Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức từ thực tiễn huyện hóc môn, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.01 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG THỊ BÌNH

TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HÓC MÔN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG THỊ BÌNH

TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HÓC MÔN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THẾ TÂM


HÀ NỘI - 2017


LỜI CÁM ƠN
Trong thực tế, sự thành công của mỗi cá nhân thường gắn liền với sự
hỗ trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Từ
khi bắt đầu học tập tại Học viện Khoa học xã hội đến nay, tôi đã nhận được
nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy cô, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè.
Sự giúp đỡ đó đã mang lại cho tôi một lượng kiến thức cần thiết và là nguồn
động viên to lớn để tôi có thể hoàn thành đề tài này.
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến
Tiến sĩ Nguyễn Thế Tâm –người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tôi tận tình
trong suốt thời gian thực hiện Đề tài này. Nhân đây, tôi cũng xin bày tỏ lòng
biết ơn đến Huyện ủy Hóc Môn, Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn, Ủy ban
kiểm tra Huyện ủy Hóc Môn, Thanh tra Nhà nước huyện Hóc Môn, Phòng
Nội vụ Hóc Môn đã hỗ trợ, cung cấp những tư liệu có giá trị cho nội dung
Luận văn.
Đề tài này được tôi cố gắng khai thác dưới nhiều khía cạnh và góc độ
khác nhau trong việc phân tích các vấn đề lý luận, thực trạng của “Trách
nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức từ thực tiễn huyện Hóc Môn,
thành phố Hồ Chí Minh”, song với kiến thức còn hạn chế và nhiều bỡ ngỡ,
chắc chắn tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Do đó, tôi rất mong nhận
được những ý kiến góp ý chân tình của quý thầy cô, các bạn học chung lớp,
bạn bè để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2017
Học viên thực hiện

DƯƠNG THỊ BÌNH



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT ĐỐI VỚI CÔNG
CHỨC, VIÊN CHỨC ................................................................................................8
1.1. Một số khái niệm ................................................................................................................ 8
1.2. Đặc điểm, vai trò và mối quan hệ giữa trách nhiệm kỷ luật với các hình thức trách
nhiệm khác................................................................................................................................ 11
1.3. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam về trách nhiệm kỷ luật ............................................................................................ 13
1.4. Yếu tố ảnh hưởng đến trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức.................... 18
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM
KỶ LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
KỶ LUẬT ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC Ở HUYỆN HÓC MÔN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................................................ 29
2.1.Thực trạng pháp luật hiện hành về trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên
chức .................................................................................................................. 29
2.2. Sơ lược tình hình công chức, viên chức huyện Hóc Môn…………………..... 38
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức ở
huyện Hóc Môn........................................................................................................................ 41
2.4. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức ở
huyện Hóc Môn........................................................................................................................ 48
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC ............ 54
3.1. Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức ................. 54
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm kỷ luật đối với
công chức, viên chức .................................................................................................56
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm kỷ luật đối với
công chức, viên chức ở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. .................................... 67


KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGDĐT

Bộ Giáo dục – Đào tạo

BNV

Bộ Nội vụ

CP

Chính phủ

CT

Chỉ thị

KL

Kết luận



Nghị định

NQ


Nghị quyết

NXB

Nhà xuất bản

NXB.CTQG,H

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội

PGS.TS

Phó Giáo sư. Tiến sĩ



Quyết định



Quy định

SL

Sắc lệnh

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh


TT

Thông tư

TTg

Thủ tướng

TTLT

Thông tư liên tịch

TW

Trung ương

UBND

Ủy ban nhân dân

VCA

Liên minh Hợp tác xã Việt Nam


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1:

Kết quả xử lý kỷ luật công chức..................................


42

Bảng 2.2:

Kết quả xử lý kỷ luật viên chức ..................................

43

Biểu đồ 2.1: Kết quả xử lý kỷ luật công chức (2011-2017)............

43

Biểu đồ 2.2: Kết quả xử lý kỷ luật viên chức (2011-2017).............

44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, kỷ luật làm nên sức mạnh của tổ chức. Vai trò
của kỷ luật chỉ được phát huy khi mỗi thành viên tự giác chấp hành kỷ luật. Nếu cán
bộ, đảng viên không tự giác tuân thủ kỷ luật và pháp luật, thì dù kỷ luật và pháp luật
có nghiêm minh đến mấy, những “mệnh lệnh bên ngoài” ấy cũng không thể chuyển
hóa thành những “mệnh lệnh bên trong”, không thể tạo nên động lực thúc đẩy cán
bộ, đảng viên tận tụy vì công việc.
Sinh thời, Hồ Chí Minh là người thực sự tôn trọng nhân dân và thượng tôn
pháp luật, nên ngay sau khi giành chính quyền, Người đã rất quan tâm tới việc thiết
lập kỷ cương phép nước.
Những ngày đầu giành chính quyền, mới chỉ có Hiến pháp chứ chưa được cụ

thể hóa bằng luật pháp, ở các làng quê vẫn dùng hương ước là chính. Những con
người từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ, họ trân trọng quyền làm chủ của
mình, sau đó, họ nhìn vào gương cán bộ để làm theo. Có thể nói, thời kỳ này, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tạo dựng được hệ thống cán bộ từ Trung ương đến cơ sở đều
gương mẫu, hết lòng vì sự nghiệp chung, luôn nêu cao tinh thần “hy sinh trước,
hưởng thụ sau”.
Trong các quy định của pháp luật Việt Nam, trách nhiệm kỷ luật công chức,
viên chức được hình thành từ Quy chế Công chức Việt Nam được ban hành bằng
Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa và được phát triển tiếp tục cho đến nay.
Trong tình hình đất nước đang tiến hành công cuộc xây dựng, phát triển theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu đạt được về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội vẫn còn có những hạn chế do sự tác động của mặt trái kinh tế thị
trường đối với xã hội, trong đó có đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, dẫn đến
tình trạng “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên

