điểm của quá trình du nhập islam giáo vào khu vực đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.46 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................1
Chương 1: Vài nét khái quát về Đông Nam Á
1.1. Tổng quan về Đông Nam Á..............................................................................2
1.2. Tín ngưỡng bản địa và các tôn giáo ở Đông Nam Á trước khi Islam giáo du
nhập..................................................................................................................3
Chương 2: Đặc điểm của quá trình du nhập Islam giáo vào khu vực Đông Nam Á
2.1. Sơ lược về Islam giáo.......................................................................................6
2.2. Những bước đầu của quá trình du nhập Islam giáo vào Đông Nam Á..............7
2.3. Đặc điểm của quá trình du nhập Islam giáo vào khu vực Đông Nam Á.........11
2.3.1. Islam du nhập vào Đông Nam Á chủ yếu theo đường biển dưới hình thức
giao lưu, buôn bán.............................................................................................11
2.3.2. Islam du nhập vào Đông Nam Á bằng phương thức hoà bình.................14
2.3.3. Islam du nhập vào Đông Nam Á đã có sự pha trộn giữa Islam chính thống
với các cơ tầng văn hoá có nguồn gốc Ấn Độ, Ba Tư, Trung Quốc và những yếu
tố tín ngưỡng tiền Islam ở địa phương..............................................................19
2.3.4. Islam du nhập vào Đông Nam Á do có nhiều yếu tố thuận lợi................21
KẾT LUẬN..............................................................................................................26
PHỤ LỤC.................................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................30

LỜI NÓI ĐẦU
1


Đông Nam Á từ lâu đã được coi là khu vực có lịch sử lâu đời với tư cách là
trung tâm kinh tế, văn hóa phong phú, đa dạng và là một trong những chiếc nôi
của lịch sử loài người. Bên cạnh đó khu vực này còn là nơi có nền văn hóa phong
phú, đa dạng, nhiều màu sắc nhưng lại thống nhất với nhau. Tính thống nhất đó
được xây dựng trên cơ tầng văn hóa bản địa đặc sắc của một chỉnh thể văn hóa
Đông Nam Á đã có từ thời tiền sử, tính đa dạng cũng thuộc về bản chất của nền


văn hóa đặc sắc ấy khi nó không ngừng tiếp biến với các nền văn hóa khác để thu
nhận, để cải biến và phát triển trong suốt hàng ngàn năm qua.
Ở Đông Nam Á bức tranh về tôn giáo là vô cùng đa dạng, mang nhiều dáng
vẻ khác nhau. Bởi trong quá trình phát triển lịch sử, nơi này đã hội tụ đầy đủ các
ý thức hệ tư tưởng của cả Phương Đông lẫn Phương Tây. Trong quá trình xâm
nhập và phát triển của Islam giáo (Hồi giáo), tôn giáo này đã có một địa vị chắc
chắn ở nhiều nước. Và trong bức tranh văn hóa tôn giáo Đông Nam Á, với vai trò
là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới thì Islam cũng là một trong số những
tôn giáo đã góp phần tạo nên sự đa dạng về mặt tôn giáo nơi đây. Islam không
chỉ có vị trí và vai trò đặc biệt trong cộng đồng các quốc gia A Rập mà còn ở
nhiều nước trên thế giới, trong đó có cộng đồng Islam ở Đông Nam Á. Nói đến
sự lan truyền Islam ra bên ngoài, chắc hẳn sẽ nghĩ ngay đến sự du nhập thông
qua các cuộc “chiến tranh thần thánh dưới ngọn cờ tôn giáo” của mình khi lan
truyền sang nhiều khu vực khác. Tuy nhiên, khi đến với Đông Nam Á Islam lại
trở nên “hòa diệu” hơn hẳn, khi theo chân các thương nhân đến bằng con đường
thương mại hòa bình, đó chính là sự khác biệt, mỗi tôn giáo khi đến với khu vực
này đều mang một màu sắc riêng và có những đặc điểm riêng trong quá trình du
nhập để cư dân nơi đây có thể tiếp nhận và phát triển chúng, có chăng khi Islam
hay bất kì một tôn giáo nào khác khi đến Đông Nam Á cũng“đều tự tước bỏ đi
những giáo lí và thực hành cứng nhắc, hòa vào các tín ngưỡng tôn giáo truyền
thống và do vậy tự biến đổi để được chấp thuận và tồn tại”.
Vì những lý do trên nên tôi chọn: “Đặc điểm của quá trình du nhập Islam
giáo vào khu vực Đông Nam Á” làm đề tài tiểu luận.

2


CHƯƠNG 1:
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ KHU VỰC ĐÔNG
NAM Á

1.1. Tổng quan về Đông Nam Á
Đông Nam Á có vị trí địa lí nằm trong phạm vi khoảng từ 920 đến 1400 kinh
Đông và khoảng từ 280 vĩ Bắc đến 150 vĩ Nam. Phía Bắc giáp với Trung Quốc,
phía Tây Bắc giáp với Ấn Độ - hai nền văn minh lớn và rực rỡ của thế giới trong
thời kì cổ trung đại, phía Tây là Ấn Độ Dương và hai mặt Đông, Nam được bao
bọc bởi Thái Bình Dương. Đông Nam Á gồm hai vùng lãnh thổ khác nhau rõ rệt:
một phần là lục địa (Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma), một phần
là vùng hải đảo (Inđonexia, Philippin, Malaysia, Singapore, Brunei).
Đông Nam Á từ lâu vẫn được coi là khu vực có ý nghĩa quan trọng trong
toàn bộ lịch sử khu vực và thế giới, từ những bước đi đầu tiên của loài người
cũng như trong từng chặng đường lịch sử. Là khu vực “ngã tư đường”, là cầu
nối giữa thế giới Trung Quốc, Nhật Bản với khu vực Tây Á và Địa Trung Hải,
nên không phải ngẫu nhiên mà mối liên hệ của khu vực này với thế giới đã được
xác lập ngay từ thời cổ đại. Ở Đông Nam Á, từ trước khi tiếp xúc với các nền văn
minh từ bên ngoài, các cư dân của nó đã có một đời sống văn hoá khá cao. Cho
đến trước thế kỉ XVI, Đông Nam Á đã nổi lên như một trong những trung tâm
văn minh, một khu vực địa lý - lịch sử - văn hoá. Đương nhiên, trong quá trình
phát triển, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của các nền văn minh bên ngoài, song
sự tác động này không vì thế biến khu vực này thành khu vực “Ấn Độ hoá” hay
“Hán hoá”, mà nó đã lựa chọn những gì thích hợp nhất trong những thế giới ấy,
đồng thời hoà nhập với các đặc điểm của mình, chứ không phải tiếp thu tất cả
những gì xa lạ với nó. Cùng sinh tụ trên một khu vực địa lý, cư dân Đông Nam Á
đã sáng tạo nên một nền văn hoá bản địa có cội nguồn chung từ thời tiền sử và sơ
sử trước khi tiếp xúc với văn hoá Trung Hoa và Ấn Độ. Trong tính thống nhất
của khu vực, nền văn hoá đó có nguồn gốc và bản sắc riêng của mỗi dân tộc,
được phát triển liên tục suốt chiều dài lịch sử.
Xét về cội nguồn, Đông Nam Á có những đặc điểm văn hoá chung tạo nên
tính thống nhất của cư dân toàn vùng. Theo các nhà nghiên cứu, thì sở dĩ cư dân
Đông Nam Á có những nét chung thống nhất về mặt văn hoá vì cư dân ở đây có
cùng một nền tảng văn hoá Nam Á, lấy sản xuất lúa nước làm phương thức hoạt

động kinh tế chính. Đông Nam Á là một trong những cái nôi trồng trọt cổ của
loài người. Nông nghiệp lúa nước đã trở thành cội nguồn, thành mẫu số chung
của nền văn minh khu vực. Đó là một nền văn minh có đủ sắc thái đồng bằng,
biển, nửa rừng với đủ các dạng kết cấu đan xen, phức tạp...Nhưng mẫu số chung
3


vẫn là văn minh nông nghiệp trồng lúa nước, văn hoá xóm làng. Chính vì yếu tố
nền nông nghiệp lúa nước mà sông ngòi nơi đây có một vị trí đặc biệt quan trọng
trong đời sống cư dân Đông Nam Á. Với năm dòng sông lớn ở lục địa là sông
Hồng, Sông Mêkong, sông Mê Nam (Chaophaya), Salween, Iraoadi đã tạo nên
những đồng bằng châu thổ phì nhiêu màu mỡ hiếm thấy, các dòng sông lại chắp
nối liên kết giữa đồng bằng và biển rộng. Yếu tố biển cũng là một yếu tố quan
trọng không kém, là một biển phụ của Thái Bình Dương, Biển Đông có vị trí
tương đối khép kín, nhưng đây chính là ngư trường chủ yếu của cư dân Đông
Nam Á. Bên cạnh đó, nhờ vào yếu tố biển mà quá trình xúc tiến thương mại của
Đông Nam Á và những vùng khác diễn ra dễ dàng và thuận tiện hơn.
Vào những thế kỉ tiếp giáp công nguyên, trước sự xâm nhập của hai nền
văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, nền văn hoá chung của Đông Nam Á có những
thay đổi và các thành tố của nó trở thành cơ tầng Đông Nam Á của tất cả các nền
văn hoá dân tộc, được bảo lưu như là kho vốn chung của các nước Đông Nam Á,
tạo nên truyền thống liên kết với nhau. Trong những điều kiện lịch sử cụ thể, với
các ứng xử không giống nhau trong quá trình tiếp xúc với văn hoá Trung Hoa,
Ấn Độ và sau này của các nền văn hoá Âu, Mỹ, các cư dân trong vùng đã xây
dựng nền văn hoá quốc gia - dân tộc độc đáo, đa dạng, phong phú nhưng vẫn có
những nét tương đồng khu vực. Sau một thời gian tiếp thu và chọn lọc, các dân
tộc Đông Nam Á đã xây dựng một nền văn hoá riêng của mình và đóng góp vào
kho tàng văn hoá chung của loài người những giá trị tinh thần độc đáo.
Là khu vực dường như mang những yếu tố “trời cho”, với vị trí địa lí
“ngã tư đường” thuận tiện cho giao lưu kinh tế, nền nông nghiệp lúa nước minh

chứng cho một thời kì văn minh, phát triển. Bên cạnh đó, đời sống vật chất tinh
thần của cư dân nơi đây khá cao, từ thuở bình minh khi hình thành đã có những
tín ngưỡng bản địa, về sau là sự tiếp biến từ các nền văn hóa xung quanh, thu
nhận và hình thành nền văn hóa cho mình và của mình. Với những “đặc ân” đã
nêu trên, khu vực này như một điểm đến đầy hứa hẹn không chỉ đơn thuần là
giao thương, mà còn là sự giao lưu của nhiều nền văn hóa trên thế giới.
1.2. Tín ngưỡng bản địa và các tôn giáo ở Đông Nam Á trước khi
Islam giáo du nhập
Phát sinh và quần cư trên một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi với cảnh
quan hùng vĩ, sản vật phong phú, đất đai màu mỡ nên cư dân Đông Nam Á đã
xây dựng cho mình những nét sinh hoạt văn hóa riêng, thể hiện được những nét
tính cách và tâm hồn của con người vùng nhiệt đới gió mùa. Ngay từ thời xa xưa
cư dân Đông Nam Á đã sùng bái các hiện tượng tự nhiên, thờ cúng tổ tiên. Chính
các tập tục, tín ngưỡng truyền thống ấy đã được cư dân nơi đây bảo tồn và lưu
4


