Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT TỪ CẤP 1 ĐẾN CẤP 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.61 KB, 56 trang )

CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT VỀ NGỮ PHÁP VÀ NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT
1.1. Ngữ pháp và ngữ pháp học
1.1.1. Ngữ pháp
Ngữ pháp của một ngôn ngữ tồn tại một cách khách quan trong ngôn
ngữ đó, nó có thể được các nhà nghiên cứu phát hiện ra và miêu tả hoặc giải
thích. “Ngữ pháp là toàn bộ các quy luật, quy tắc hoạt động của các yếu tố
ngôn ngữ có hai mặt ” [1, tr.5]. Các yếu tố ngôn ngữ có hai mặt bao gồm hình
vị, từ, cụm từ, câu.
1.1.2. Ngữ pháp học
Ngữ pháp học là “bộ môn khoa học về ngôn ngữ chuyên nghiên cứu
ngữ pháp của ngôn ngữ” [1, tr.4].
1.1.3. Các bộ phận của ngữ pháp học
Ngữ pháp học gồm hai bộ phận: từ pháp học và cú pháp học (theo
cách phân chia truyền thống). Hai bộ phận này có mối quan hệ khăng khít với
nhau.
Từ pháp học chuyên nghiên cứu về các quy tắc biến đổi hình thái của
từ, các phương thức cấu tạo từ và từ loại.
Cú pháp học nghiên cứu những quy tắc kết hợp từ thành cụm từ, câu.
Cú pháp học nghiên cứu các kết cấu ngữ pháp, các quan hệ ngữ pháp và các
phương tiện biểu hiện quan hệ ngữ pháp.
1.1.4. Các đặc điểm của ngữ pháp
1.1.4.1. Tính khái quát
Như đã biết, ngôn ngữ có tính khái quát. So với các bộ phận khác của
ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng) thì ngữ pháp có tính khái quát cao hơn. Vì ngữ
pháp là toàn bộ quy tắc, quy luật biến hình từ, đặc tính ngữ pháp của từ loại
và các quy tắc kết hợp từ tạo nên cụm từ và câu.
1.1.4.2. Tính hệ thống
Nói đến hệ thống là nói đến các yếu tố lớn hơn hai và mối quan hệ giữa
1



chúng. Ngữ pháp của mỗi ngôn ngữ là một hệ thống bao gồm các đơn vị, kết
cấu và quan hệ ngữ pháp giữa các đơn vị đó. Do đó, ngữ pháp có tính hệ
thống.
1.1.4.3. Tính bền vững
So với ngữ âm và từ vựng thì ngữ pháp biến đổi ít hơn và chậm hơn.
Trong nhiều thế kỉ, ngữ pháp của một ngôn ngữ dù có ít nhiều biến đổi nhưng
vẫn giữ được cái cốt lõi của nó. Chính vì vậy ngữ pháp có tính bền vững.
1.2. Những đặc điểm khái quát của tiếng Việt về ngữ pháp
(Xem tài liệu [3, tr.9-12])
1.2.1. Đơn vị cơ sở của ngữ pháp học tiếng Việt
Về ngữ pháp, tiếng được xem là “đơn vị cơ sở của cấu tạo ngữ pháp
tiếng Việt” [1, tr.39]. Tiếng trong tiếng Việt là đơn vị dễ nhận diện vì nó có
cấu tạo bằng một âm tiết, mỗi một tiếng (âm tiết) được phát âm tách rời nhau
và được thể hiện bằng một chữ viết.
1.2.2. Các phương thức ngữ pháp chủ yếu trong tiếng Việt
Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập. Từ của tiếng Việt không
biến đổi hình thái. Các phương thức ngữ pháp bên ngoài từ chủ yếu trong
tiếng Việt là: trật tự từ, hư từ và ngữ điệu.
Phương thức trật tự từ là sự sắp xếp các từ theo một trật tự nhất định để
biểu thị các quan hệ cú pháp. Trong phần lớn trường hợp, sự thay đổi trật tự
từ tiếng Việt kéo theo sự thay đổi vai trò cú pháp của chúng trong cụm từ và
câu. Ví dụ:
- bàn năm ≠ năm bàn
- sân trước ≠ trước sân
- Nó đi đến trường ≠ Đến trường nó đi.
Phương thức hư từ cũng là phương thức ngữ pháp chủ yếu của tiếng
Việt. Hư từ không có chức năng định danh, không có khả năng độc lập làm
thành phần câu, dùng để biểu thị các quan hệ ngữ nghĩa - cú pháp khác nhau


2


giữa các thực từ. Nhờ hư từ mà “anh của em” khác với “anh và em“, “anh vì
em”; hay “Bây giờ mới 8 giờ” ≠ “Bây giờ đã 8 giờ”.
Phương thức ngữ điệu giữ vai trò trong việc biểu hiện quan hệ cú pháp
của các yếu tố trong câu, nhờ đó nhằm đưa ra nội dung muốn thông báo. Trên
văn bản, ngữ điệu thường được biểu hiện bằng dấu câu. Nhờ ngữ điệu mà các
câu sau có sự khác nhau trong nội dung thông báo: “Đêm hôm qua, cầu gãy”
≠ “Đêm hôm, qua cầu gãy”.
1.2.3. Các phương thức cấu tạo từ chủ yếu trong tiếng Việt
Tất cả các từ trong mọi ngôn ngữ đều được tạo ra theo một phương
thức nào đấy. Trong tiếng Việt, phương thức cấu tạo từ chủ yếu là phương
thức ghép và phương thức láy.
Ghép là phương thức kết hợp các hình vị (tiếng) với nhau theo một trật
tự nhất định để tạo ra từ mới – gọi là từ ghép.
Ví dụ: mua + bán = mua bán
toán + học = toán học
Láy là phương thức lặp lại toàn bộ hay một bộ phận từ gốc để tạo ra từ
mới – gọi là từ láy.
Ví dụ: lạnh  lành lạnh
buồn  buồn bã

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Trình bày khái niệm ngữ pháp và ngữ pháp học?
2. Nêu các đặc điểm của ngữ pháp?
3. Nêu các đặc điểm khái quát của tiếng Việt về ngữ pháp?