1


giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa
vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn
cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc.. .; ...có hiện tượng
dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người
đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc
tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá
nhân.” [1, tr.1].
Nhằm góp phần củng cố kỷ cương, kỷ luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong hoạt động của đội ngũ công chức, viên chức, Nhà nước có nhiều biện

pháp khác nhau như giáo dục, xây dựng chế độ cho công chức, viên chức, tổ chức,
đào tạo và đương nhiên không thể thiếu biện pháp trách nhiệm kỷ luật. Trách nhiệm
kỷ luật là biện pháp cưỡng chế của nhà nước áp dụng đối với công chức, viên chức
để duy trì trật tự hoạt động của bộ máy nhà nước.
Vấn đề trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức đã được một số tác
giả nghiên cứu và khái quát trong các giáo trình Luật hành chính của Trường Đại
học Luật Hà Nội, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; một số khía cạnh
của vấn đề được thể hiện trong các bài viết đăng trên các tạp chí nghiên cứu. Qua đó
cho thấy việc nghiên cứu trách nhiệm kỷ luật công chức, viên chức là hết sức cần
thiết bởi các lý do sau:
- Kỷ luật công chức, viên chức đảm bảo tính hiệu quả, hiệu lực của hoạt
động bộ máy nhà nước.
- Tính nghiêm minh trong chấp hành pháp luật, chấn chỉnh kỷ cương, tuân
thủ kỷ luật hành chính trong đội ngũ công chức, viên chức.
- Bảo vệ quyền lợi chính đáng của công chức, viên chức.
- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm kỷ luật công chức,
viên chức phù hợp thực tế và xu hướng phát triển của đất nước.
- Cụ thể hóa chủ trương cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2


Từ các lý do trên, tôi chọn đề tài “Trách nhiệm kỷ luật đối với công chức,
viên chức từ thực tiễn huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu.
Luận văn sẽ nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng trách nhiệm kỷ luật công
chức, viên chức tại huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và đưa ra
một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tác động và thực hiện pháp luật
về trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức trong thời gian tới của dịa
phương.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nhà nước tiến hành cải cách hành chính, hướng tới một nhà
nước kiến tạo, một số tác giả đã nghiên cứu về trách nhiệm kỷ luật công chức, viên
chức hoặc một số khía cạnh có liên quan. Các công trình đã được đăng tải trên một
số sách, báo, tạp chí nghiên cứu và luận án. Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu,
tác giả xin điểm qua một số công trình nghiên cứu như sau:
- Phạm Hồng Thái (2001) “Trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm bồi thường
vật chất của cán bộ công chức ở nước ta hiện nay” Đề tài khoa học Học viện hành
chính quốc gia.
- Trần Thúy Lâm (2005) “Sự khác nhau cơ bản giữa kỷ luật lao động và kỷ
luật công chức” Tạp chí Luật học, số 3 (28-32).
- PGS.TS Võ Kim Sơn (chủ nhiệm),“ Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng
Luật công vụ Việt Nam” Đề tài Khoa học cấp Bộ, năm 2008.
- Giáo trình Tổ chức bộ máy Hành chính Nhà nước, Học viện Hành chính,
Hà Nội, 2010.
- Nguyễn Hữu Phúc (2009) “Vai trò và trách nhiệm kỷ luật hành chính trong
quản lý cán bộ, công chức” Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8(256).
- Nguyễn Hữu Phúc (2010) “Chế định trách nhiệm kỷ luật hành chính trong
pháp luật Việt Nam” Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.
- Vũ Đức Anh (2011) “Đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức – qua thực
tiễn Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam” Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học
quốc gia Hà Nội, khoa luật.

3


- Bùi Thị Đào (2010) “Một số vấn đề về kỷ luật cán bộ, công chức”, Tạp chí
Luật học số 6.
- Hoàng Thị An Khánh “Một số vấn đề về chế độ kỷ luật đối với cán bộ,
công chức” />- Nguyễn Quốc Khánh “Bao giờ hết thời hiệu xử lý kỷ luật công chức, viên

chức” 08/7/2017.
Các công trình nghiên cứu có liên quan đã giải quyết những vấn đề về chế
định trách nhiệm kỷ luật, các yếu tố cấu thành, các quy định của pháp luật về trách
nhiệm kỷ luật qua từng giai đoạn để tác giả tiếp thu giải quyết vấn đề lý luận và
nghiên cứu thêm về những yếu tố ảnh hưởng đến thực tế thực hiện pháp luật về
trách nhiệm kỷ luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề lý luận về
trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức; đánh giá thực trạng thực hiện quy
định pháp luật về trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức ở huyện Hóc
Môn, thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó rút ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định của pháp luật, tăng tính hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm kỷ luật đối
với công chức, viên chức; bảo đảm việc thực hiện tốt hơn quy định pháp lý này
trong thực tiễn, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đáp ứng mục đích nghiên cứu, đề tài chủ yếu có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức; đặc
điểm; các hình thức trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức; vai trò của
trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức trong quản lý hành chính nhà
nước.
- Phân tích cơ sở pháp lý, thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm kỷ
luật đối với công chức, viên chức ở huyện Hóc Môn hiện nay, bước đầu xác định