truyền suốt bao thế hệ. Về sau khi họ đã tiếp thu các tôn giáo lớn của thế giới như
Phật giáo, Ấn Độ giáo rồi đến Islam giáo hay Cơ Đốc, thì hầu hết các tôn giáo ấy
khi đến với Đông Nam Á đều được thiết lập trên nền tảng của các tín ngưỡng và
tập tục tín ngưỡng địa phương, hay nói cách khác: “Bất kì tôn giáo nào khi tới
Đông Nam Á đều tự tước bỏ đi những giáo lí và thực hành cứng nhắc, hòa vào
các tín ngưỡng tôn giáo truyền thống và do vậy tự biến đổi để được chấp thuận
và tồn tại”.
Đông Nam Á, một khu vực lịch sử - địa lý - văn hoá lâu đời, là một trong
những cái nôi của loài người. Do vậy, từ rất sớm những cư dân Đông Nam Á đã
sáng tạo ra các hình thức tôn giáo nguyên thuỷ như: Vật linh giáo, Tôtem giáo,
Shaman giáo, thờ mẫu, thờ cúng tổ tiên… Tuy sắc thái, biểu hiện của nó ở mỗi
quốc gia là khác nhau nhưng tất cả đều có một mẫu số chung chính là đặc trưng
của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Đó chính là “sự đa dạng trong thống

nhất” trong hình thức tôn giáo, tín ngưỡng Đông Nam Á. Đó cũng chính là
những cơ sở để cư dân Đông Nam Á chủ động tiếp thu những tinh hoa văn hoá
của khu vực và thế giới, đúng như nhận xét của Coedes: “Những dân tộc cảm
nhận được tác động của nền văn hoá Ấn Độ thì không phải những loại người
mông muội, mà là những cộng đồng có nền văn minh tương đối cao của chính
mình”. Nhờ có vị trí địa lý như chiếc cầu nối đại dương giữa các châu lục lớn nên
từ xa xưa, Đông Nam Á được coi như “ngã tư đường” của các nền văn hoá.
Ngoài ra biển Đông Nam Á cũng có vai trò đặc điểm gần giống như Địa Trung
Hải đối với các vùng duyên hải trong khu vực. Rồi thì thiên nhiên phong phú,
chế độ gió mùa đã trở thành những điều kiện thuận lợi giúp cho sự buôn bán, đi
lại, thậm chí định cư của các thương gia từ các nơi khác nhau của thế giới tới…
“Và hai nghìn năm trước đây mảnh đất lành Đông Nam Á đã được đón nhận con
chim đầu tiên của hai tôn giáo lớn là Phật giáo và Bàlamôn giáo từ Ấn Độ tới”.
Khác với sự truyền bá của một vài tôn giáo lớn mà tiêu biểu là Kitô giáo,
hai tôn giáo lớn của Ấn Độ lan toả đến miền đồng bằng duyên hải Đông Nam Á
chủ yếu bằng văn hoá và thông qua những người Ấn đến buôn bán hay sinh sống
tại vùng đất nước này. Tấm áo tôn giáo của Ấn Độ đã trụ lại và phát triển mạnh ở
các quốc gia cổ đại Đông Nam Á. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu
gọi khu vực Đông Nam Á thời cổ đại là khu vực “Ấn Độ hoá” hay khu vực ngoại
Ấn. Còn đối với các quốc gia Ấn Độ hoá, họ xem tôn giáo như là “công cụ” hữu
hiệu nhất trong việc Ấn Độ hoá các nền văn hoá cổ đại ở Đông Nam Á. Vì vậy,
“không một quốc gia nào lại không chọn lấy một tôn giáo nào đó của Ấn Độ làm
quốc giáo”.

5


Cho nên, trước khi Islam du nhập vào, đời sống tôn giáo của khu vực Đông
Nam Á hết sức đa dạng và phức tạp. Ngoài tín ngưỡng, tôn giáo nguyên thuỷ của
khu vực, Đông Nam Á đã tiếp thu những tôn giáo đến từ Ấn Độ, Trung Quốc.

Trong đó, ngoại trừ Đại Việt, ngoài việc tiếp thu Phật giáo của Ấn Độ, còn tiếp
thu cả Lão giáo và Nho giáo thì đại đa số các quốc gia Đông Nam Á đều chịu ảnh
hưởng của các tôn giáo đến từ Ấn Độ. Có thể ở nơi này, nơi kia có sự lựa chọn
Ấn giáo hay Phật giáo, Phật giáo đại thừa hay tiểu thừa, nhưng không chỉ thế, tất
cả đều cho thấy, trước khi Islam xuất hiện, tôn giáo, tín ngưỡng Ấn Độ đã ăn sâu,
bám rễ, chi phối toàn bộ đời sống các quốc gia Đông Nam Á. Sự ảnh hưởng đó
mạnh đến nỗi người ta gọi Đông Nam Á chính là khu vực “Ấn Độ hoá”…
Thực tiễn, ngay trước khi Islam du nhập vào, ở Đông Nam Á, nền văn hóa
Ấn - Malayu đang rơi vào tình trạng khủng hoảng. Vì vậy, nó tạo ra một chỗ
trống về tư tưởng để Islam - một tôn giáo phù hợp với những yêu cầu của lịch sử
Đông Nam Á bấy giờ len vào và phát triển mạnh mẽ.

6


CHƯƠNG 2:
ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH DU NHẬP ISLAM GIÁO
VÀO KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
2.1. Sơ lược về Islam giáo
Islam hay còn gọi là Đạo Hồi là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới.
Trong tiếng A Rập thì Islam có nghĩa là “sự phục tùng, sự tuân lệnh” và những
người theo Islam giáo đều được gọi là Muslim – tín đồ Hồi giáo. Những Muslim
sẽ luôn phải thể hiện Đức tin tuyệt đối của mình đối với Đấng Tối Cao đó là
Thánh Allah. Tôn giáo độc thần này xuất hiện ở phía Tây A Rập vào đầu thế kỉ
thứ VII và nhà Tiên tri Mohammed (570 – 632) chính là người đã sáng lập ra tôn
giáo này, ông là một nhân vật lịch sử vĩ đại, kiệt xuất. Và ông xuất thân trong
một gia đình quý tộc sa sút tại Mecca (thuộc vùng bán đảo A Rập, Mecca có vị trí
nằm trên đường buôn bán chủ yếu từ Yemen tới Xiri, dân cư là người thuộc bộ
lạc Corai, phần lớn đều theo nghề buôn bán và hoạt động thương mại). Cũng như
nhiều tôn giáo khác, Islam ra đời cũng xuất phát từ những điều kiện kinh tế, xã

hội, tư tưởng và tôn giáo đặc trưng. Tuy nhiên, sự ra đời của Islam lại mang
những nét đặc biệt mà không một tôn giáo nào có được. Đó là quá trình hình
thành và thống nhất quốc gia trở thành một xu thế tất yếu, đòi hỏi phải có một
nhà nước vững mạnh để khôi phục vị thế kinh tế và sức mạnh về niềm tin tôn
giáo, quá trình bành trướng và phát triển thế lực, mở rộng lãnh thổ ra bên ngoài.
Mỗi tôn giáo đều hình thành cho mình những đặc trưng riêng biệt để không
hòa lẫn vào những tôn giáo khác. Và Islam cũng vậy, một trong số những đặc
trưng của tôn giáo này đó là đối với các tín đồ Islam dù bất cứ đâu, thuộc dân tộc
nào, thì sự phục tùng luôn là “nguyên tắc tối thượng”. Đối với họ, không có Chúa
Trời nào khác ngoài Thánh Allah và Đấng Tiên tri của ngài chính là Mohammed.
Các tín đồ Islam luôn tin rằng, những gì mà Thánh Allah muốn làm đối với loài
người đều được ghi trong kinh Koran và bổn phận của họ là phải phục tùng theo
ý muốn của Ngài. Như vậy, lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của Islam giáo
luôn gắn liền với bộ kinh Koran (bộ kinh được chia làm 114 chương, gọi là
Suarat bao gồm những bài thơ – Ayat, Ayat còn có nghĩa là điều hành, điều kì
diệu). Chính sự ra đời của kinh Koran và Islam giáo đã đánh dấu những bước
ngoặc lịch sử của người A Rập. Niềm tin của các tín đồ đối với Islam giáo luôn
là tuyệt đối và họ luôn tuân thủ nghiêm ngặt 5 bổn phận quan trọng hay còn gọi
là “Năm trụ cột của Islam giáo”, đó là:
7


1.

Xác nhận đức tin (Shahadah), mỗi tín đồ Islam giáo phải xác nhận rằng
chỉ có một Thượng đế tối cao duy nhất là Đức Allah, ngoài ra không có
một vị thần nào cả và xác nhận Mohammed là sứ giả của Ngài.

2.


Cầu nguyện (Salat), hằng ngày mỗi tín đồ Islam giáo phải cầu
nguyệntheo nghi thức đủ 5 lần. Hướng duy nhất mà khi cầu nguyện các
tín đồ hướng tới là Thánh địa Mecca.

3.

Bố thí (Zakat), việc bố thí cho người nghèo khó là nghĩa vụ và bổn phận
của tín đồ Islam giáo.

4.

Kiêng ăn (Sawn), trừ trẻ em và phụ nữ mang thai và người ốm , còn lại
tất cả các tín đồ Islam giá đều phải kiêng ăn từ lúc rạng sáng đến khi
mặt trời lăn mỗi ngày trong tháng chay Ramadan (tháng 9 theo Hồi
lịch).

5.

Hành hương (Hajj), hành hương về Thánh địa Mecca, thành phố quê
hương của nhà Tiên tri Mohammed, trung tâm của thế giới Islam giáo,
nơi có đền Kaaba thiêng liêng là ước nguyện cả đời của mỗi tín đồ
Islam giáo và cũng là bổn phận của họ. Mỗi tín đồ Hồi giáo phải hành
hương về Thánh địa Mecca ít nhất một lần trong đời.