3



CHƯƠNG 2.
TỪ VÀ CẤU TRÚC CỦA TỪ TIẾNG VIỆT
2.1. Khái niệm từ và các tiêu chí nhận diện từ
2.1.1. Khái niệm từ
Từ trước tới nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về từ. Ngay trong
giới Việt ngữ, việc định nghĩa từ hay sự nhận diện ranh giới của từ cũng theo
hai khuynh hướng khác nhau. Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Thiện Giáp thì đồng
nhất tiếng với từ. Trong khi đó, các tác giả khác như Nguyễn Kim Thản,
Hoàng Tuệ, Đái Xuân Ninh, Hồ Lê, Đỗ Hữu Châu,… [dẫn theo 11] lại không
đồng nhất tiếng với từ. Ở bài giảng này, để tiện theo dõi, chúng tôi theo quan
điểm về từ của GS.TS Đỗ Thị Kim Liên.
“Từ là một đơn vị của ngôn ngữ, gồm một hoặc một số âm tiết, có ý
nghĩa nhỏ nhất, có cấu tạo hoàn chỉnh và được vận dụng tự do để cấu tạo nên
câu” [11, tr.18].
2.1.2. Các tiêu chí nhận diện từ
- Từ là đơn vị của ngôn ngữ, có âm thanh được biểu thị bằng một hoặc
một hoặc một số âm tiết.
- Từ là đơn vị mang nghĩa
- Từ có cấu tạo hoàn chỉnh
- Từ có khả năng vận dụng tự do để tạo nên câu
2.2. Cấu tạo từ tiếng Việt
2.2.1. Đơn vị cấu tạo từ tiếng Việt
Trong ngôn ngữ, từ chưa phải là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Nếu phân
xuất từ, ta có được những đơn vị nhỏ hơn gọi là hình vị. Hình vị là đơn vị nhỏ
nhất có nghĩa được dùng để cấu tạo nên từ.
* Từ trước đến nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau khi định nghĩa
hình vị. Có nhiều nhà ngôn ngữ đã định nghĩa về hình vị - đơn vị ngữ pháp cơ
sở của Ngữ pháp học. Trong cuốn “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
học” (Nguyễn Như Ý chủ biên) có nêu một số cách định nghĩa của các nhà

4


nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam như: Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Anh
Quế, Hữu Quỳnh, Phan Thiều, Trần Ngọc Thêm, Hồ Lê, Đỗ Hữu Châu,
Nguyễn Thiện Giáp, Võ Bình, Đái Xuân Ninh... Xin được dẫn ra một số cách
định nghĩa:
“Hình vị là đơn vị nhỏ nhất mà có mang ý nghĩa, mang giá trị ngữ
pháp” (Nguyễn Tài Cẩn. Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb ĐHQGHN, H., 1994,
tr.67)
“Hình vị là đơn vị hai mặt, có đầy đủ tính chất tín hiệu. Đã là tín hiệu
thì cái quan trọng, về mặt chức năng là phần nội dung biểu đạt, nó quyết định
sự tồn tại của bản thân tín hiệu” (Phan Thiều, “Thảo luận chuyên đề Tiếng,
hình vị và từ trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, 2 , H., 1984, tr.54).
“Hình vị là một đơn vị ngôn ngữ có nghĩa, nhỏ nhất và không độc lập
về cú pháp”. (Trần Ngọc Thêm, “Bàn về hình vị tiếng Việt dưới góc độ ngôn
ngữ học đại cương”, Ngôn ngữ, 1).
“Hình vị là những đơn vị được tạo ra từ các âm vị, tự thân có nghĩa
nhưng không được dung trực tiếp để giao tiếp, tức không trực tiếp được dùng
để kết hợp với nhau tạo thành câu”. (Đỗ Hữu Châu, Từ vựng - ngữ nghĩa
tiếng Việt, Nxb GD , H., 1985, tr. 5)
Ju. X. Xtêpanov trong Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, từ
phương diện cấu tạo, đưa ra định nghĩa: “Hình vị là lớp các hình tố tương
đồng mà mỗi hình tố lại gồm nhiều âm vị nhánh và được gặp trong một vị trí
nhất định nào đó”.
Tóm lại, dù định nghĩa hình vị ở góc độ và phương diện nào thì các nhà
ngôn ngữ cũng dễ thống nhất với nhau ở những đặc điểm của hình vị:
- Hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, là đơn vị gốc để tạo thành từ.
- Hình vị được cấu tạo bởi các âm vị.
- Hình vị là đơn vị không độc lập về cú pháp.