4


những nguyên nhân mặt tích cực và hạn chế của thực trạng đó.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trách nhiệm kỷ

luật của công chức, viên chức cả về thực hiện lẫn áp dụng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là trách nhiệm kỷ luật đối với công chức,
viên chức nhà nước vi phạm kỷ luật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung: Trong đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu quy định về
trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức theo nghĩa vụ pháp lý trong Luật
Cán bộ, công chức, Luật Viên chức Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật (trọng tâm nghiên cứu quy định kỷ luật đối với công chức, viên chức trong
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Viên chức năm 2010, Nghị định
34/2011/NĐ-CP, Nghị định 27/2012/NĐ-CP);
Thực trạng pháp luật hiện hành về trách nhiệm kỷ luật và thực tiễn thực hiện
pháp luật về trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức theo Luật Cán bộ,
công chức, Luật viên chức Việt Nam từ năm 2011 đến 2017 (Tập trung nghiên cứu
nội dung thực hiện pháp luật về trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức).
Không gian, thời gian nghiên cứu: Trong phạm vi luận văn, đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu tình hình công chức, viên chức huyện Hóc Môn vi phạm kỷ luật bị
áp dụng quy định về kỷ luật trong Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức từ năm
2011 đến tháng 6 năm 2017.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân để phân
tích các tài liệu như sách, báo chí, các báo cáo, số liệu thống kê, các văn bản hiện
hành liên quan đến trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức; Các công
trình nghiên cứu cơ bản của các nhà khoa học trong nước.

5



Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp
để nghiên cứu các quy định pháp luật về trách nhiệm kỷ luật đối với công chức,
viên chức. Sử dụng phương pháp so sánh để phân biệt trách nhiệm kỷ luật giữa
công chức với viên chức. Sử dụng phương pháp thống kê để tìm hiểu việc áp dụng
hình thức kỷ luật trong thực tế.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
5.1. Ý nghĩa lý luận
Lý giải một cách có cơ sở khái niệm trách nhiệm kỷ luật công chức, viên
chức gồm hai khía cạnh tích cực và tiêu cực. Trong giới hạn nghiên cứu, làm sáng
tỏ hơn khái niệm, đặc điểm, vai trò trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên
chức; các hình thức kỷ luật và tương quan giữa trách nhiệm kỷ luật đối với công
chức, viên chức với trách nhiệm chính trị đạo đức và với các biện pháp tác động xã
hội khác.
Đưa ra được các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đối với trách nhiệm kỷ luật đối với công chức,viên chức.
Đánh giá một cách tương đối toàn diện các quy định pháp luật về trách
nhiệm kỷ luật công chức, viên chức cũng như thực trạng vi phạm trách nhiệm kỷ
luật của công chức, viên chức và thực tiễn áp dụng trách nhiệm kỷ luật đối với công
chức, viên chức vi phạm.
Đề xuất được những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức và những giải pháp bảo đảm việc
thực hiện trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức trong thực tiễn xây dựng
bộ máy Nhà nước trong sạch vững mạnh toàn diện.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết luận và kiến nghị của đề tài có ý nghĩa thực tiễn trong việc góp
phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm kỷ luật đối với
công chức, viên chức. Đồng thời nội dung đề tài có thể được sử dụng làm tư liệu
nghiên cứu phục vụ quá trình quản lý, sử dụng công chức, viên chức theo hướng
hiệu quả và đảm bảo kỷ cương, phép nước trong hoạt động của bộ máy nhà nước ở

huyện Hóc Môn.

6


6. Cơ cấu
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu Tham khảo và Phụ lục, nội dung
chính của đề tài nghiên cứu gồm ba chương:
- Chương một: Lý luận về trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức.
Phần này tổng quan tình hình nghiên cứu về trách nhiệm kỷ luật đối vớ công chức,
viên chức. Phân tích các khái niệm, quan điểm, cơ sở pháp lý liên quan đến đề tài
nghiên cứu là những nội dung trong chương này.
- Chương hai: Thực trạng pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện trách
nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức ở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí
Minh. Sơ lược tình hình công chức, viên chức huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí
Minh; đánh giá chung về chất lượng đội ngũ công chức, viên chức huyện Hóc Môn;
phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về trách nhiệm kỷ luật và thực tiễn thực
hiện trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức huyện Hóc Môn, thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay, như quy định về kỷ luật đối với công chức, viên chức của
Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010 các Nghị định hướng
dẫn thi hành; tình hình xử lý kỷ luật công chức, viên chức vi phạm ở huyện Hóc
Môn từ năm 2011 đến 6 tháng đầu năm 2017; hạn chế, nguyên nhân, yếu tố ảnh
hưởng chủ yếu.
- Chương ba: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm kỷ luật đối với công chức,
viên chức ở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.