Ngoài 5 trụ cột trên, nhiều người còn cho rằng “Thánh chiến” (Jihad) là trụ
cột thứ sáu của Islam giáo. Niềm tin đó được xem là giáo luật và là pháp lý tôn
giáo đối với mọi tín đồ.
2.2. Những bước đầu của trình du nhập Islam giáo vào Đông Nam Á
Trước khi Islam được truyền bá vào Đông Nam Á, thì khu vực này đã có
những ảnh hưởng sâu sắc từ hai nền văn hóa lớn nằm áng ngữ ở hai đầu đó là văn

hóa Ấn Độ và Trung Hoa. Nhưng từ khi Islam giáo có mặt ở Đông Nam Á, giống
như một luồng gió mới khi Islam mang những đặc điểm mới mẻ, có sự thống
nhất cao và mang tính khu vực rõ rệt. Khi đến với Đông Nam Á, Islam không chỉ
làm tăng thêm số lượng tín đồ và biến đổi về chất mà còn ảnh hưởng rất lớn đến
đời sống chính trị, văn hóa, xã hội các quốc gia khu vực.
Tuy là một tôn giáo lớn trên thế giới, nhưng Islam đến Đông Nam Á tương
đối muộn vào lúc mà “lưỡi gươm tàn bạo của Islam giáo” không còn thỏa sức
hoành hành để mở rộng lãnh thổ và áp đặt tôn giáo cho các cư dân, vùng đất bị
người A Rập Hồi giáo chiếm đóng. Islam xuất hiện ở Đông Nam Á trước Thiên
Chúa giáo, nhưng chỉ thực sự có ảnh hưởng sau đó vài thế kỉ. Từ lâu, trước khi
người Châu Âu đến khu vực Đông Nam Á, thì Islam đã lan rộng một cách vững
chắc dọc theo các con đường buôn bán - đường thủy nối Tây Ấn Độ và Đông Á.
Và lãnh thổ đầu tiên mà người Hồi giáo xâm nhập là vùng phía Bắc Sumatra,
8


người Ache là cư dân đầu tiên theo đạo Hồi. Về sau khi Malacca trở nên cường
thịnh, thì vùng đất Sumatra này đã trở thành một trung tâm truyền bá Hồi giáo.
Con đường lan truyền của Hồi giáo bắt đầu từ Malaysia, Inđonexia sau đó thông
qua con đường Malaysia mà đã lan dần ra các đảo miền Nam Philippin.
Không phải đơn thuần mà việc lan tỏa của Islam giáo lại bắt đầu từ vùng
Đông Nam Á hải đảo. Bởi lẽ trên thực tế người A Rập đã biết đến khu vực Đông
Nam Á từ sớm cùng với các thương nhân Ba Tư, Ấn Độ, Trung Quốc và cùng
tham gia vào quá trình “Hồi giáo hóa Đông Nam Á”, có thể trong khoảng thời
gian từ thế kỉ VII đến thế kỉ XIII. Bởi vì, thời kì này ở đây đã hình thành những
con đường buôn bán sôi động nối các vùng Viễn Đông – Nam Á – Bán đảo A
Rập. Mặc dù tại những khu vực này đều có những thương nhân của Ấn Độ,
Trung Quốc nhưng các thương gia Muslim A Rập chưa quan tâm nhiều đến khu
vực Đông Nam Á, một phần là do nền thương mại Trung Hoa còn chiếm đa số và
lấn lướt. Có nguồn tài liệu cho rằng: “Chứng cứ đầu tiên thừa nhận về hoạt động

của Islam ở đây (Đông Nam Á) chỉ là báo cáo của Marco Polo năm 1292 có đề
cập đến thành phố Perlak ở miền Bắc Sumatra đã theo Islam”. Điều này có
nghĩa là người A Rập đã biết đến khu vực Đông Nam Á nhưng về việc buôn bán
mang tính chất có tổ chức của họ thì chưa có, thậm chí cho đến thế kỉ X. Tuy
nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, quá trình Islam thâm nhập vào
Đông Nam Á, mà trước hết là Đông Nam Á hải đảo là vào thế kỷ XIII. Đến đây,
quan hệ buôn bán trực tiếp và lan tỏa của Islam trong khu vực diễn ra thuận lợi.
Vào năm 1258, khi con đường buôn bán từ phương Đông qua Vịnh Ba Tư
lên Bắc Âu bị đóng cửa, con đường buôn bán mới lại được hình thành từ phía
Đông - Ấn Độ - Nam Arabia qua Hồng Hải… Theo đó, các thương gia Muslim
đã đến Đông Nam Á buôn bán, định cư và kết hôn với các phụ nữ địa phương, và
đương nhiên Islam đã được truyền bá vào khu vực. Trong quá trình Islam giáo du
nhập, thì các thành phố ven biển như: Malacca, Pasai, Aceh… đóng vai trò quan
trọng vì chúng là những thành phố và những trung tâm buôn bán lớn, nơi giao
lưu buôn bán trên khu vực. Do vậy, những thành phố đó trở thành trung tâm
Islam giáo đầu tiên và là những trung tâm buôn bán, cũng đóng vai trò là trung
tâm truyền bá Islam quan trọng. Các Islam đã có công tổ chức những hoạt động
tôn giáo và truyền bá kiến thức Islam cho cư dân bản địa. Một điều mà các dân
tộc ở Đông Nam Á dễ dàng tiếp nhận Islam là do tính chất ôn hòa, phù hợp với
đời sống tinh thần và tâm linh của mọi người, phù hợp với nhu cầu phát triển của
cư dân bản địa. Điều này góp phần tạo nên một trong những đặc trưng của Islam
giáo ở khu vực này. Đó là sự pha trộn những yếu tố tín ngưỡng tiền Islam ở địa
phương với những nét văn hóa Ấn Độ, Ba Tư và hồi giáo chính thống.

9


Bên cạnh đó, cũng không thể phủ nhận nguồn gốc Ấn Độ của Islam ở Đông
Nam Á. Trước đây khu vực này chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa Ấn Độ
trên mọi lĩnh vực, và đã được G.E.Coedes đề cập trong tác phẩm “Cổ sử các

quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông”, ông gọi đó là các quốc gia “Ấn Độ hóa”.
Nhưng sau khi Islam đến, các yếu tố văn hóa Ấn và Islam đã đan xen, hòa quyện
vào nhau với nền văn hóa bản địa. Khi Malacca trở thành tiểu quốc Islam thì lúc
này Islam cũng có mặt tại Ấn Độ, vai trò, vị trí của nó trong đời sống chính trị xã hội và văn hóa rất quan trọng. Nền tảng và cơ sở quan hệ giữa các quốc gia
Đông Nam Á và Ấn Độ đã có truyền thống tốt đẹp. Điều đó tạo nên một chất keo
kết dính, một chất xúc tác để Islam bắn rễ và phát triển ở khu vực Đông Nam Á.
Vào thế kỷ XIII – XIV, bản thân vùng Đông Nam Á hải đảo được gắn với một
chuỗi các quốc gia buôn bán theo đạo Hồi, tiến trình “Hồi giáo hóa” lúc bấy giờ
được hoàn tất thông qua việc cải đạo và chinh phục các đảo, mở rộng vùng giáp
ranh Hồi giáo dọc theo các con đường buôn bán hiện có. Cho đến thế kỉ XV,
Malacca đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình Islam hóa ra toàn khu vực.
Việc Hồi giáo đến Đông Nam Á không có những cuộc chiến tranh tôn giáo, trừ
một vài cuộc xung đột nhỏ ở Philippin và việc Hồi giáo du nhập vào Philippin có
nguồn gốc: “Vào thế kỉ XIV, Islam bắt đầu du nhập vào các đảo ở Miền Nam
Philippin làm xuất hiện cộng đồng người Muslim đầu tiên. Người mang Islam
đến với vùng đất này là các thương nhân A Rập, Ấn Độ và cả người Muslim
Malaysia”.
Sau khi đã thâm nhập vào hầu khắp vùng Đông Nam Á hải đảo, nhất là khi
Malacca trở thành trung tâm truyền bá Islam. Từ đây, Islam tiếp tục lan tỏa vào
vùng Đông Nam Á lục địa. Và việc hình thành các cộng đồng Hồi giáo cũng đã
được thiết lập ở Mianma và đã có những nét khác biệt trong quá trình du nhập
Hồi giáo vào Mianma so với các nước khác như Philippin, Thái Lan hay Việt
Nam là vì trong khi Hồi giáo du nhập vào các nước này có đặc điểm chung: đều
có nguồn gốc từ Malaysia – Inđonexia, thì Islam truyền vào Mianma lại có nguồn
gốc từ Bengal Ấn Độ. Trong nhiều nguồn tài liệu cho biết thì Bengal đã cải đạo
sang Islam giáo từ đầu thế kỉ XIII và là nơi giới hạn của con đường lan tỏa Islam
giáo bằng đường bộ sang phía Đông. Xét về địa lí thì phần lãnh thổ phía Tây Bắc
của Mianma là Arakan cùng với Bengal của Ấn Độ trong lịch sử đã có mối quan
hệ kinh tế, văn hóa từ rất lâu đời. Bởi vậy, nên Islam đã theo con đường này xâm
nhập vào Mianma. Tuy nhiên, Mianma vốn là một quốc gia có nền văn hóa Phật

giáo từ lâu đời, cho nên Islam giáo tuy vào Mianma nhưng không thể lấn sâu vào
lãnh thổ này được mà chỉ lôi kéo được bộ phận cư dân Arakan nằm phía Tây
Bắc. Còn đối với Thái Lan có thể nói quá trình du nhập Islam vào Thái Lan cũng
luôn được gắn với quá trình “Hồi giáo hóa” ở Indonexia và đặc biệt là Malaysia.
10


Bởi đa số tín đồ Islam giáo Thái Lan vốn đều có gốc là người Malaysia, họ sinh
sống chủ yếu ở các tỉnh phía Nam Thái Lan như: Pattani, Narathivat, Yala và
Sutan. Đây là những vùng đất trong lịch sử là đất mà những tiểu quốc Malaysia
cống nạp cho các tiểu quốc của người Thái: Sukhothay, Ayuthaya hay Xiêm. Và
dần dần biến thành tỉnh lệ thuộc hoặc sát nhập vào các nhà nước này, cũng như
vương quốc Thái Lan sau này. Việt Nam cũng như nhiều nước trong khu vực
Đông Nam Á, vấn đề du nhập Islam vào Việt Nam vẫn còn nhiều điều chưa được
sáng tỏ do những biến cố lịch sử. như theo truyền thuyết và bia kí của người
Chăm, họ đã biết đến Islam giáo từ thế kỉ X đến thế kỉ XI. Hai tấm bia được tìm
thấy ở Phan Rang, Phan Rí có niên đại vào thế kỉ X có kể về các hoạt động của
các thương nhân Hồi giáo A Rập đến đây làm ăn sinh sống. Tuy nhiên, theo các
nhà nghiên cứu phán đoán thì Hồi giáo có mặt ở đây vào thời kỳ này có thể chỉ là
do các thương nhân A Rập Hồi giáo đến đây làm ăn sinh sống và không có nhiều
người Chăm theo tôn giáo này. Phải đến sau biến cố lịch sử vào giữa thế kỉ XV
với sự suy vong của nhà nước Chămpa, Islam trong người Chăm mới thực sự có
những biểu hiện rõ nét. Trong tài liệu của Serejah Malayu, kể về một nhà vua
Chămpa tên là Indra Brama cùng vợ và gia quyến chạy sang Malacca sau sự kiện
vua Lê Thánh Tông tấn công Chămpa năm 1471 và được Sultan Mansur tiếp đón
thân thiện: “Sultan Mansur cải giáo sang Islam cho vị khách Chămpa này và
phong cho ông ta làm Mantri”. Như vậy, lịch sử Chămpa và tài liệu lịch sử của
Malaysia một lần nữa đã chứng tỏ, “Cho đến trước khi nước Chămpa bị mất vào
năm 1471, Islam chưa thâm nhập vào triều đình và dân chúng Chămpa. Còn
những dấu vết Islam ở Chămpa mà sử liệu Trung Quốc và hai tấm bia tìm thấy ở