- Ý nghĩa tồn tại ở dạng tiềm năng (không được dùng trực tiếp để giao
tiếp, tức không trực tiếp được dùng để kết hợp với nhau tạo thành câu).
5


* Bàn về ranh giới hình vị, từ trước tới nay có hai khuynh hướng rõ rệt:
Thứ nhất, ranh giới hình vị trùng với ranh giới âm tiết. Tiêu biểu gồm
các tác giả như M.B.Emeneau, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thiện Giáp, Đinh Văn
Đức, Nguyễn Tài Cẩn, Lưu Vân Lăng, Nguyễn Văn Tu, Lê Văn Lý,
Thứ hai, ranh giới hình vị không hoàn toàn trùng với ranh giới âm
tiết. Tiêu biểu là các tác giả như L Thompson, Đỗ Hữu Châu, Diệp Quang
Ban, Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Kim Thản…).
Trong học phần này, chúng tôi theo quan điểm của khuynh hướng thứ
nhất, tức là ranh giới của hình vị trùng với ranh giới âm tiết. Trong tiếng
Việt, âm tiết bằng với tiếng. Tuy nhiên, về mặt thuật ngữ ngôn ngữ học, âm
tiết không cần chứa nghĩa, còn tiếng phải có nghĩa (hoặc tiềm ẩn nghĩa). Đối
với người Việt, tiếng là đơn vị dễ nhận diện nhất. Và tiếng (hình vị) chính là
đơn vị trực tiếp cấu tạo từ tiếng Việt.
2.2.2. Phân loại từ tiếng Việt theo cấu tạo
Xét ở mặt số lượng tiếng, chúng ta có:
- Từ đơn: là từ chỉ chứa một tiếng. Ví dụ: học, trường, sách, sẽ, đang,...
- Từ phức: là từ gồm 2 tiếng trở lên, như tàu xe, trường học, máy tính,...
Căn cứ vào mặt quan hệ giữa các thành tố cấu tạo từ, người ta tiếp tục
phân loại từ phức (từ đa tiết) ra làm các loại: từ ghép, từ láy, từ ngẫu kết.
(Xem tài liệu [1, tr.48-74], [3, tr.2-24])
2.2.2.1. Từ ghép
Từ ghép là từ chứa hai (hoặc hơn hai) hình vị và trong đó nhìn chung
không có hiện tượng “hoà phối ngữ âm tạo nghĩa”. [1, tr.48]
Về mặt ngữ pháp, từ ghép được chia thành 2 nhóm lớn theo kiểu quan
hệ giữa các thành tố: từ ghép đẳng lập (còn gọi là từ ghép song song) và từ

ghép chính phụ.
a) Từ ghép đẳng lập
Từ ghép đẳng lập có những đặc trưng chung là:
6


- Quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong nó là quan hệ bình đẳng.
- Ý nghĩa ngữ pháp do cơ chế ghép đẳng lập tạo ra là ý nghĩa tổng hợp,
ý nghĩa chỉ loại sự vật, đặc trưng (hành động, trạng thái, tính chất, quan hệ)
chung.
Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa của từ ghép,
ta chia từ ghép đẳng lập thành 3 kiểu chính là: từ ghép gộp nghĩa, từ ghép lặp
nghĩa, từ ghép đơn nghĩa.
a1. Từ ghép đẳng lập gộp nghĩa: (từ ghép hội ứng)
* Ví dụ: điện nước, xăng dầu, nghe nhìn, ăn uống, học tập, may rủi,...
* Đặc điểm tạo nghĩa của từ ghép đẳng lập gộp nghĩa:
- Ý nghĩa của từng hình vị cùng nhau gộp lại để biểu thị ý nghĩa chung
của cả từ ghép, trong ý nghĩa chung đó có thể có phần ý nghĩa của từng hình
vị. Ví dụ: “sách vở” chỉ các loại sách vở nói chung, trong đó có thể có cả
sách và vở.
- Khi sử dụng, nghĩa chung của từ ghép có thể ứng với tất cả các sự vật,
các đặc trưng do từng hình vị gọi tên, cũng có thể chỉ ứng với một số sự vật,
đặc trưng được nhắc đến trong một hình vị mà thôi.
- Khi có thể sử dụng riêng từng hình vị với tư cách từ đơn, ý nghĩa của
từng từ rời này rất xác định và khác nhau. Ví dụ: sách khác vở.
a2. Từ ghép đẳng lập lặp nghĩa (từ ghép trùng ứng)
* Ví dụ: núi non, binh lính, cấp bậc, may phúc, thay đổi, tìm kiếm,...
* Đặc điểm tạo nghĩa của từ ghép lặp nghĩa:
- Các hình vị trong nó là những yếu tố đồng nghĩa hoặc gần nghĩa, cùng
nhau gộp lại để biểu thị những ý nghĩa chung của từ ghép, chẳng hạn: binh

lính, thay đổi, tìm kiếm...
- Ý nghĩa của từ ghép này tương đương với ý nghĩa của từng hình vị
(trừ ý nghĩa ngữ pháp “tổng hợp”) khi những hình vị này được dùng như từ
đơn.
a3. Từ ghép đẳng lập đơn nghĩa (từ ghép đẳng lập đơn ứng)
7