7



Chương 1
LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT
ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC

1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm công chức
Theo quan điểm chung, công chức được hiểu là những công dân được tuyển
dụng vào làm việc thường xuyên trong cơ quan Nhà nước, do ngân sách Nhà nước
trả lương.
Nước Pháp quy định: “Công chức là người được bổ nhiệm vào một công việc
thường xuyên với thời gian làm việc trọn vẹn và được biên chế vào một ngạch trong
thứ bậc của các cơ quan hành chính Nhà nước, các cơ quan ngoại biên hoặc các
công sở Nhà nước” (Điều 2 Chương II Quy chế chung về công chức Nhà nước của
Pháp năm 1994) [20, tr.103]. Theo cách hiểu này, công chức Pháp gồm 3 loại: công
chức hành chính Nhà nước, công chức trực thuộc cộng đồng lãnh thổ và công chức
trực thuộc các công sở tự quản.
Ở Việt Nam, trải qua một thời gian dài cho đến trước khi Luật cán bộ, công
chức được ban hành năm 2008, trong nhận thức cũng như trong các hoạt động quản
lý, chúng ta chưa xác định được rõ ràng công chức; viên chức.
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2000, thì công chức
được hiểu là: “người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên
trong cơ quan nhà nước, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp” [16, tr.207].
Theo từ điển hành chính, nhà xuất bản Lao động - xã hội năm 2003 của tác giả Tô
Tử Hạ, công chức được hiểu là: “Người phải có đủ các điều kiện: tuyển dụng qua
thi tuyển; được bổ nhiệm chính thức vào một ngạch; làm việc trong một công sở;
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Công chức nước nào phải là
công dân nước đó. Công chức Việt Nam là công dân Việt Nam được tuyển dụng qua
thi tuyển” [19, tr66].
Trong các văn bản pháp luật của Nhà nước quan niệm về công chức qua các
thời kỳ có những quy định khác nhau. Ngày 20 tháng 5 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí


8


Minh đã ban hành Sắc lệnh 76/ SL về “Quy chế công chức”, đây được xem là văn
bản pháp luật đầu tiên có liên quan trực tiếp đến khái niệm này. Theo quy định của
Quy chế này thì công chức là "những công dân Việt Nam được chính quyền nhân
dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong
hay ở ngoài nước, đều là công chức”.
Thời gian sau đó, chúng ta cũng đã có nhiều văn bản đề cập đến công chức,
công vụ và gần đây nhất, trước đòi hỏi của thực tiễn khách quan, ngày 13 tháng 11
năm 2008, kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật cán bộ, công chức.
Theo Luật này quy định, “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công
lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo
đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [17,
tr.01].
1.1.2. Khái niệm viên chức
Theo quan niệm chung, viên chức được hiểu một cách đơn giản là người lao
động có nghề nghiệp được Nhà nước tuyển dụng, bổ nhiệm vào một chức nghiệp
nhất định trong đơn vị sự nghiệp nhà nước (sự nghiệp công) và được hưởng lương
từ ngân sách nhà nước. Nghề nghiệp là chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo để
người viên chức kiếm sống và sinh nhai. Chức nghiệp hay chức vụ nghề nghiệp

được hiểu là ngạch, bậc chuyên môn nghiệp vụ được phân loại, xếp hạng trên cơ sở
trình độ chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo, kinh nghiệm và năng lực thực tiễn của
viên chức.

9


Còn có một số quan niệm khác về “viên chức” như: Viên chức là những
người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công khác nhau, lao động của họ không
mang tính chất quyền lực nhà nước, mà thuần tuý mang tính chất chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ thuật chuyên sâu [21, tr.2].
Theo Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 thì viên chức
được hiểu là công dân Việt Nam, trong biên chế, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự
nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội được quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Cán bộ, công chức ngày 29 tháng 4 năm 2003, hưởng lương từ ngân sách nhà nước
và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật.
Luật Viên chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2010, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01 tháng 01 năm 2012 quy định: “Viên chức là công dân Việt Nam, được
tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ
hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo
quy định của pháp luật” [18, tr.1].
1.1.3. Khái niệm trách nhiệm kỷ luật
Khái niệm “trách nhiệm” theo Từ điển tiếng Việt là “Điều phải làm, phải
gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình”; hay “được hiểu là sự ràng buộc đối với lời
nói, hành vi của mình, bảo đảm làm đúng đắn, nếu sai trái thì phải chịu phần hậu
quả”; hoặc “là phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm
làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả”. Và “trách nhiệm

là phải bảo đảm làm tròn những sự việc được giao cho. Nếu kết quả không tốt thì
phải gánh chịu hậu quả”.
Kỷ luật theo góc nhìn khách quan là toàn bộ các quy tắc hành vi trong hoạt
động của công chức, viên chức do nhà nước ban hành, chứa đựng các quy định về:
hành vi được thực hiện, cấm thực hiện; khuyến khích và xử phạt trong thực hiện
hành vi. Kỷ luật theo góc nhìn chủ quan là sự tuân thủ, sử dụng, thi hành, áp dụng