miền Nam Chămpa có niên đại thế kỷ XI (một tấm có niên đại năm 1039, tấm kia
được xác định khoảng từ 1025 đến 1039) nói tới chỉ là những dấu tích liên quan
tới một thiểu số người, mà có thể chủ yếu là người nước ngoài, chứ không phải
là người Chăm”. Cũng như sử liệu Malayu nói tới, “Chỉ sau khi thành Đồ Bàn
thất thủ (1471), những người Chămpa chạy sang Campuchia lánh nạn và định
cư mới bắt đầu dần dần cải giáo sang Islam... Chính những thương nhân Malayu
từ đảo Borneo ghé đến, lập gia đình và định cư ở Campuchia, đã giúp người
Chămpa theo Islam”. Tại Campuchia người Chăm tiếp xúc với người Malaysia
(cùng hệ ngôn ngữ Malayo – Indonesian) theo Islam ở đây định cư buôn bán, dần
dần cải đạo Balamon để theo Islam giáo.
Các cộng đồng Islam giáo ở khu vực Đông Nam Á lục địa chỉ là những
cộng đồng dân cư thiểu số, không phát triển mạnh mẽ như ở các nước Đông Nam
Á hải đảo, bởi vì khi tới đây Islam vấp phải một lực cản lớn là Phật giáo và nền
văn hóa Phật giáo - Ấn Độ giáo. Tuy vậy, Islam giáo ở khu vực này vẫn còn
những đặc trưng tôn giáo và văn hóa riêng.
11


Tóm lại, chỉ sau khoảng thời gian ngắn (từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVII),
Islam đã từng bước xâm nhập và lan tỏa khắp khu vực Đông Nam Á. Từ những
trung tâm Islam lớn như Samudra - Pasai, Malacca, Acheh, Islam đã lan tỏa khắp
vùng Đông Nam Á hải đảo, xâm nhập vào một số quốc gia ở khu vực Đông Nam
Á lục địa, thì với vị trí là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, Islam ở
Đông Nam Á có nhiều điểm chung nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt ở mỗi
nước. Sự có mặt của Islam ở khu vực này tương đối sớm và được thâm nhập
mạnh mẽ vào khu vực trong thế kỷ XIII, thông qua mối ban giao tiếp xúc văn hóa
giữa các Muslim A Rập, Ấn Độ, Ba Tư…. và cư dân bản địa, điều này không
giống như trường hợp trong khi Hồi giáo khi đến vùng Trung Cận Đông và Ấn
Độ bằng những cuộc chiến tranh thần thánh, thì khi đến với Đông Nam Á lại
bằng con đường hòa bình, không phải qua những nhà truyền đạo, mà thông qua

thương mại và các thương gia Hồi giáo, nên dễ dàng được tiếp nhận và ngày
càng có những ảnh hưởng sâu rộng đặc biệt là các quốc gia hải đảo. So với Ấn
Độ giáo đã tồn tại lâu đời ở Đông Nam Á, thì trên một phương diện nào đó Islam
giáo lại có tính dân chủ hơn hẳn, vì nó không gò bó bởi tính chất giai cấp nặng
nề, đáp ứng được khát vọng của nhân dân về sự công bằng, bình đẳng trong cuộc
sống, trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, ở mức độ nhất định.
2.3. Đặc điểm của quá trình du nhập Islam giáo vào khu vực Đông Nam
Á
2.3.1. Islam du nhập vào Đông Nam Á chủ yếu theo đường biển dưới
hình thức giao lưu, buôn bán
Xét về vị trí địa lí và lịch sử thì Đông Nam Á là khu vực nằm giữa hai nền
văn minh lớn của thế giới cổ trung đại. Đó là Trung Quốc ở phía Bắc và Ấn Độ ở
phía Tây. Đông Nam Á lại là khu vực địa lí khá đặc biệt, vừa nằm trên lục địa
vừa nằm trên hải đảo và hầu như tất cả các quốc gia trong khu vực đều có biển và
các cảng biển. Do điều kiện tự nhiên thuận lợi và sản vật phong phú, từ xa xưa,
rất lâu trước khi Islam đến, cư dân Đông Nam Á đã có quan hệ buôn bán giao
thương với các thương nhân nước ngoài đến từ Trung Quốc, Ba Tư, Ấn Độ, Ai
Cập, Hi Lạp... Những quan hệ buôn bán này chủ yếu diễn ra bằng đường biển.
Các thương nhân, thương thuyền đến và đi qua các cảng ở Đông Nam Á không
phải chỉ để trao đổi các mặt hàng gốm sứ, vàng bạc, tơ lụa của Trung Quốc, Ấn
Độ mà còn để mua các sản vật nhiệt đới địa phương Đông Nam Á. Trong Sử thi
Ramayana của Ấn Độ đã nói về các địa danh của Đông Nam Á như: Yavadripa
(hòn đảo vàng bạc) và tập Vayu Purana cũng nói đến, nhưng đánh vần là
Yamadvipa, mà theo các nhà nghiên cứu thì Yamadvipa tức là Sumatra hoặc là
tên địa phương dùng để chỉ chung Java và Sumatra. Dưới ánh sáng của những lời
12


tường thuật ban đầu phong phú hơn nhiều của Trung Quốc về Đông Nam Á thì
dường như những diễn biến sớm nhất trong thương mại Ấn Độ và Đông Nam Á

là với Sumatra, các cảng Đông Nam của đảo này cũng đã đi tiên phong trong
việc mở các chuyến công du thương mại trực tiếp sớm nhất sang Trung Quốc qua
biển Đông.
Từ những thế kỉ đầu công nguyên đến thế kỉ XI, XII cùng với sự xuất hiện
của hàng loạt tiểu quốc ở Đông Nam Á trên cơ sở nền văn hoá bản địa kết hợp
với những yếu tố văn minh bên ngoài như Trung Quốc và Ấn Độ, thì quan hệ
thông thương buôn bán của Đông Nam Á với bên ngoài ngày càng phát đạt, số
lượng tàu buôn nước ngoài đến Đông Nam Á ngày càng nhiều hơn. Giai đoạn
này các cảng thị ở Đông Nam Á trở thành các trung tâm giao lưu buôn bán quan
trọng trên hành trình buôn bán Đông Tây. Giai đoạn này cũng có sự góp mặt của
các thương nhân Islam ở Đông Nam Á.
Theo nhiều nguồn tài liệu cho biết thì thương nhân Islam A Rập có mặt ở
Đông Nam Á từ rất sớm (thế kỉ VII - VIII). Tuy nhiên cho đến thế kỉ IX thì quan
hệ buôn bán của họ đối với khu vực này vẫn chưa phát triển. Đối với người A
Rập, trong thời gian này Đông Nam Á chỉ được xem là “trạm nghỉ chân” trên
con đường giao thương hàng hải từ Ấn Độ sang Trung Quốc. Các nguồn tài liệu
A Rập có nhắc tới các bờ biển thuộc Tây Bắc và Đông Sumatra, đảo Riaulinga và
Pulau Tioman, nhưng không có tài liệu về sự buôn bán có tổ chức của người
Arập ở khu vực này cho đến giữa thế kỉ. Có nguồn sử liệu đã cho rằng: “Chứng
cứ đầu tiên được thừa nhận về hoạt động Islam ở đây chỉ là báo cáo của Marco
Polo năm 1292 có đề cập đến thành phố Perlak ở miền Bắc Sumatra đã theo
Islam”.
Sang thế kỉ XIII, thương mại của người Muslim A Rập ở Đông Nam Á gần
như đã bị thay thế bởi thương mại của người Muslim Ấn Độ. Đây là thời kì mà
đa số các nhà nghiên cứu đánh giá Islam đã thực sự xâm nhập vào quần đảo
Malaysia - Indonesia và vai trò truyền bá Islam vào Đông Nam Á cũng đa số do
người Ấn Độ thực hiện. Sở dĩ như vậy vì, sau khi triều đại Abbasid ở Batđa (Irac)
bị người Mông Cổ tấn công và lật đổ năm 1258 thì con đường buôn bán hương
liệu từ phương Đông qua vịnh Ba Tư đến bờ biển Levantine rồi lên Bắc Âu đã
thực sự bị đóng cửa. Từ đó xuất hiện con đường buôn bán mới từ phía Đông đến

Ấn Độ, sau đó đến Aden ở miền Nam Arabia, qua Hồng Hải đến Alexandria và
tiếp tục đi lên phía Bắc. Trong khi đó, nhà vua Ai Cập lúc bấy giờ chỉ cho phép
tàu bè của người Islam qua cảng Alexandria nên các cảng Islam Cambay, Surat
và Diu ở Gujerat (Ấn Độ) đã trở nên náo nhiệt và trở thành các trung tâm vận
chuyển hương liệu quan trọng. Hơn nữa đây cũng là thời kì Châu Âu phục hưng
13