* Ví dụ: chợ búa, đường sá, xe cộ, tre pheo, bếp núc, sầu muộn,...
* Đặc điểm tạo nghĩa của từ ghép đẳng lập đơn nghĩa
- Ý nghĩa của từ ghép ứng với ý nghĩa của hình vị rõ nghĩa nhất trong
số các hình vị có mặt (trừ ý nghĩa ngữ pháp tổng hợp). Chẳng hạn nghĩa của
từ “bếp núc” ứng với ý nghĩa “bếp” trừ ý nghĩa ngữ pháp tổng hợp.
- Ý nghĩa của hình vị còn lại có xu hướng phai dần, hư hóa, chỉ còn có
tác dụng góp sức tạo ra ý nghĩa tổng hợp của chung cả từ ghép.
b) Từ ghép chính phụ
Từ ghép chính phụ có những đặc trưng chung là:
- Quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong nó là quan hệ bất bình
đẳng, quan hệ chính phụ. Trong đó yếu tố chính thường giữ vai trò chỉ loại sự
vật lớn, loại đặc trưng lớn và yếu tố phụ thường được dùng để cụ thể hóa loại
sự vật, loại đặc trưng đó.
- Ý nghĩa của từ ghép chính phụ là ý nghĩa không tổng hợp và khi cần
cụ thể hóa nó thì có thể phân biệt trong đó ý nghĩa dị biệt, ý nghĩa sắc thái
hóa. Có thể chia từ ghép chính phụ thành 2 kiểu chính là: từ ghép chính phụ
dị biệt và từ ghép chính phụ sắc thái hóa.
b1. Từ ghép chính phụ dị biệt: là từ ghép trong đó tên gọi nêu ở thành
tố chính được cụ thể hóa bằng cách thêm vào một tên gọi ở thành tố phụ, làm
cho những sự vật cùng loại được gọi tên ở thành tố chính phân biệt được với
nhau nhờ thành tố phụ.
Ví dụ: - xe đạp, xe máy, xe lửa, xe bò ...

- dưa hấu, dưa gang, dưa chuột, dưa bở ...
- toán học, sử học, vật lý học, khảo cổ học…
- hợp tác hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa,…
b2. Từ ghép chính phụ sắc thái hóa: là từ ghép trong đó thành tố phụ
có tác dụng bổ sung một sắc thái ý nghĩa nào đó khiến cho toàn từ ghép này
khác nghĩa với thành tố chính khi thành tố chính hoạt động như từ đơn và từ
ghép sắc thái hóa này khác từ ghép sắc thái hóa khác về ý nghĩa.
8


Ví dụ:

- xanh lè, xanh um, xanh rì, xanh lục, xanh lơ ...
- thẳng đơ, thẳng tắp, thẳng đuột, thẳng tuột ...

2.2.2.2. Từ láy
Từ láy là “từ phức được tạo ra bằng phương thức láy âm có tác dụng
tạo nghĩa” [1, tr.58].
Để tạo ra nhạc tính cho sự hòa phối âm thanh đối với một ngôn ngữ
vốn giàu nhạc tính như tiếng Việt, sự láy không đơn thuần là sự lặp lại âm,
thanh của âm tiết ban đầu mà bao giờ cũng có sự biến đổi âm, thanh nhất
định, dù là ít nhất, để tạo ra cái thế vừa giống nhau lại vừa khác nhau.
Láy của tiếng Việt phải được hiểu là “sự hòa phối ngữ âm có tác dụng
biểu trưng hóa” [dẫn theo 1, tr.59). Ý nghĩa của từ láy là ý nghĩa biểu trưng, ý
nghĩa ấn tượng.
Căn cứ vào số luợng tiếng người ta thường chia từ láy ra làm 3 lớp: từ
láy đôi, từ láy ba, từ láy tư.
a) Từ láy đôi
Từ láy đôi được xem xét dựa vào cách cấu tạo tương ứng của hai tiếng
trong từ. Khi xem xét từ láy đôi, dựa vào yếu tố ngôn ngữ được lặp lại có thể

phân biệt các kiểu:
- Từ láy toàn bộ
- Từ láy bộ phận
a1. Từ láy toàn bộ: là từ láy trong đó tiếng gốc được lặp lại toàn bộ ở
tiếng láy với sự khác biệt về thanh điệu hoặc trọng âm.
Ví dụ:

- hao hao, lăm lăm, đùng đùng...
- đo đỏ, hơ hớ, sừng sững,...

a2. Từ láy bộ phận:
+ Từ láy âm đầu là từ có phụ âm đầu trùng lặp và có phần vần khác biệt
ở tiếng gốc và tiếng láy.
Ví dụ: đủng đỉnh, rung rinh, mộc mạc, lúc lắc, hể hả, ngo ngoe, hổn
hển, nhúc nhích, mỉa mai,...
9


+ Từ láy vần: là từ có phần vần trùng lặp và có phụ âm đầu khác biệt ở
tiếng gốc và tiếng láy.
Ví dụ: luẩn quẩn, bâng khuâng, chạng vạng, khéo léo, hấp tấp, tần
ngần, bỡ ngỡ, khúm núm, tẹp nhẹp,...
b) Từ láy ba
Từ láy ba là từ láy gồm 3 tiếng. Kiểu phối thanh thường gặp là:
- Tiếng thứ hai mang thanh bằng.
- Tiếng thứ nhất và thứ ba phải đối lập về âm vực hoặc âm điệu.
Ví dụ: sạch sành sanh, dửng dừng dưng, cỏn còn con, sát sàn sạt, ...
c) Từ láy tư
Là từ láy gồm 4 tiếng. Phần lớn từ láy tư có phần gốc là một từ láy đôi.
Ví dụ:


ấm ớ  ấm a ấm ớ
hì hục  hì hà hì hục
hăm hở hăm hăm hở hở

2.2.2.3. Từ ngẫu kết
Ngoài ra, tiếng Việt còn có một lớp từ mà người bản ngữ hiện nay
không thấy giữa các thành tố cấu tạo của chúng có quan hệ gì về ngữ âm hoặc
ngữ nghĩa. Vì vậy, từ góc độ phân loại, cần tách chúng ra và gọi là các từ
ngẫu kết (từ ngẫu hợp) với ngụ ý: các tiếng tổ hợp với nhau ở đây một cách
ngẫu nhiên. Ví dụ: bồ câu, bồ hòn, bồ nông, mồ hóng, mồ hôi, kì nhông, cà
nhắc, vằn thắn, lục tàu xá, a-xít, mit tinh, sơ mi, mùi xoa, xà phòng, cao su, ca
cao, hắc ín, sô-cô-la..