10


đúng các quy tắc hành vi đã ban hành. Như vậy, nhà nước ban hành các quy tắc
hành vi, còn công chức phải hiểu và chấp hành các quy tắc ấy. Kỷ luật là sự thống
nhất giữa ban hành và thực hiện. Có quy tắc thì mới có quy chuẩn để thực hiện.
Nhiều quy tắc mà không thực hiện thì mọi ấn định ấy đều vô nghĩa.
Trách nhiệm kỷ luật công chức, viên chức hiểu theo hướng tích cực là việc
thực hiện chức trách, công việc được giao bao gồm cả quyền và nghĩa vụ do pháp
luật quy định, hiểu đơn giản là thái độ của công chức, viên chức bảo đảm hoàn
thành công vụ. Theo hướng tiêu cực, trách nhiệm kỷ luật là hậu quả bất lợi mà công
chức, viên chức phải gánh chịu khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng,
không đầy đủ quyền và nghĩa vụ được giao phó.
Trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức là một dạng trách nhiệm
pháp lý, áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức do vi phạm kỷ luật, vi phạm
quy tắc hay nghĩa vụ trong hoạt động công vụ hoặc vi phạm pháp luật mà chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

1.2. Đặc điểm, vai trò và mối quan hệ giữa trách nhiệm kỷ luật với các
hình thức trách nhiệm khác
1.2.1. Đặc điểm trách nhiệm kỷ luật
- Chủ thể phải gánh chịu trách nhiệm kỷ luật là công chức, viên chức vi
phạm kỷ luật, vi phạm quy tắc hay nghĩa vụ trong hoạt động công vụ hoặc vi phạm

pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chủ thể áp dụng trách nhiệm kỷ luật là người đứng đầu cơ quan, đơn vị nơi
có công chức, viên chức vi phạm.
Giữa chủ thể áp dụng trách nhiệm kỷ luật với chủ thể chịu trách nhiệm kỷ
luật có mối quan hệ trực thuộc nhau về mặt tổ chức.
- Cơ sở phát sinh trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức là khi có
hành vi vi phạm kỷ luật và có lỗi. Trong những trường hợp nhất định, việc vi phạm
đạo đức, vi phạm điều lệ của tổ chức chính trị cũng là cơ sở trách nhiệm kỷ luật đối
với công chức, viên chức.
- Mang tính cưỡng chế nhà nước nghĩa là khi công chức, viên chức vi phạm

11


kỷ luật thì phải chịu một hình thức kỷ luật nhất định theo quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức được tiến hành chặt chẽ,
theo quy trình, thủ tục do pháp luật quy định.
1.2.2. Vai trò của trách nhiệm kỷ luật
Công chức, viên chức là những người phục vụ trong bộ máy nhà nước. Họ
là một nhóm lao động chiếm số lượng không lớn nhưng có một ý nghĩa đặc biệt
trong xã hội, bởi hoạt động của họ chứng minh cho sự tồn tại của nhà nước, phản
ánh bản chất và hình ảnh của nhà nước đó trong cộng đồng dân cư và trong đời sống
xã hội.
Công chức, viên chức chỉ được hành xử theo quy định của pháp luật, không
được hành xử tùy tiện theo ý chí chủ quan của mình. Tính chất của một vi phạm kỷ
luật của công chức, viên chức có mức độ nghiêm trọng hơn nhiều một vi phạm kỷ
luật của người lao động trong các tổ chức ngoài nhà nước.
Do vậy, trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức là một chế định không thể
thiếu trong hệ thống pháp luật để Nhà nước kiểm soát hành vi và cả thái độ của
những người lao động phục vụ trong bộ máy của mình. Việc thiết lập một hàng rào

pháp lý về trách nhiệm kỷ luật đối với cán bộ, công chức là một trong những công
cụ pháp lý quan trọng của Nhà nước nhằm phòng, chống và xử lý nghiêm minh
những vi phạm kỷ luật của công chức, viên chức, góp phần giáo dục, rèn luyện công
chức, viên chức ý thức tự giác tuân thủ kỷ luật, nâng cao hiệu quả công tác quản lý
nguồn nhân lực trong bộ máy nhà nước.
1.2.3. Mối quan hệ giữa trách nhiệm kỷ luật với các hình thức trách nhiệm khác
Trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức là một hình thức của trách
nhiệm pháp lý và căn cứ vào đặc thù của hệ thống chính trị ở Việt Nam thì trách
nhiệm kỷ luật có mối quan hệ tương quan với các hình trách nhiệm khác đối với
công chức, viên chức.
- Trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm hình sự đối với công chức, viên chức:
trách nhiệm hình sự đối với công chức, viên chức là hình thức trách nhiệm pháp lý
nghiêm khắc nhất. Tùy theo tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm trách

12


nhiệm kỷ luật mà có thể có sự chuyển hóa từ trách nhiệm kỷ luật sang trách nhiệm
hình sự; công chức, viên chức vi phạm hình sự có thể đồng thời chấp hành bản án
có hiệu lực của Tòa án tuyên kỷ luật và bị truy cứu trách nhiệm kỷ luật.
- Trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm hành chính đối với công chức, viên
chức: trách nhiệm hành chính đối với công chức, viên chức là hình thức trách nhiệm
pháp lý. Trách nhiệm hành chính có mối quan hệ mật thiết với trách nhiệm kỷ luật.
Công chức, viên chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong một số trường
hợp vừa phải chịu trách nhiệm hành chính vừa phải chịu trách nhiệm kỷ luật. Cụ
thể: hành vi mại dâm, cờ bạc.
- Trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức, viên chức:
trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với công chức, viên
chức của cơ quan, đơn vị mình trong trường hợp họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ
quan, đơn vị hoặc khi thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được phân công có lỗi gây

thiệt hại cho người khác. Trách nhiệm vật chất thường được áp dụng cùng với trách
nhiệm kỷ luật. Bởi vì công chức, viên chức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật gây
thiệt hại tài sản của nhà nước hoặc của người khác khi thi hành công vụ đã xâm hại
đến quan hệ sở hữu và quan hệ kỷ luật.