đang thịnh vượng. Cho nên nhu cầu về hương liệu của Phương Đông ngày càng
tăng lên. Điều đó khiến các thương gia Gujerat (Ấn Độ) giành được vị trí nổi bật
trên thị trường hương liệu. Với số lượng các thương gia Gujerat ở Malacca - một
thị trấn lớn ở quần đảo Malaya - Indonesia đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
phái đoàn truyền bá Islam tại đây và các nơi khác trong khu vực. Theo các nhà
nghiên cứu thì các thương gia Islam đã tới Indonesia và Malaysia buôn bán, định
cư và kết hôn với các phụ nữ địa phương đặc biệt là con em các gia đình quí tộc.
Tuy nhiên, không chỉ có các thương nhân Islam Ấn Độ ở Gujerat mà còn có các
thương gia Islam Ấn Độ khác từ Malabar và bờ biển Coromandel ở phía Nam,
hay từ Bengal thuộc Đông Ấn Độ... Ở các thời điểm khác nhau cũng đã góp phần
truyền bá Islam cho các cư dân Đông Nam Á hải đảo.
Trong khi đó, tuy rằng số lượng cũng như vai trò của người Islam Trung
Quốc, Ba Tư, Ai Cập không thể nào sánh được với người A Rập và Ấn Độ trong
quá trình truyền bá Islam vào khu vực Đông Nam Á, nhưng cũng cần phải thừa
nhận họ cũng có những đóng góp nhất định trong quá trình du nhập Islam vào
khu vực này thông qua đường biển. Bởi vì cùng với người A Rập, Ấn Độ thì
người Ba Tư và người Trung Quốc từ lâu cũng là những thương nhân hàng hải
rất nổi tiếng. Từ sớm họ đã tham gia vào con đường giao thương trên biển Đông Tây. Hơn nữa, người Ba Tư đã chịu ảnh hưởng của Islam. Với cơ tầng là nền văn
minh ra đời trước văn minh Islam, tuy nhiên đến thời kì Đế quốc A Rập Islam
lớn mạnh, làm chủ Trung Cận Đông thì người Ba Tư cũng bị sự hấp dẫn của
Islam thu phục. Tuy nhiên, các cuộc chinh phục của người Mông Cổ đã tách rời
nước Ba Tư ra khỏi thế giới Islam Trung Đông, đã tạo điều kiện cho việc hình

thành một nuớc Ba Tư hùng mạnh có biên giới hoạch định rõ ràng. Đặc biệt là
dưới triều đại Islam Xaphavit (1499 - 1722) đế quốc Ba Tư phát triển hưng thịnh.
Cùng với đó là quá trình giao thương hàng hải phát triển đến tận Ấn Độ Dương
và Đông Nam Á.
Người Trung Quốc cũng đã sớm tiếp xúc với văn minh Islam (vào thế kỉ
VIII, IX). Thông qua con đường “tơ lụa” ở phía Tây Bắc các thương nhân Islam
đã đến Trung Quốc. Ở Phía Nam, các cảng biển ở Quảng Châu, Dương Châu...
chính là đích đến của các thương nhân Islam trên hành trình dài từ Tây sang
Đông.
Qua đó để chúng ta thấy rằng, con đường du nhập Islam vào Đông Nam Á
chủ yếu thông qua đường biển dưới hình thức giao lưu trao đổi buôn bán của các
thương nhân. Nơi tiếp nhận Islam đầu tiên ở Đông Nam Á là các nước hải đảo:
Indonesia sau đó đến Malaysia và từ các trung tâm này Islam tiếp tục lan toả đến
các quốc gia khác ở hải đảo như Philippin, Brunei, Singapore và các quốc gia
14


trên lục địa như Việt Nam, Campuchia, Thái Lan. Riêng Mianmar là quốc gia ở
Đông Nam Á chịu ảnh hưởng trực tiếp của Islam ở Bengal (Ấn Độ). Trong giai
đoạn đầu, Islam cũng chủ yếu du nhập vào Mianma bằng đường biển - các
thương nhân Islam Bengal đã tới vùng bờ biển phía Tây của Mianma để buôn
bán và Islam đã ảnh hưởng tự nhiên tới cư dân bản địa.
Rõ ràng đây là đặc điểm khác của quá trình du nhập Islam vào Đông Nam
Á so với quá trình du nhập Islam vào các khu vực khác trên thế giới. Islam qua
quá trình lan toả của mình đến các khu vực trên thế giới hầu hết bằng đường bộ,
do những khu vực này có địa lý ít bị chia cắt bởi rừng núi và Đại Dương như ở
Đông Nam Á. Điều này thuận lợi cho các đoàn quân chinh phục Islam xâm lược.
Ví như trường hợp của Ấn Độ và Trung Quốc xa xôi, tuy rằng con đường giao
thương buôn bán, du nhập Islam bằng đường biển cũng khá phổ biến nhưng
đường bộ mới là con đường du nhập chủ yếu của Islam vào các khu vực này.

Vùng Tây Ấn Độ ngày nay thuộc bang Penjab hay vùng lưu vực sông Hằng đã bị
các vua Islam trị vì ở Afghanistan như Mahmud, vua nước Ghazna, Muhammad,
vua nước Ghur đến chiếm đóng từ thế kỉ XII lập ra vương quốc Delhi. Vương
quốc Islam này giành được độc lập vào năm 1206 và tồn tai mãi đến năm 1526
dưới năm triều đại khác nhau. Nhưng chỉ từ năm 1526 khi Bubur - con cháu dòng
dõi Thành Cát Tư Hãn (Mông Cổ) chiếm được tiểu vương quốc Delhi rồi mở
mang thành một đế quốc rộng lớn thì Islam mới thực sự phát triển trên đất Ấn Độ
dưới một triều đại huy hoàng - Triều đại Môgôn tồn tại cho đến năm 1858, khi
người Anh tới chiếm Ấn Độ thành lập thuộc địa.
Còn Islam “Truyền vào Trung Quốc đã có lịch sử 3000 năm”. Vào thời kì
nhà Đường, giao thông buôn bán trên biển cũng như trên đất liền đã khá phát đạt.
Các Muslim A Rập, Ba Tư và Trung Á theo con đường tơ lụa cổ xưa trên bộ dọc
từ Nam ra Bắc Thiên Sơn, hành lang Hà Tây đến kinh đô Tràng An. Ở trên biển,
họ căng buồm vạn dặm xuất phát từ vịnh Ba Tư và biển A Rập, qua Belgan, qua
eo biển Malaysia tới Quảng Châu, Dương Châu… của Trung Quốc. Tuy thế,
nhưng tuyến đường bộ mới là tuyến đường chính để Islam truyền vào Trung
Quốc, đặc biệt là thời kì Mông Cổ tấn công vào Trung Quốc xâm lược Trung
Quốc nên lập ra triều Nguyên, đã đem Islam tiếp thu truyền vào Trung Quốc tạo
nên những cộng đồng Muslim lớn ở Trung Quốc.
2.3.2. Islam du nhập vào Đông Nam Á bằng phương thức hoà bình
Sự ra đời xác lập và phát triển của Islam được gắn bằng máu và nước mắt,
gắn liền với các cuộc chiến tranh và xung đột tôn giáo cũng như chính trị đẫm
máu. Đây là một đặc trưng cơ bản của Islam mà hầu như tất cả các nhà nghiên
cứu chính trị, lịch sử, tôn giáo... trên thế giới đều phải thừa nhận. Islam nảy sinh
15


trên một vùng đất khô cằn nằm giữa hai trung tâm văn hoá chính trị thời bấy giờ
trong vùng là đế quốc Cơ Đốc giáo Byzantine ở phía Tây và đế quốc Ba Tư thuộc
triều đại Xatxanit ở phía Đông, bên cạnh đó có bán đảo A Rập lại là xứ sở đa

thần giáo. Bởi vậy, ngay từ khi mới ra đời Islam đã là cơ sở để tập hợp các bộ lạc
trên bán đảo A Rập chống lại sự tấn công của hai đế quốc lớn trên và các tôn giáo
khác. Trong kinh Koran của người Islam nhiệm vụ “thánh chiến” là điều bắt
buộc mọi tín đồ phải tuân theo và coi như nghĩa vụ thiêng liêng là phải chiến đấu
để bảo vệ tôn giáo hay tấn công để dẫn dắt mọi người tiến lên trên đường phục
tùng Thượng Đế. Các cuộc thánh chiến đầu tiên xảy ra khi đấng Tiên tri
Mohammad lãnh đạo giáo dân chống lại các cuộc tấn công và bao vây của
Mecca. Về sau khi đế quốc A Rập Islam ra đời đã tiến hành hàng loạt các cuộc
chinh phục để cướp bóc của cải để mở rộng lãnh thổ của mình. Islam cùng với
quá trình đó đã làm chủ toàn bộ bán đảo A Rập, lan rộng sang Bắc Phi, Trung Á,
Nam Âu, Trung Âu,... Trong khi đó ở phương Đông xa xôi, Islam đã xâm nhập
tới tận Trung Quốc, Ấn Độ thông qua các cuộc tấn công xâm lấn của các bộ lạc
du mục theo Islam (Người Trung Quốc gọi họ là người Hồi Hột). Đặc biệt với
việc xác lập sự thống trị của triều Nguyên và vương triều Islam Delhi, sau đó là
vương triều Môgôn thì Islam lại càng xâm nhập mạnh mẽ hơn vào xã hội và văn
hoá của hai nền văn minh lớn của thế giới này. Đặc trưng này đã tạo nên bản chất
“hiếu chiến” của Islam so với các tôn giáo lớn khác trên thế giới.
Tuy nhiên đặc trưng đó lại không được phản ánh rõ nét trong quá trình du
nhập Islam vào Đông Nam Á. Điều đặc biệt của quá trình Islam lan tỏa đến khu
vực Đông Nam Á xa xôi, khác với tất cả các khu vực khác trên thế giới là Islam
đến Đông Nam Á bằng phương thức hoà bình: “Điều rõ ràng là khi Islam đến
Đông Nam Á, đã không có chiến tranh tôn giáo xảy ra, trừ một vài cuộc đụng độ
nhỏ không đáng kể ở Philippines”. Điều này đã được lý giải như sau:
Thứ nhất, chúng ta có thể suy ra từ đặc điểm đầu tiên. Do Islam được
truyền vào Đông Nam Á thông qua con đường thương mại hàng hải, Islam do các
thương nhân vượt hàng vạn hải lí đường biển mang đến. Bởi vậy, những giáo lí,
giáo luật khắt khe của tôn giáo nguyên thuỷ đã bị sóng nước lênh đênh “nhào
nặn” làm cho “mềm mại” hẳn đi. Hơn nữa, người mang Islam đến Đông Nam Á
lúc này là với cương vị người đến giao thương để cùng có lợi chứ không phải
mang tư thế của người vừa giành thắng lợi trên chiến trường để áp đặt tôn giáo.

Mặt khác, trên thực tế Islam đến Đông Nam Á khi mà đế quốc Islam ở Trung
Đông đã suy yếu, không còn đủ khả năng cũng như sức mạnh để các đoàn quân
Islam vượt trùng khơi đem lưỡi gươm đến áp đặt tôn giáo ở khu vực này.