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Từ là gì? Tiếng là gì? Phân biệt từ và hình vị trong tiếng Việt.
2. Đơn vị cấu tạo từ tiếng Việt là gì?
3. Các căn cứ để phân loại từ về mặt cấu tạo? Các lớp từ phân loại về
cấu tạo là gì?
4. Phân biệt từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ.
10


5. Thế nào là từ láy toàn bộ, từ láy bộ phận? Cho ví dụ.
6. Thế nào là từ ngẫu kết? Cho ví dụ.
7. Vạch ranh giới từ trong các đoạn văn sau:
a) “Đôi vai mẹ thành chai từ bao giờ không biết. Trên đôi vai ấy, ai để
chiếc bánh dầy vào. Bánh dầy màu nâu sẫm, có lúc nứt ra. Cái năm mẹ leo lên
núi gánh “đá trăm” xuống thuyền cho người ta chở lên tỉnh, ấy là năm cái vai mẹ
nứt to nhất, mất một làn da, rướm máu, dính cả vào đòn gánh. Con hỏi mẹ, mẹ

bảo: “Không đau, nó ê ra rồi”. Mẹ cởi trần, mặc yếm mà gánh. Lưng mẹ hoàn
toàn là một bãi xém nồi. Mẹ gánh củi đi bán. Mẹ gánh thóc từ đâu về, suốt đêm
xay giã để bán, để lấy tấm mà ăn, lấy cám nuôi lợn. Tháng nào mẹ cũng gánh
gạo đi một ngày đường ròng rã đến nơi con trọ học. Đôi vai ấy, con tin rằng suốt
đời mẹ, không bao giờ trở lại lành lặn như đôi vai người thường đâu mẹ ạ.
Nhưng chính đôi vai xương xẩu, bé nhỏ mỏng mảnh ấy lại gánh được bao nhiêu
thứ mà người thường không thể gánh nổi.” (Trích Tuổi thơ im lặng - Duy Khán).
b) Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái
kêu râm ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối,
muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi
mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào
tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn
man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn...” (Trích Hai đứa trẻ - Thạch Lam).
8. Xác định từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ trong các đoạn văn
sau:
a) Một hoàn cảnh, một nhịp sống, một thời đại đã ra đi. Tan biến rồi về
đìu hiu tỉnh nhỏ. Không còn nữa cảnh em gái nằm xem kiếm hiệp trong im
lặng cố hữu của quang cảnh. Đường mở rộng gấp bốn vệt lằn cũ. Người xe
chạy dào dạt như con nước lũ. Các cửa hàng, các khách sạn hiện hình đông
đúc, trẻ trung, mới lạ trong những kiến trúc tân kì. Loa hát oang oang. Tiếng
người cười nói rổn rảng... (Trích Ngoại thành - Ma Văn Kháng).

11


b) “Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt
của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy
sáng. Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng như vậy. Có người chỉ biết Nguyễn
Đình Chiểu là tác giả của Lục Vân Tiên, và hiểu Lục Vân Tiên khá thiên lệch
về nội dung và về văn, còn rất ít biết thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình

Chiểu, khúc ca hùng tráng của phong trào yêu nước chống bọn xâm lược Pháp
lúc đến bờ cõi nước ta cách đây một trăm năm....Nguyễn Đình Chiểu vốn là
một nhà nho, nhưng sinh trưởng ở đất Đồng Nai hào phóng, lại sống giữa lúc
nước nhà lâm nguy, vua nhà Nguyễn cam tâm bán nước để giữ ngai vàng,
nhưng khắp nơi, nhân dân và sĩ phu anh dũng đứng lên đánh giặc cứu nước.
Vì mù cả hai mắt, hoạt động của người chiến sĩ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu
chủ yếu là thơ văn. Và những tác phẩm đó, ngoài những giá trị văn nghệ, còn
quý giá ở chỗ nó soi sáng tâm hồn trong sáng và cao quý lạ thường của tác
giả, và ghi lại lịch sử của một thời khổ nhục nhưng vĩ đại.” (Trích Nguyễn
Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc - Phạm Văn Đồng).

12


CHƯƠNG 3. TỪ LOẠI TIẾNG VIỆT
(8 tiết)
3.1. Khái niệm từ loại và cơ sở phân loại từ
3.1.1. Khái niệm
“Từ loại là lớp từ có cùng bản chất ngữ pháp được phân chia theo ý
nghĩa phạm trù, theo khả năng kết hợp trong đoản ngữ (cụm từ), trong câu để
thực hiện chức năng ngữ pháp giống nhau.” [3, tr.28]
3.1.2. Căn cứ để phân loại từ
3.1.2.1. Ý nghĩa khái quát
“Ý nghĩa từ loại là ý nghĩa khái quát của từng lớp từ, trên cơ sở khái
quát hóa từ vựng thành khái quát hóa phạm trù ngữ pháp chung” [dẫn theo 1,
tr. 85]. Trong phạm vi đơn vị được xét là từ, thì ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa
chung cho một lớp từ. Đây là căn cứ đầu tiên để phân định từ loại. Ví dụ các
từ như thợ, trâu, trăng, sao, nhà, tình cảm,…có ý nghĩa khái quát là chỉ sự
vật, hiện tượng; còn các từ như ăn, học, đi, chạy…có ý nghĩa khái quát chỉ
hoạt động.