1.3. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về trách nhiệm kỷ luật
1.3.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về trách nhiệm kỷ luật cán bộ
Theo học thuyết về nhà nước kiểu mới của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước
kiểu mới là nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước dân chủ cao nhất, triệt để nhất.
Mác và Ph.Ăngghen chủ trương xây dựng Nhà nước kiểu mới là nhà nước
hợp hiến, hợp pháp; là nhà nước đảm bảo cho “tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Nhà nước đó xây dựng và phát triển một
xã hội có khả năng tạo ra những điều kiện cơ bản để “giải phóng cá nhân” theo
phương châm “xã hội sẽ không thể giải phóng nếu không giải phóng mỗi cá nhân
riêng biệt”...

13


Những tư tưởng cốt lõi đó của các ông đã được V.I.Lênin vận dụng và làm rõ
hơn khi Người lãnh đạo nhân dân Nga xây dựng nền pháp luật kiểu mới, nền pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Lênin đã dự đoán rằng trong quá trình tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, nhất là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không tránh khỏi
có những cán bộ, công chức nhà nước lạm dụng quyền lực, thoái hoá biến chất, xa
rời quần chúng làm xuất hiện chủ nghĩa quan liêu trong nhà nước vô sản. Ông đặc
biệt chú ý đến việc đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước, đề
phòng và chống những biểu hiện tiêu cực trong bộ máy nhà nước cũng như trong
đội ngũ công chức; không được chần chừ, do dự, phải mạnh dạn thay đổi những cán
bộ năng lực yếu kém, không chịu khó học tập. Trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ tả

khuynh”, Lênin đã khẳng định: “Những người bônsêvích sẽ không giữ vững được
chính quyền, tôi không nói được tới hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi
cũng không được nữa, nếu Đảng ta không có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật
sắt thực sự”[10, tr.6]. Như vậy, Lênin quan niệm: “để làm cho giai cấp vô sản có thể
thực hiện được một cách đúng đắn vai trò tổ chức của nó (và đó là vai trò chính của
nó), một cách có kết quả và thắng lợi thì chính đảng của giai cấp vô sản phải thực
hiện được, trong nội bộ của mình, một chế độ tập trung chặt chẽ và một kỷ luật
nghiêm ngặt" [11,tr.34 ]. Vi phạm kỷ luật - cũng có nghĩa là phản bội lại Đảng. "Kẻ
nào làm yếu - dù chỉ là chút ít - kỷ luật sắt trong Đảng của giai cấp vô sản (nhất là
trong thời kỳ chuyên chính của nó) là thực tế giúp cho giai cấp tư sản chống lại giai
cấp vô sản" [12, tr.34].
1.3.2. Tư tưởng Hồ chí Minh về trách nhiệm kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng “Sửa chữa sai lầm cố nhiên là dùng
cách giải thích, thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo. Song, không phải không dùng xử
phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ, nếu như cứ nhất loạt đều xử phạt thì sẽ mất cả kỷ
luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không xử phạt là
không đúng, mà chút gì cũng đều xử phạt cũng không đúng” [14,tr.324]. Việc chấp
hành kỷ luật đảng của đảng viên và tổ chức đảng; việc phát hiện vi phạm, kiểm tra
làm rõ vi phạm của đảng viên, tổ chức đảng và việc xem xét, xử lý kỷ luật đảng

14


viên, tổ chức đảng vi phạm là trách nhiệm và thẩm quyền của cấp ủy các cấp, của tổ
chức đảng có thẩm quyền.
Theo Người, trách nhiệm là việc phải làm không thể thoái thác. Trách nhiệm
như là bổn phận của mỗi người, dù ở cương vị nào, to hay nhỏ, lớn hay bé, mỗi
người đều có ‘bổn phận”.
Từ những năm 1920, mở đầu các bài giảng tại các lớp huấn luyện cán bộ tại
Quảng Châu (Trung Quốc), Hồ Chí Minh đã bắt đầu từ mục: "Tư cách người cách

mệnh", và trong những tư cách ấy, tính tổ chức, kỷ luật và đạo đức của người cán
bộ phải được đặt lên hàng đầu.
Không chỉ lấy đức trị để giáo dục, răn đe, động viên mọi người, Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn chú trọng ban hành các quy định pháp luật để xử lý các hành vi sai
lệch. Ngay từ những ngày đầu của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà, ngày 17
tháng 10 năm 1945, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho UBND các kỳ, tỉnh, huyện và
làng, nêu rõ 6 căn bệnh cần đề phòng là: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ,
kiêu ngạo. Người phê bình: “Lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm.
Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên, cho đến các cô các cậu ủy viên cũng dùng xe
hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu?... Chúng ta phải ghi sâu
những chữ công bình, chính trực vào lòng”. Ngày 27 tháng 11 năm 1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ. Ngày 26 tháng
01 năm 1946, Người ký Quốc lệnh khép tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử
hình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh
thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ, đảng viên” [8, tr.311].
Uy tín chung của Đảng và của mỗi đảng viên trong nhân dân bắt nguồn từ sự gương
mẫu, tự giác tuân thủ kỷ luật Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định
của các tổ chức, đoàn thể nhân dân mà đảng viên đó tham gia. Người cho rằng, nếu
kỷ luật của Đảng lỏng lẻo thì những kẻ cơ hội, những phần tử phản động dễ dàng
chui vào hàng ngũ để phá hoại Đảng.
Người đặc biệt yêu cầu giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật, không có sự thỏa hiệp,