16


Trong khi đó, xét về mặt bản chất Islam vào thời điểm này tiến bộ hơn so
với các tôn giáo khác cùng thời. Khi đến Đông Nam Á, Islam được xem là một
tôn giáo đơn giản, bình đẳng của dân chúng đối lập với Ấn Độ giáo - là tôn giáo
của vua chúa và hệ thống đẳng cấp khắt khe, cũng như Phật giáo là tôn giáo
không phù hợp với nền văn hoá ngoại thương. Mặt khác, Islam lại dễ thích ứng
với các tín ngưỡng, tôn giáo của địa phương. Khi du nhập vào Đông Nam Á nó
“có xu hướng tha thứ các tập quán và tín ngưỡng không hợp lệ với luật tục khắt
khe của Islam chính thống”. Do đó, Islam làm cho các cư dân Đông Nam Á thấy
dễ gần gũi, dễ tiếp xúc, có lợi cho mình nên đã dần chấp nhận và tự nguyện đi
theo. Các vương triều phong kiến thì không cảm thấy lo sợ mất quyền lợi, địa vị
khi tiếp thu tôn giáo này. Vì thế, trong quá trình Islam hoá đã không có một cuộc
chiến tranh tôn giáo nào xảy ra. Thực tế lịch sử đã chứng minh điều đó.
Thực vậy, không hề có một thế lực bên ngoài nào vào xâm chiếm các nước
trong khu vực Đông Nam Á để cưỡng ép cư dân địa phương cải giáo theo Islam.
Mà Islam đã theo chân các thương nhân A Rập, Ấn Độ, Ba Tư, Trung Quốc đến
các cảng biển ở khu vực Đông Nam Á để buôn bán và theo tập quán sinh hoạt
tôn giáo của mình, họ đã truyền bá Islam cho các cư dân địa phương. Đầu tiên
theo các nhà nghiên cứu thì “Các thương gia Islam đã đến Indonesia và
Malaysia buôn bán, định cư và kết hôn với các phụ nữ địa phương, đặc biệt là
con em các gia đình quý tộc. Giới quý tộc người bản địa từ lâu đã ngưỡng mộ và
thèm khát sự giàu có của phương Tây do đó đã sẵn sàng mở cửa chào đón và kết
thân với các thương gia Islam và tiếp nhận tôn giáo của họ”. Trong khi đó, lúc
này các triều đình phong kiến bản địa như Srivijaya, sau đó là Majapahit chưa

quan tâm lắm đến vai trò và ảnh hưởng của Islam. Cho nên quá trình trao đổi,
buôn bán và truyền giáo của các thương nhân ngoại quốc diễn ra ở các tiểu quốc
ven biển hết sức thuận lợi vì không có sự can thiệp của các đế chế trên. Từ đó,
các tiểu quốc thuộc Indonesia ngày nay đã dần hình thành các cộng đồng Islam
lớn mạnh. Từ đây các Sultanate được thành lập vừa để bảo vệ công việc buôn
bán vừa để phát triển tôn giáo ra các vùng xung quanh và vào sâu trong đất liền.
Cứ như vậy, các Sultanate lớn mạnh dần lên tiến đến áp chế các vương triều
trước đây khống chế họ. Kết quả là từ thế kỷ XIII - XIV, một số khu vực trên đất
Indonesia ngày nay mà tiêu biểu là Pasai đã trở thành tiểu quốc Islam. Pasai
chính là “Trung tâm truyền bá tôn giáo quan trọng đầu tiên của tôn giáo mới ở
Đông Nam Á”. Trong khi đó Malaysia được cải giáo muộn hơn, vào thế kỷ XV.
Việc truyền giáo vào Malaysia cũng không thấy có dấu hiệu của bạo lực, chiến
tranh mà tương đối hoà bình, nhưng lại khá rầm rộ. Như đã trình bày ở trên về
quá trình du nhập Islam vào Malaysia, theo “Truyện sử Malayu” (Sejrah
Malayu), nhà lãnh đạo của bang Malacca là M. Iskander Shah (1414 - 1424) là
17


người đầu tiên truyền bá và mở rộng phạm vi Islam trên toàn bộ bán đảo
Malacca. Từ đây, Malacca không những là một trung tâm buôn bán quan trọng
mà còn là một trung tâm truyền giáo lớn nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Các
tiểu quốc khác coi Malacca là tấm gương, là chỗ dựa về kinh tế, chính trị, quân
sự và tinh thần của họ. Mới đầu các tiểu quốc miền duyên hải phía bắc Đemak,
Tuban, Madina, Surabaja... đi vào quỹ đạo buôn bán với Malacca, rồi dần dần bị
lệ thuộc về tinh thần và trở thành các tiểu quốc Islam. Qua mối quan hệ ngày
càng chặt chẽ giữa Malacca và các cảng phía Bắc Java, Islam đã đến khu vực
này. Cũng bằng con đường doanh thương Islam từ Malacca đã đến Terengganu,
Pattani, Kelantan, Siak, Kalimatan. Các Sultan của Malacca thấy rõ Islam là vũ
khí sắc bén, giúp họ tạo dựng một cộng đồng Islam lớn để thực hiện ý đồ bành
trướng lãnh thổ và truyền bá văn hoá của mình, đã tuyên bố sẵn sàng giúp đỡ các

tiểu quốc đấu tranh thoát khỏi quyền lực của vương quốc Phật giáo - Ấn Độ giáo
Majapahit để giành độc lập với điều kiện các tiểu quốc đó phải quy theo Islam.
Hơn nữa, tước hiệu Sultan của Islam và sự thành công của Melacca chính là cơ
sở lôi cuốn giới quý tộc của các tiểu quốc khác cải giáo, tạo cơ hội cho Islam
phát triển mạnh mẽ. Từ đây Islam đã không chỉ mau chóng lan tỏa đến hầu hết
các bang của Malaysia ngày nay mà còn lan rộng sang cả các quốc gia trong khu
vực từ hải đảo đến lục địa.
Khi nghiên cứu về quá trình du nhập Islam vào Philippines, tuy rằng còn có
những yếu tố truyền thuyết mơ hồ do thiếu cơ sở tài liệu đáng tin cậy, nhưng các
nhà nghiên cứu cũng không hề thấy các cuộc xung đột tôn giáo lớn nào xảy ra.
Mà dựa vào Salsila (sự tích các phả hệ) của đảo Sulu thì một người Islam A Rập
tên là Sarij Auliya Makhdum nào đó đã đến truyền bá Islam ở Sulu vào khoảng
năm 1380. Ông ta cũng chính là người đã từng cải giáo cho vua Malacca - Sultan
Muhammad Shah trước đó. Hay như một Raah Baguinda nào đó đã từ Menang
Kabau, Borneo đến Sulu, rồi Abu Bakar cũng đã đến đây và cưới con gái của
Raah Baguinda làm vợ và trở thành người kế vị vị vua này trên quần đảo. Abu
Bakar được ghi nhận là có công đầu đưa Islam đến Sulu và cũng đóng góp lớn
trong việc bảo vệ và phát triển Islam trong tiểu quốc của mình. Trong khi đó ở
Mindanao thì cũng theo Salsila địa phương, một Sharij Kabung Suan nào đó đã
đến và thành lập tiểu quốc Islam ở đây (Sultanate Maguendanao) giống như tiểu
quốc của Abu Bakar ở Sulu. Điều đó cho thấy Islam được truyền bá đến
Philippines là do công lao của cá nhân chứ không phải do một đội quân hùng hậu
mang đến. Những cá nhân tín đồ Islam ấy đã dần chiếm được địa vị trong xã hội
để rồi cư dân bản địa tự nguyện tin theo họ, tin theo tôn giáo mới mà không hề có
sự áp đặt bằng sức mạnh vũ lực đối với người bản xứ.

18


Ở Đông Nam Á lục địa, các cộng đồng Islam cũng được thiết lập ở

Mianma, Thái Lan, Việt Nam, Campuchia. Tuy nhiên các cộng đồng Islam ở khu
vực này chỉ là những cộng đồng dân cư thiểu số, không phát triển mạnh mẽ như
ở các nước Đông Nam Á hải đảo. Bởi vì khi tới đây Islam đã vấp phải một lực
cản lớn từ Phật giáo và nền văn hoá Phật giáo - Ấn Độ giáo. Tuy nhiên, điều đó
không có nghĩa là khi Islam đến đây đã nảy sinh các cuộc chiến tranh tôn giáo
giữa Islam với Phật giáo và Ấn Độ giáo hay các cuộc xung đột kiểu như vậy.
Thực tế lịch sử cho thấy, bốn tỉnh Islam phía Nam Thái Lan là Pattani,
Narathivat, Yala và Satun chính là kết quả của qúa trình lịch sử khi người Thái
tiến xuống phía Nam và thành công trong việc thôn tính các tiểu quốc của người
Malaysia. Vì vậy quá trình Islam hoá khu vực này gắn liền với quá trình Islam
hoá của Malaysia và Indonesia. Có nghĩa là quá trình đó đã bắt đầu từ nhiều thế
kỷ trước. Vào thế kỷ XIV, vương quốc Pattani đã tiếp nhận Islam do các thương
nhân Islam đang cư trú ở Sumatra và Melacca truyền đến. Điều này phù hợp với
điều kiện cũng như bối cảnh chung của quá trình du nhập Islam vào khu vực.
Cần phải nói thêm rằng, đây chính là giới hạn cuối cùng của Islam truyền vào lục
địa Đông Nam Á bởi vì lúc này nó đã vấp phải lực cản của Phật giáo - tôn giáo
đã thấm sâu rộng vào trong lòng xã hội, văn hóa của người Thái. Do đó nó không
thể tiếp tục tiến lên được nữa.
Ở Việt Nam, người Chăm là cộng đồng theo Islam và do điều kiện lịch sử
đã hình thành hai cộng đồng Islam khác nhau Chăm Bàni (Islam cũ) và Chăm
Islam (Islam mới). Qua phần trình bày khái quát ở trên, chúng ta thấy rõ việc
hình thành nên các cộng đồng Islam này là do các biến cố lịch sử, người Chăm
lưu tán sang các nước xung quanh đặc biệt là do tiếp xúc với người Malaysia
theo Islam nên đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của họ và quyết định cải giáo, bỏ đạo
Balamôn theo Islam, sau đó trở về tiếp tục truyền giáo cho đồng bào mình khiến
cho Islam xâm nhập khá sâu sắc vào xã hội của người Chăm.
Trong khi đó ở Mianma, tuy rằng khác với các nước Đông Nam Á còn lại ở
lục địa, Islam du nhập vào từ Indonesia và Malaysia thì Islam truyền vào
Mianma từ Ấn Độ. Nhưng rõ ràng đó cũng là quá trình lan toả tự nhiên bởi vì các
khu vực Tây Bắc của Mianma vốn có quan hệ giao lưu buôn bán lâu đời với khu

vực Belgan (Đông Ấn Độ). Do đó các thương nhân Islam Ấn Độ đến Mianma
sinh sống làm ăn tiếp xúc với cư dân địa phương, lâu dần đã truyền bá tôn giáo
của mình cho họ, tạo nên các cộng đồng Islam ở đây. Hay trong thời kỳ Mianma
bị thực dân Anh xâm lược, sau đó sáp nhập vào Ấn Độ thì đã xuất hiện một làn
sóng di cư tị nạn của người Islam Ấn Độ sang Mianma, làm cho cộng đồng Islam
ở nước này đông thêm.
19