3.1.2.2. Khả năng kết hợp
Những từ cùng xuất hiện trong một bối cảnh, có khả năng thay thế nhau
ở cùng một vị trí, có tính chất thường xuyên, được tập hợp vào một lớp từ.
Các từ tạo ra bối cảnh thường xuyên cho những từ có thể thay thế nhau ở vị trí
nhất định được gọi là chứng tố (hay từ chứng) [1]. Với những từ loại lớn như
danh từ, động từ, tính từ; người ta tìm được lớp từ chứng này. Chẳng hạn từ
chứng cho danh từ thường là: những, các, mọi, cái, con, này, kia, đấy, đó, ấy,
này, nọ ..; từ chứng cho động từ thường là: đã, đang, sẽ, hãy, đừng, xong, rồi,
mãi, nữa ...; từ chứng cho tính từ thường là: rất, hơi, quá, lắm ...
3.1.2.3. Chức năng cú pháp
Tham gia vào cấu tạo câu, các từ có thể đứng ở một hay một số vị trí
nhất định trong câu, hoặc có thể thay đổi cho nhau ở vị trí đó và cùng biểu thị
một mối quan hệ về chức năng cú pháp với các thành phần khác trong cấu tạo
13


câu thì có thể phân vào một từ loại [1, tr.86]. Tuy nhiên vì thường một từ có
thể giữ nhiều chức năng cú pháp trong câu nên cần phải xem xét chức năng cú
pháp nào của từ là chủ yếu để làm căn cứ phân loại. Chẳng hạn, những từ có ý
nghĩa chỉ sự vật thường làm chủ ngữ, bổ ngữ; còn những từ chỉ hoạt động,
trạng thái thường làm vị ngữ…
3.2. Phân loại từ
Căn cứ vào các tiêu chí ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp, chức vụ cú
pháp, từ loại được chia thành hai lớp lớn đó là thực từ và hư từ.
Thực từ là lớp từ có ý nghĩa từ vựng- ngữ pháp, có chức năng biểu thị
sự vật, trạng thái, quá trình, trạng thái, đặc trưng của sự vật. Thực từ có khả
năng đảm nhận các thành phần, vị trí trong câu và có khả năng làm thành tố
chính trong cụm từ. Thực từ là tập hợp lớp nhất về số lượng trong vốn từ
vựng tiếng Việt; bao gồm: danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số từ.
Hư từ là lớp từ không có ý nghĩa từ vựng, chỉ biểu thị ý nghĩa ngữ pháp

hoặc ý nghĩa tình thái. Hư từ không có khả năng làm thành tố chính trong cụm
và nó được dùng kèm với thực từ với tác dụng nối kết, diễn đạt ý nghĩa tình
thái. Hư từ gồm phó từ, lượng từ, quan hệ từ, trợ từ, tình thái từ, chỉ từ, thán
từ.
(Xem tài liệu [3, tr.30-46])
3.2.1. Danh từ
3.2.1.1. Ý nghĩa khái quát
Danh từ là những từ mang ý nghĩa chỉ thực thể.
3.2.1.2. Khả năng kết hợp
Danh từ có khả năng làm thành tố chính trong cụm danh từ; có khả
năng kết hợp với các đại từ chỉ định: này, kia, ấy, nọ ...; có khả năng kết hợp
trực tiếp hay gián tiếp với số từ.
3.2.1.3. Chức năng cú pháp
Chức năng cú pháp chính của nó là làm chủ ngữ trong câu.
3.2.1.4. Phân loại và miêu tả
14


a) Danh từ riêng: Danh từ riêng là tên riêng của từng người, từng sự
vật cụ thể…Danh từ riêng bao gồm:
- Danh từ riêng chỉ tên người: Tên riêng của người Việt thường gồm 3
yếu tố: họ, đệm, tên.
Bên cạnh tên riêng chính thức, người Việt còn dùng tên riêng thông
dụng và tên riêng đặc biệt (bí danh, bút danh, biệt hiệu...).
- Danh từ riêng chỉ sự vật: gồm tên gọi một con vật cụ thể, tên gọi một
đồ vật cụ thể, tên gọi tổ chức xã hội cụ thể, địa danh...
b) Danh từ chung: là từ chỉ tên chung của một chủng loại sự vật, có
tính khái quát, trừu tượng, không có mối liên hệ đơn nhất giữa tên gọi và vật
cụ thể được gọi tên. Bao gồm các loại: danh từ chỉ đơn vị và danh từ chỉ sự
vật.

b1) Danh từ chỉ đơn vị: Đây là một tiểu loại danh từ rất đa dạng, bao
gồm các lớp từ không thuần nhất. Nét nổi bật của nó là khả năng kết hợp trực
tiếp, vô điều kiện với số từ (là danh từ đếm được tiêu biểu).
Nhóm danh từ chỉ đơn vị tính toán quy ước: (thường đứng ở vị
trí trung gian giữa số từ và danh từ chỉ chất liệu), ví dụ: cân, tạ, lít, yến, mét,
sào, mẫu, cốc, thúng, bó, chai, ly ...
Nhóm danh từ chỉ đơn vị tự nhiên (danh từ chỉ loại, loại từ): Đây
là một tiểu loại danh từ khá đặc biệt. Tiếng Việt có các danh từ chỉ loại chuyên
dùng như: con, tấm, bức, cái, chiếc, ngôi, hòn, đứa, thằng; có những danh từ chỉ
loại lâm thời như: người, ông, bà, cô, bác, anh, chị, em ..., cây, quả, lá, ngọn ...
b2) Danh từ chỉ sự vật
- Danh từ tổng hợp: danh từ tổng hợp dùng để gọi tên những sự vật
tồn tại thành từng tổng thể gồm nhiều sự vật cùng loại với nhau hoặc có
chung một số đặc điểm nào đấy. Ví dụ: quần áo, sách vở, chợ búa, đất đai,
bàn ghế ...
- Danh từ không tổng hợp: bao gồm các tiểu loại khác nhau