15


lơi lỏng kỷ luật, kỷ cương dưới bất cứ danh nghĩa nào; phải chú ý coi trọng, giữ
vững kỷ luật, kỷ cương. Người đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên càng có công thì càng
phải khiêm tốn, không được “tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng
ngoài kỷ luật” [9, tr.311]. Cán bộ, đảng viên chẳng những phải giữ gìn kỷ luật của

Đảng mà còn “phải giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan, đoàn thể cách
mạng, của nhân dân”; họ “tưởng là đảng viên thì muốn làm trời làm đất thì làm” [6,
tr.31]. Các đảng viên, cán bộ đó “không biết kỷ luật của chính quyền, của đoàn thể,
nhân dân và Đảng cũng là một” [7, tr.31].
Theo Hồ Chủ tịch, đối với mọi đảng viên cộng sản, khi nào và ở đâu cũng
phải chịu sự phân công, quản lý của tổ chức Đảng, phải hành động theo phạm vi kỷ
luật của tổ chức, phải báo cáo, phải chấp hành nghị quyết, chỉ thị một cách nghiêm
túc, đúng đắn, sáng tạo. Hồ Chí Minh yêu cầu những đảng viên giữ vị trí càng cao,
trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng phải chịu kỷ
luật nghiêm khắc, không được châm chước, bao che cho nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cảnh báo việc đảng viên không chấp hành kỷ
luật, xem thường kỷ luật, không thực hành dân chủ trong Đảng là: “Không nghiên
cứu nghiêm chỉnh và chấp hành đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng, không
tôn trọng pháp luật và thể lệ của Nhà nước. Tự cho mình là đúng, hành động theo ý
riêng, phát biểu theo ý riêng, không báo cáo và xin chỉ thị của cấp trên, xem thường
tổ chức và kỷ luật” [4, tr.21]. Người phê phán nghiêm khắc tình trạng “không thực
hiện chế độ dân chủ tập trung, không tuân theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Phớt kỷ
luật và chính sách của Đảng và của Chính phủ. Khinh rẻ ý kiến của cấp dưới. Xem
thường chỉ thị của cấp trên. Không muốn chịu kiểm tra, không muốn nghe phê
bình" [2, tr.295.]. Người yêu cầu: "Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân
chủ (thật thà tự phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính
tổ chức và tính kỷ luật"[3, tr.241].
Khi cán bộ vi phạm kỷ luật, tha hóa biến chất, cho dù ở vị trí công tác nào,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng kiên quyết xử lý, thấu tình đạt lý, giữ nghiêm kỷ luật.
Người khẳng định “với loài sâu mọt đục khoét nhân dân cũng thế, nếu phải giết đi

16


một con sâu mà cứu được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa còn là một

việc làm nhân đạo”.
1.3.3. Quan điểm của Đảng về trách nhiệm kỷ luật đối với cán bộ, công chức
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm giữ gìn kỷ luật, xử lý cán bộ vi phạm
kỷ luật tiếp tục được Đảng ta thực hiện một cách nghiêm túc. Có công thì thưởng,
có tội thì phạt, phải xử lý đúng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đó
là quan điểm nhất quán của Đảng ta từ trước đến nay.
Trong thực tiễn, Đảng ta đã có những quy định về xử lý đảng viên vi phạm.
Cụ thể:
Ngày 04 tháng 02 năm 1988, Ban Bí thư Trung ương (khóa VI) đã ban hành
Chỉ thị số 27-CT/TW “Về chính sách xử lý đảng viên phạm sai lầm”. Chỉ thị 27CT/TW đã đề ra hướng xử lý tập trung vào những đảng viên phạm sai lầm như: sa
sút ý chí chiến đấu, bè phái; đầu cơ, ăn cắp, tham ô của công, lối sống sa đọa; có
hành vi ức hiếp quần chúng nhân dân; khi xử lý đảng viên vi phạm có phân biệt sai
lầm do cơ chế khác với việc vì lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ.
Ngày 14 tháng 02 năm 1998, Bộ Chính trị (khoá VIII) ban hành Chỉ thị số 29CT/TW về

ien cường công tác kiểm tra của Đảng, theo đó tập trung vào 3 nội dung:

chấp hành nghị quyết, chấp hành chính sách pháp luật và công tác cán bộ.
Ngày 30 tháng 7 năm 2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban
hành Nghị quyết số 14-NQ/TW về

ien cường công tác kiểm tra, giám sát của

Đảng và tiếp sau đó ngày 15 tháng 10 năm 2007, Bộ Chính trị đã ban hành Quy
định số 94-QĐ/TW “Về xử lý đảng viên vi phạm”. Quy định số 94-QĐ/TW đã tạo
cơ sở để cấp ủy các cấp, tổ chức đảng có thẩm quyền có căn cứ áp dụng khi xem
xét, xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm 6 nội dung: Vi phạm nguyên tắc tập trung dân
chủ; Vi phạm về kỷ luật phát ngôn; Vi phạm về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu
nại, tố cáo; Vi phạm các quy định của Đảng và Nhà nước về dân số, kế hoạch hóa
gia đình; Vi phạm quy định về kết hôn với người nước ngoài; Vi phạm về quản lý,

cấp phát, sử dụng văn bằng, chứng chỉ không hợp pháp.
Ngày 30 tháng 3 năm 2013, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Quy định số