Như vậy thì rõ ràng cũng giống như đối với khu vực hải đảo, ở các nước
Đông Nam Á lục địa, Islam xâm nhập vào cũng chính là do tiếp xúc lịch sử giữa
các cư dân và các nền văn hoá địa phương hoặc ngoại lai theo Islam. Sự tiếp xúc
này hoàn toàn là tự nhiên và mang tính chất hoà bình. Nếu nói rằng Islam xâm
nhập vào Đông Nam Á lục địa là hoàn toàn thuận lợi là không đúng bởi vì nó đã
phải chịu sự ngăn cản rất lớn của nền văn hoá Phật giáo, Ấn giáo có lịch sử tồn
tại lâu bền và sâu đậm trong các nền văn hoá bản địa. Bên cạnh đó còn có một lý
giải hết sức thú vị đó là, Islam là tôn giáo của các thương gia, hệ thống giáo lý và
thực hành nghi lễ của nó đơn giản hơn nhiều so với Phật giáo và Ấn giáo. Bởi
vậy, nó chỉ thích hợp nhất đối với các nền văn hoá mà hoạt động kinh tế thiên về
thương nghiệp, buôn bán. Mà so với Đông Nam Á lục địa thì Đông Nam Á hải
đảo chính là nơi mà các hoạt động kinh tế thương nghiệp diễn ra hết sức sôi
động. Cư dân Đông Nam Á hải đảo là những người rất thành thạo về đi biển, về
gió mùa... Từ lâu ở Đông Nam Á hải đảo đã hình thành lên các cảng thị buôn bán
sầm uất, tập trung rất nhiều hàng hoá của các trung tâm văn minh trên thế giới
như Trung Quốc, Ai Cập, Ấn Độ... còn ở Đông Nam Á lục địa, hoạt động kinh tế
chủ yếu là canh tác nông nghiệp (trồng lúa nước), ngoại thương cũng có nhưng
chỉ nhỏ giọt ở một số vùng ven biển mà thôi. Bởi vậy thực tế là Islam chỉ xâm
nhập và tồn tại được ở các khu vực ven biển mà không thể đi sâu hơn nữa vào lục
địa Đông Nam Á. Tuy thế cũng có thể thấy rõ rằng, mặc dù có sự đối kháng lẫn
nhau giữa Islam với Phật giáo và Ấn giáo nhưng sự đối kháng ấy chưa đến mức

xảy ra những cuộc xung đột vũ trang lớn.
2.3.3. Islam du nhập vào Đông Nam Á đã có sự pha trộn giữa Islam
chính thống với các cơ tầng văn hoá có nguồn gốc Ấn Độ, Ba Tư, Trung
Quốc và những yếu tố tín ngưỡng tiền Islam ở địa phương
Thứ nhất, nói về nguồn gốc Islam Đông Nam Á. Như đã trình bày ở trên,
nguồn gốc Islam rất đa dạng và phức tạp, không những từ A Rập mà còn cả Ba
Tư, Ấn Độ, Trung Quốc... bởi vậy lẽ đương nhiên là khi Islam được đưa đến Ba
Tư, Ấn Độ, Trung Quốc... thì nó đã không còn giữ nguyên được tất cả màu sắc,
bản chất tôn giáo ban đầu nữa mà phần nào cũng đã bị bản địa hoá ngay trên
những vùng đất này. Và khi Islam đến Đông Nam Á từ các vùng đất khác nhau
đó, nó cũng mang theo những nét cải biến, đặc thù của các nền văn hoá ấy.
Thứ hai, đến lượt mình, nền văn hoá bản địa Đông Nam Á vốn có đặc trưng
là được hình thành dựa trên sự tiếp thu chọn lọc các yếu tố văn hoá ngoại lai trên
cơ sở gìn giữ và duy trì những nét văn hoá đặc sắc của khu vực. Đặc biệt là trong
lĩnh vực tôn giáo “bất kì tôn giáo nào, khi tới Đông Nam Á đều tự tước bỏ đi
những giáo lí và thực hành cứng nhắc, hoà vào các tín ngưỡng tôn giáo truyền
20


thống và do vậy tự biến đổi để được chấp thuận và tồn tại”. Trước khi Islam đến
Đông Nam Á thì Phật giáo và Ấn Độ giáo đều có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với
nền văn hoá xã hội Đông Nam Á và trở thành một phần quan trọng của văn hoá
Đông Nam Á, mang màu sắc riêng của văn hoá Đông Nam Á. Islam đến đây
cũng đã phải chịu chung số phận như vậy. Nhưng Islam còn làm được nhiều điều
hơn các tôn giáo trước đó, đặc biệt ở các nước thuộc khu vực hải đảo, khi mà nó
đã giành thắng lợi để trở thành tôn giáo thống trị khu vực này. Điều này có được
là do ưu thế tự thân của Islam - một tôn giáo ra đời sau, tiếp thu nhiều yếu tố tiến
bộ, không có sự phân biệt đẳng cấp - địa vị xã hội. Hơn nữa, ban đầu Islam đến
Đông Nam Á là dòng Islam Sufism - mang nhiều nét thần bí, phù hợp với tín
ngưỡng “vạn vật hữu linh” của người dân Đông Nam Á, mặt khác Islam Sufism

lại có xu hướng “tha thứ các tập quán và những tín ngưỡng không phù hợp với
luật tục khắt khe của Islam chính thống”. Biểu hiện cho thấy sự pha trộn kể trên
chính là sự du nhập và tiếp thu của chủ nghĩa thần bí Islam - Islam Sufism.
Các Sufism không chỉ tuân phục ý chí và luật lệ của Thượng Đế “ở bề
ngoài” như các tín đồ bình thường mà họ còn làm cao hơn thế nữa. Họ cố gắng
để tiếp xúc với thượng đế một cách gần gũi hơn và nhắm tới việc hợp nhất bản
thân mình với sự tồn tại của thượng đế. Họ làm điều đó bằng những bí pháp và
những phép thuật. Và xung quanh việc tìm kiếm những bí thuật Sufism đã hình
thành nên rất nhiều các tập tục thờ phụng với những vẻ đẹp lạ thường, những bậc
thầy tâm linh, những câu chuyện ngụ ngôn và thông thái, sự thông linh, những
trường phái thiền định và những bí thuật để xuất hồn hay tham thiền nhập định
qua múa hát và đọc thần chú.
Nhiều học giả cho rằng, Islam khi đến Ấn Độ đã tiếp thu chủ nghĩa thần bí
của phương Đông. Một phần vì thế mà Islam đã dễ dàng thâm nhập vào các cư
dân đã sống trong ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ. Do vậy, những người dân
Đông Nam Á bản địa đã tương đối dễ dàng trong việc tiếp thu Islam và đây cũng
là xứ sở hiếm hoi mà Islam không phải dùng đến “bạo lực” để loại trừ những tôn
giáo đã được thiết lập ở đây trước đó. Ngược lại với kinh nghiệm song song tồn
tại với các tôn giáo khác ở Ấn Độ, Islam lại tiếp tục “uốn mình biến đổi” theo
các phong tục truyền thống của địa phương. Tuy thế có một thực tế là Islam
không chỉ đến Ấn Độ và Đông Nam Á thì nó mới tiếp nhận các yếu tố thần bí
phương Đông mà các yếu tố này vốn đã có trong truyền thống văn hoá của các cư
dân vùng bán đảo A Rập, nơi phát sinh của Islam và chúng đã đi vào các tập tục
Islam một cách tự nhiên. Các vị vua xem việc làm chủ các kiến thức (các giáo lí
Islam) và vận dụng chúng vào cuộc sống để làm lợi cho các thần dân là nghĩa vụ
thiêng liêng của mình. Để thực hiện được điều đó chỉ có quyền lực về chính trị,
kinh tế, quân sự và pháp lí thì chưa đủ mà họ còn cần phải có một sức mạnh thần
21



bí siêu nhiên để các thần dân sùng bái và tin tưởng. Vì vậy, một trong những giáo
lí thần bí thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các vị vua ở Đông Nam Á hải đảo
trong thời kì đầu của quá trình Islam hoá là học thuyết về “con người hoàn hảo”.
Khái niệm về con người hoàn hảo, hay con người thần thánh xuất hiện dần trong
các ghi chép ở Đông Nam Á từ thế kỉ XV. Trong biên niên sử của tiểu quốc Islam
Pasai - Hykayat Raja-raja Pasai kể rằng “một Sultan Hồi thế kỉ XIV của Pasai, một
trong những tiểu quốc đầu tiên theo Islam đã có ma thuật do cải theo Islam”.
Trong niên giám Malayu cũng tìm thấy hình ảnh những ông vua hoàn hảo, đó là
Sultan Mansur (1456 - 1477) một người rất am hiểu về chủ nghĩa thần bí và Sultan
Ahmad (lên ngôi năm 1511) có pháp thuật, hay như theo D.G.E Hall thì “sau khi
Melacca thất thủ và khi Acheh nắm quyền lãnh đạo thì hai nhân vật mặc khải thần
linh người Sumatra là Ham Zach ở Barus và Shmas Al-Din ở Pasai đã truyền bá
các học thuyết có tác động đến toàn bộ thế giới Mã Lai”.
Như những điều đã nói ở trên, thì chính những yếu tố thần bí trong Islam đã
được các cư dân Đông Nam Á tiếp nhận và góp phần đẩy nhanh quá trình cải
giáo ở khu vực này nhờ khả năng kết hợp lí tưởng Islam với những tín ngưỡng và
khái niệm tôn giáo địa phương. Nhưng vấn đề mà chúng ta cần thấy ở đây là chủ
nghĩa thần bí Sufism chính là thể hiện cho sự pha trộn giữa Islam chính thống với
các cơ tầng văn hoá Ấn Độ, Ba Tư và các yếu tố văn hoá bản địa Đông Nam Á
để mở đường cho Islam phát triển trên mảnh đất này. Các nhà truyền giáo Ấn Độ
và Ba Tư đã say sưa gieo các ý tưởng Islam và những đặc trưng của chủ nghĩa
thần bí, chủ nghĩa phiếm thần, mê tín dị đoan vào nền văn hoá bản địa đồng thời
họ cũng biến đổi và dung hoà các tư tưởng Islam với tập tục truyền thống địa
phương làm cho Islam không còn giữ nguyên được các nguyên tắc và tập tục
Islam chính thống mà trở thành cái gọi là “Islam dân gian”. Và trong khi đó
những người Islam A Rập tuy là những người đã đề ra các học thuyết chính
thống của Islam đến cho cư dân Đông Nam Á, nhưng điều đó cũng không có
nghĩa là họ không góp phần làm cho Islam Đông Nam Á mang tính chất “dân
gian”. Điều ngạc nhiên là hầu hết những người A Rập đến đây đều thờ cúng thần
linh. Họ thờ cúng những ngôi mộ của các thương gia A Rập, những người đã đi

khắp nơi từ làng này đến làng khác để buôn bán hoặc truyền bá Islam, mang theo
những hòn đá thiêng, bùa ngải trong tay để biểu diễn ma thuật và bói toán.
Có thể nói chính sự kết hợp, pha trộn ấy của Islam Đông Nam Á đã tạo nên
tính đặc thù của Islam Đông Nam Á so với Islam chính thống và các khu vực
khác trên thế giới về các sinh hoạt tôn giáo, thực hành nghi lễ hay các quan hệ xã
hội. Đây là vấn đề thú vị, cần có sự nghiên cứu sâu hơn.
2.3.4. Islam du nhập vào Đông Nam Á do có nhiều yếu tố thuận lợi
22