15


+ Nhóm danh từ chỉ chất liệu: biểu thị sự vật có ý nghĩa chỉ về chất liệu
ở các thể chất khác nhau. Ví dụ: nước, dầu, mỡ, khí, hơi, đường, bột, cát, sạn,…
+ Nhóm danh từ chỉ khái niệm thời gian, không gian: chốn, miền, phía
hướng, hồi, dạo, buổi, vụ, mùa, khi, lúc, thuở ...
+ Nhóm danh từ chỉ khái niệm về sự vật, sự việc, khái niệm trừu tượng:
sự, nỗi, niềm, cuộc, trận, phen, trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau, bắc ...
+ Nhóm danh từ chỉ người: bao gồm từ chỉ quan hệ thân thuộc, chức
vụ, nghề nghiệp, học hàm, tầng lớp xã hội ... Ví dụ: ông, bà, anh, chị, cô, bác,
đàn ông, đàn bà, bác sĩ, kỹ sư, học sinh, hiệu trưởng ...
+ Nhóm danh từ chỉ đồ vật, động vật, thực vật. Ví dụ: bàn, ghế, sách,

vở, tre, trúc, hoa, quả, trâu, bò, gà, vịt ...
+ Nhóm danh từ chỉ đơn vị tổ chức, địa lý, chẳng hạn: tỉnh, xã, phường,
đoàn, ủy ban, viện, khoa, trường ...
3.2.2. Động từ
3.2.2.1. Ý nghĩa khái quát
Động từ biểu thị ý nghĩa hoạt động, quá trình, trạng thái của đối tượng.
3.2.2.2. Khả năng kết hợp
Động từ làm trung tâm trong cụm động từ. Các từ chứng tiêu biểu của
động từ là: hãy, đừng, chớ, đã, đang, sẽ, đều, vẫn, cũng, xong, rồi, nữa ...
3.2.2.3. Chức năng cú pháp
Chức năng cú pháp chính là làm vị ngữ trong câu.
3.2.2.4. Phân loại và miêu tả
Dựa vào bản chất nghĩa – ngữ pháp của động từ, ta có thể chia động từ
thành hai loại lớn: Những động từ độc lập và những động từ không độc lập
a) Nhóm động từ độc lập
Động từ độc lập là những động từ tự thân có nghĩa. Chúng có thể dùng
độc lập, không cần một động từ khác đi kèm. Bao gồm:
- Nhóm động từ tác động đến đối tượng: loại động từ này đòi hỏi phải
có thành tố phụ (bổ ngữ) đi sau. Ví dụ: làm, cắt, chặt, quăng, trồng, vẽ...
16


- Nhóm động từ trao nhận: thường cần hai bổ ngữ. Ví dụ: cho, biếu,
tặng, bán, nhận, vay, mua ...
- Nhóm động từ gây khiến: loại này cũng cần hai bổ ngữ. Ví dụ: cấm,
bảo, bắt buộc, kêu gọi, đề nghị, xin, ép, khuyên, để...
- Nhóm động từ cảm nghĩ, nói năng: biết, hiểu, nghĩ, nghe, thấy...
- Nhóm động từ chuyển động: ra, vào, lên, xuống, đi, chạy, bò, lăn, kéo,
xô, đẩy...
- Nhóm động từ tồn tại hoặc tiêu biến: còn, có, biến, mất, hết...

- Nhóm động từ không tác động đến đối tượng. Ví dụ: ở, ngồi, đứng,
nằm, ngủ, thức, cười, cằn nhằn ...
- Nhóm động từ chỉ quan hệ diễn biến theo thời gian: bắt đầu, tiếp tục,
kết thúc, ngừng, thôi, hết ...
- Nhóm động từ chỉ quan hệ diễn biến trong không gian: gần, xa, ở ...
- Nhóm động từ trạng thái tâm lý: yêu, ghét, sợ, thích, mê ...
- Nhóm động từ tổng hợp: đi đứng, ra vào, trò chuyện ...
b) Nhóm động từ không độc lập
Là những động từ biểu thị tình thái vận động, quá trình nhưng tự thân
chưa mang nghĩa trọn vẹn. Bao gồm:
- Nhóm động từ chỉ quan hệ so sánh, đối chiếu: giống, khác, như, tựa,
in, hệt ...
- Nhóm động từ chỉ quan hệ đồng nhất: là, làm…
- Nhóm động từ chỉ quan hệ sở hữu: có
- Nhóm động từ biến hóa. Ví dụ: làm, trở thành, hóa, hóa ra ...
- Nhóm động từ tình thái:
+ Tình thái về sự cần thiết: cần, nên, phải, cần phải…
+ Tình thái về khả năng: có thể, không thể, chưa thể…
+ Tình thái về ý chí: định, toan, nỡ, dám…
+ Tình thái về mong muốn: mong, muốn, ước, tưởng, ngỡ…
+ Tình thái về sự tiếp thu chịu đựng: bị, mắc, phải, được…
17


+ Tình thái về đánh giá: cho, xem, thấy (thường kèm với từ “rằng”)
3.2.3. Tính từ
3.2.3.1. Ý nghĩa khái quát
Tính từ “là lớp từ chỉ ý nghĩa đặc trưng (đặc trưng của thực thể hay đặc
trưng của quá trình)” [1, tr.115].
3.2.3.2. Khả năng kết hợp