17


181-QĐ/TW “Về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm”. Quy định này đã chi tiết hóa 29
lỗi phạm của đảng viên trong chấp hành kỷ luật của Đảng. Với từng lỗi phạm của
đảng viên, tùy theo tính chất vi phạm, căn cứ 10 nguyên tắc xử lý kỷ luật được quy
định tại Điều 2, tổ chức đảng có thẩm quyền sẽ quyết định hình thức kỷ luật đối với
đảng viên vi phạm.
Trong những năm gần đây, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI, khóa XII về xây dựng Đảng, nhiều vụ việc, vụ án lớn, phức tạp đã được
khởi tố, truy tố, điều tra, xét xử với nhiều mức án, hình thức kỷ luật thỏa đáng.
Những cán bộ sai phạm

ien quan đều phải chịu những hình thức kỷ luật nghiêm

minh.
Cụ thể như: trường hợp của cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng; Trịnh Xuân
Thanh; vụ việc bổ nhiệm nhân sự lãnh đạo ở Hải Dương, Thanh Hóa… Việc xem
xét và bỏ phiếu đề nghị kỷ luật bằng hình thức cách chức đối với ông Võ Kim Cự,
Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (VCA), nguyên Bí thư
Tỉnh ủy Hà Tĩnh do có những sai phạm

ien quan đến sự cố môi trường ở 4 tỉnh

miền Trung thời gian qua. Những vụ việc nêu trên cho thấy quyết tâm xử lý những
cán bộ, đảng viên cố tình vi phạm, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, đến sự phát triển
của đất nước, dù người đó đảm nhiệm cương vị gì, đã nghỉ chế độ hay đương chức

của Đảng; tạo ra bước đột phá trong nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng,
bộ máy nhà nước mà trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm
chất, năng lực, đạo đức, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân, hoàn
thành tốt nhiệm vụ chính trị trên từng cương vị công tác.

1.4. Yếu tố ảnh hưởng đến trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức
1.4.1. Kinh tế
Điều kiện kinh tế - xã hội có ảnh hưởng rất quan trọng đến trách nhiệm kỷ
luật đối với công chức, viên chức bởi vì nó tác động đến thái độ, nhận thức của đội
ngũ công chức, viên chức về vai trò của trách nhiệm kỷ luật.
Khi kinh tế phát triển, đời sống vật chất, lợi ích kinh tế của công chức, viên
chức được đảm bảo thì họ sẽ phấn khởi, tin tưởng; yên tâm công tác, gắn bó với

18


chuyên môn, tích cực học tập nâng cao trình độ về kiến thức, hiểu biết pháp luật để
có thể hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ. Kinh tế phát triển tạo điều kiện cho công
chức, viên chức mua sắm các phương tiện nghe, nhìn. Các phương tiện này giúp
công chức, viên chức cập nhật thông tin, tiếp cận thường xuyên các chương trình
truyền thông pháp luật, nâng cao ý thức trách nhiệm kỷ luật. Kinh tế phát triển đảm
bảo cho công chức, viên chức có thu nhập đủ cho nhu cầu bản thân và gia đình thì
họ sẽ yên tâm công tác, biết tự giữ mình để không thực hiện hành vi vi phạm kỷ
luật.
Khi kinh tế chậm phát triển, đời sống vật chất gặp nhiều khó khăn, công
chức, viên chức không có điều kiện để được nâng cao thu nhập hợp pháp, chính
đáng thì tâm tư công chức, viên chức diễn biến phức tạp; ý thức chủ động, tích cực
thực hiện chức trách nhiệm vụ sẽ bị suy giảm.
Nước ta thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những
tác động tích cực là một điều kiện thuận lợi để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

của nhân dân nói chung, của công chức, viên chức nói riêng.
Tuy nhiên, mặt tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường cũng tạo ra tâm lý xem
đồng tiền là trên hết, bất chấp các giá trị đạo đức, chuẩn mực pháp luật; tạo ra
những quan niệm, hành vi sai lệch, lấy đồng tiền làm thước đo để đánh giá các quan
hệ xã hội. Điều này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới trách nhiệm kỷ luật đối với công
chức, viên chức trong hoạt động công vụ; là nguyên nhân, động cơ thúc đẩy các
hành vi vi phạm xảy ra khi họ thực hiện công vụ, nhiệm vụ.
1.4.2. Chính trị
Môi trường chính trị - xã hội của đất nước ổn định, phát triển bền vững là
điều kiện thuận lợi cho việc tuân thủ, chấp hành kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động
công vụ; tạo cơ sở củng cố lập trường chính trị, quán triệt nhiệm vụ chính trị cho
đội ngũ công chức, viên chức. Đây còn là nền tảng để họ rèn luyện bản lĩnh chính
trị, nâng cao ý thức phục vụ Nhà nước, phục vụ nhân dân trong một nền hành chính
lấy phục vụ làm cơ sở tồn tại và phát triển. Ngược lại, môi trường chính trị bất ổn,
các thiết chế chính trị không phát huy được vai trò điều tiết, điều chỉnh các quan hệ

19


×