Hồi giáo kể từ khi xâm nhập cho đến khi trở thành tôn giáo thống trị ở một
số nước Đông Nam Á, thì đó là khoảng thời gian không dài. Vậy thì nguyên nhân
nào đã khiến Islam một tôn giáo độc thần có nguồn gốc từ vùng sa mạc Trung
Đông xa xôi, lại có thể bắn keo bám rễ một cách vững chắc vào những cư dân ở
đây, những người mà vốn dĩ đã có lịch sử gần hai nghìn năm theo tôn giáo đa
thần của người Ấn Độ lại phát triển nhanh chóng đến như vậy, chắc hẳn là khi
Hồi giáo đến với Đông Nam Á đã có những thuận lợi nhất định, như mảnh đất
màu mỡ cho sự phát triển của tôn giáo này, nhất là vùng Đông Nam Á hải đảo.
Thứ nhất, thời kì “Hồi giáo hóa” Đông Nam Á trùng hợp với thời kì khủng
hoảng của các vương quốc cổ đại như Chămpa lục địa. Vào cuối thế kỉ XV, quốc
gia Ấn Độ - Phật giáo Majapahit hùng mạnh trước kia đang bị suy thoái và tan rã.
Các tiểu quốc thuộc đế quốc này tách ra khỏi chính quyền trung ương, giành độc
lập về kinh tế,chính trị, kéo theo sự sụp đổ của hệ tư tưởng, tôn giáo cũ. Và lúc
này hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ giáo đã trở nên lỗi thời, không đáp ứng được
nhu cầu phát triển của chế độ xã hội với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa.
“Sự khủng hoảng của hệ tư tưởng Ấn Độ giáo tạo nên sự trống rỗng trong niềm
tin và một lỗ hổng để tôn giáo mới có thể len vào, và đó là Hồi giáo – tôn giáo
của các thương gia” với tư tưởng tự do, bình đẳng cho mọi tín đồ, bất kể là họ
thuộc tầng lớp xã hội nào, dân tộc nào hay thuộc quốc gia nào. Islam không chỉ
giải phóng cho các cư dân bản địa khỏi sự ràng buộc của các quan niệm về đẳng

cấp của Ấn Độ giáo, mà còn đưa họ đến một cộng đồng Islam quốc tế rộng lớn
hơn. Nếu như trước đây Islam ra đời góp phần thống nhất các bộ lạc trên bán đảo
A rập thành một đế quốc Hồi giáo vững mạnh, thì lúc bấy giờ Islam trở thành
ngọn cờ của các tiểu quốc trên quần đảo Indonexia đấu tranh giành độc lập, phát
triển kinh tế, chính trị và quân sự. Tấm gương tiêu biểu là vương quốc Hồi giáo
Malacca. Malacca trở thành một trung tâm buôn bán sầm uất từ một làng đánh cá
nghèo khó sau khi giành độc lập. Sau đó, Malacca không chỉ là trung tâm buôn
bán quốc tế quan trọng, mà còn là một trung tâm truyền giáo lớn nhất thời bấy
giờ. Các tiểu quốc khác coi Malacca là tấm gương, là chỗ dựa kinh tế và tinh
thần của họ. Các tiểu quốc miền duyên hải sau khi đi vào quỹ đạo buôn bán với
Malacca dần bị lệ thuộc về tinh thần và cuối cùng trở thành những quốc gia Hồi
giáo. Các tiểu quốc thấy rõ Islam là một vũ khí chính trị sắc bén, giúp tạo dựng
một cộng đồng Islam lớn để thực hiện ý đồ bành trướng lãnh thổ và truyền bá
văn hóa của mình.
Thứ hai, quá trình Hồi giáo hóa ở Đông Nam Á gắn liền với quá trình
chuyển hướng kinh tế của khu vực, nhất là khu vực hải đảo vốn là nơi các cư dân
thông thạo nghề đi biển và từng có mối quan hệ giao lưu buôn bán sớm nhưng
vẫn là nền kinh tế nông nghiệp tự cung - tự cấp. Từ một nền kinh tế tự cung, tự
23


cấp mà các tiểu quốc đã trở thành nơi cung cấp hàng hóa quan trọng, nhất là
hương liệu cho châu Âu, do vậy nó đã sẵn sàng mở cửa cho các thương gia Hồi
giáo ngoại quốc vào buôn bán và truyền giáo. Trong khi đó, nguyên tắc bình
đẳng, tính phóng khoáng, đơn giản trong lễ nghi của Islam vốn phù hợp với tầng
lớp thương nhân đã được giới quý tộc Indonexia và Malaisia tiếp đón. Hơn nữa,
khác với Trung Đông, Hồi giáo đến Đông Nam Á bằng con đường hòa bình,
thông qua các cuộc tiếp xúc cá nhân, các cuộc hôn phối của thương nhân Hồi
giáo đến định cư, với con gái các tầng lớp quý tộc đại phương. Con đường cải
giáo hòa bình và tự nhiên đó rất phù hợp với tâm lí của các cư dân đại phương

giúp họ dễ dàng hòa nhập, tiếp thu Islam giáo.
Thứ ba, chính tính bao dung, mềm dẻo và thích nghi của Islam đối với các
tín ngưỡng truyền thống địa phương đã khiến cho Islam giáo mau chóng chiếm
được ưu thế ở các nước Đông Nam Á. Lý do khiến Islam giáo mau chóng chiếm
được ưu thế ở khu vực Đông Nam Á, trước hết là ở những nước hải đảo, là do sự
đóng góp đắc lực của một một số tập tục, truyền thống địa phương lại góp phần
đắc lực đẩy nhanh quá trình Hồi giáo hóa. Ví như ở Indonexia, chế độ vương
quyền và lòng trung thành với nhà vua trên quần đảo Malaya đã khiến cho nhà
vua khi cải đạo theo Islam thì nhất loạt dân chúng cũng mau hướng cải đạo. Theo
như những ghi chép của Malayu thì nhà vua Malacca là Sultan Muhamad Shah
chính là người đầu tiên của tiểu quốc này theo Islam, sau đó “nhà vua đã lệnh
cho tất cả các quan chức và thần dân của mình, dù có địa vị cao hay thấp đều
phải trở thành tín đồ Islam” điều này cũng lí giải vì sao Malacca lại có thể mau
chóng trở thành một Sultanate hùng mạnh ở khu vực.
Thứ tư, khi Islam đến Ấn Độ đã tiếp thu chủ nghĩa thần bí của phương
Đông. Chính yếu tố thần bí này đã trở thành điểm riêng biệt của Islam giáo Đông
Nam Á và làm cho Islam mau chóng có vị trí vững chắc ở nơi đây và dễ dàng
xâm nhập vào các cư dân từ lâu đã sống trong ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.
Các cư dân Đông Nam Á bản địa dễ dàng tiếp thu Islam và đây cũng là xứ sở
hiếm hoi mà Islam không phải dùng bạo lực để loại trừ những tôn giáo đã được
thiết lập từ trước. Ngược lại, với kinh nghiệm song song tồn tai với các tôn giáo
khác ở Ấn Độ, Hồi giáo tiếp tục biến đổi, uốn mình theo các phong tục truyền
thống của địa phương. Thực ra, không phải khi đến Ấn Độ, thì Islam mới tiếp thu
các yếu tố thần bí của phương Đông, mà các yếu tố này đã có sẵn trong truyền
thống văn hóa của các cư dân vùng bán đảo A Rập – nơi phát sinh của Islam và
chúng đi vào Islam một cách tự nhiên. Có thể nói, chính những yếu tố thần bí
trong Islam giáo và khả năng kết hợp vói các tín ngưỡng địa phương đẩy nhanh
quá trình cải giáo ở khu vực này.

24



Thứ năm, yếu tố giúp cho Islam xâm nhập và phát triển nhanh hơn trên
quần đảo Malaya – Inđonexia là việc sử dụng tiếng Malayu và chữ Jawi trong
việc truyền bá tôn giáo này, điều này cũng góp phần làm cho Islam giáo phát
triển nhanh trên quần đảo Malay – Indonexia, sau đó là khu vực Đông Nam Á.
Và việc sử dụng tiếng Malayu là một đặc điểm nổi bật của Islam giáo ở Đông
Nam Á. Người Hồi giáo đã chọn tiếng Malayu mà không chọn ngôn ngữ nào
khác trong khu vực, bởi vì từ thời tiền Islam, tiếng Malayu đã được sử dụng rộng
rãi và trở thành ngôn ngữ trung gian để giao tiếp, đặc biệt là trong giao lưu buôn
bán của khu vực. Khi Islam đến tiếng Malayu đã đạt trình độ ngôn ngữ văn hóa
tinh tế. Tiếng Malayu được sử dụng hầu như khắp các cộng đồng Islam giáo cho
tới tận Campuchia và Việt Nam. Theo Al-Attas, thời tiền Islam người Malayu đã
không có một chữ viết thống nhất như chữ Malayu chẳng hạn, vì “trong các văn
bản Malayu ở thế kỷ XVI và XVII đã có các thuật ngữ “người Malayu”, “nước
Malayu”, nhưng không có thuật ngữ “tiếng Malayu”, mà lại có thuật ngữ “tiếng
Jawi””. Thật ra, Jawi là thuật ngữ người Arập sử dụng để gọi toàn bộ các cư dân
sinh sống trên quần đảo Malaya - Indonesia. Jawi cũng là danh từ được người
Malayu dùng để gọi chữ viết của mình. Thực tế là chữ Arập quá phức tạp cả
trong cách viết lẫn cách phát âm, dẫn đến những tín đồ Islam mới ở Đông Nam Á
gặp rất nhiều khó khăn trở ngại trong việc đọc kinh Qur’an và các sách thiêng
của người Islam. Và chữ Jawi đã ra đời để đáp ứng nguyện vọng tôn giáo của cư
dân Đông Nam Á. Thực sự chữ Jawi và cách phát âm của nó rất phù hợp với cấu
trúc ngôn ngữ của người Malayu, giúp người ta dễ dàng phát âm các từ Arập khó
khi đọc và hiểu kinh Qur’an. Cho nên chữ Jawi không chỉ được dùng để biểu đạt
tiếng Malayu mà thực sự đã đóng vai trò hết sức quan trọng của nó trong việc
học và giáo dục tư tưởng Islam của người Malayu. Không những thế, việc sử
dụng chữ Jawi thay chữ Arập để biểu đạt ngôn ngữ Malayu đã góp phần lớn
trong việc truyền bá Islam và nền văn hoá Malayu trong khu vực. Nhiều sách
khoa học, kinh thánh, sách văn học Malayu thời kỳ trước đã được viết bằng chữ

Jawi. Chữ Jawi đã tồn tại và phát triển hơn năm thế kỷ qua, một phần là nhờ các
cơ sở giáo dục Islam truyền thống của người Malayu. Đến ngày nay tiếng
Malayu hiện đại viết theo mẫu tự Latinh đang phát triển và thay thế chữ viết
Jawi. Người ta chỉ còn nhắc đến chữ Jawi như là chữ viết của quá khứ. Tuy
nhiên, nó là dấu ấn của Islam và cũng là một phần quan trọng trong di sản văn
hoá của người Malayu, nên cần được gìn giữ như là một minh chứng về thời kỳ
lịch sử phát triển Islam ở Đông Nam Á.
Dù là Islam hay bất kì một tôn giáo nào khác trên thế giới, dù cho lan tỏa
được đến đâu, tới bất kì nơi nào thì bên cạnh sự phù hợp hay tiến bộ của nó thì
điều quan trọng đó là lịch sử văn hóa riêng của khu vực đó. Islam đã xâm nhập
25


×