Tính từ thường làm thành tố trung tâm trong cụm tính từ. Từ chứng cho
tính từ là các phó từ như: rất, hơi, quá, lắm ...
3.2.3.3. Chức năng cú pháp
Tính từ thường làm vị ngữ trong câu.
3.2.3.4. Phân loại và miêu tả
Dựa vào nghĩa và khả năng kết hợp của tính từ (về ngữ pháp) có thể
chia tính từ thành các tiểu loại.
a) Những tính từ chỉ đặc trưng, tính chất tuyệt đối (không được đánh
giá theo thang độ): Ví dụ: riêng, chung, công, tư, chính, phụ, công cộng, đỏ
lòm, trắng phau, đen sì, xanh mượt ...
b) Những tính từ chủ đặc trưng thuộc về phẩm chất (được đánh giá
theo thang độ)
- Tính từ chỉ đặc trưng về màu sắc, mùi vị. Ví dụ: xanh, đỏ, vàng, đậm,
nhạt, thơm, thối, cay, ngọt, nhạt ...
- Tính từ chỉ tính chất phẩm chất. Ví dụ: tốt, đẹp, xấu, khéo, vụng, tầm
thường, quan trọng, phải, trái, hèn, mạnh, dũng cảm ...
- Tính từ chỉ đặc trưng về kích thước, số lượng. Ví dụ: to, nhỏ, nặng,
nhẹ, nhiều, ít, rậm, thưa, ngắn, dài, cao, thấp ...
- Tính từ chỉ đặc trưng về cường độ. Ví dụ: mạnh, yếu, nóng, lạnh...
- Tính từ chỉ đặc trưng về hình thể. Ví dụ: vuông, tròn, thẳng, gãy,
cong, méo, gầy, béo ...
- Tính từ chỉ đặc trưng về âm thanh. Ví dụ: ồn, im, ồn ào, im lìm ...

18


- Tính từ chỉ đặc trưng mô phỏng: chúng thường là từ láy. Ví dụ: ào ào,
đùng đùng, chênh vênh, gập ghềnh…
3.2.4. Số từ
3.2.4.1. Ý nghĩa khái quát

So với đại từ, số từ gần với thực từ hơn vì nó còn có những nét nghĩa
chân thực. Số từ gồm những từ biểu thị ý nghĩa số. Ý nghĩa số vừa có tính
chất thực, vừa có tính chất hư.
3.2.4.2. Khả năng kết hợp
Số từ phổ biến là được dùng kèm với danh từ để biểu thị số lượng sự
vật nêu ở danh từ. Số từ có thể có từ kèm bổ nghĩa cho nó (hạn chế): độ,
chừng, khoảng, hơn, ngót ...
3.2.4.3. Chức năng cú pháp
Có thể đảm nhiệm một số chức năng cú pháp như chủ ngữ, vị ngữ
nhưng rất hạn chế.
3.2.4.4. Phân loại
a) Số từ xác định: gồm những từ chỉ ý nghĩa số luợng chính xác, có thể
dùng để đếm, để tính toán về số lượng của sự vật như: một, hai, ba, năm,
trăm, hai phần ba, bốn phần năm ...
b) Số từ không xác định: biểu thị số không chính xác. Loại này có số
lượng không nhiều lắm.
Ví dụ: vài, dăm, mươi, vài ba, đôi ba, dăm ba, một vài, một hai, ba bảy,
hai ba, năm sáu, mấy (phân biệt với từ mấy là đại từ để hỏi) ...
3.2.5. Đại từ
3.2.5.1. Ý nghĩa khái quát
Đại từ là lớp từ dùng để thay thế và chỉ trỏ. Nghĩa của đại từ là biểu thị
các quan hệ định vị bao hàm cả nghĩa trỏ và thay thế. Ý nghĩa thay thế ở đây
là thay thế cái đã được gọi tên, cái đã được nói tới và được biết tới trước đó.
Ý nghĩa thay thế là thay thế về mặt cú pháp chứ không thay thế về từ loại.
3.2.5.2. Khả năng kết hợp: Đại từ có khả năng kết hợp rất hạn chế.
19


3.2.5.3. Chức năng cú pháp
Đại từ nói chung có thể đảm nhận được các chức năng cú pháp của

thực từ được thay thế.
3.2.5.4. Phân loại và miêu tả
a) Đại từ để trỏ
- Đại từ trỏ người, sự vật (đại từ xưng hô): tôi, tao, tớ, ta, mày, nó, hắn,
chúng tôi, chúng mày, chúng bay, họ, ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, chủ tịch,
bác sĩ, sếp ...
- Đại từ trỏ số lượng: bấy, bấy nhiêu,…
- Đại từ trỏ hoạt động, tính chất: thế, vậy…
b) Đại từ để hỏi
- Đại từ để hỏi về người, sự vật: ai, gì, nào (cái gì, cái nào)…
- Đại từ để hỏi về số lượng: bao giờ, bao lâu, mấy, bao nhiêu, bao lăm..
- Đại từ để hỏi về hoạt động tính chất: sao, vì sao, nào, thế nào, ra
sao…
3.2.6. Chỉ từ
3.2.6.1. Ý nghĩa khái quát
Chỉ từ là những từ trỏ nơi chốn, thời điểm xác định (định vị về thời
gian và không gian). Cách gọi khác là đại từ chỉ định (Lê Biên), chỉ định từ
(Diệp Quang Ban)
3.2.6.2. Khả năng kết hợp
Làm thành phần phụ sau trong cụm danh từ
3.2.6.3. Chức năng cú pháp
Có thể làm trạng ngữ hoặc chủ ngữ trong câu.
3.2.6.4. Phân loại
- Chỉ từ chỉ không gian: này, đây, đấy, đó, ấy, kia, kìa, nọ..
- Chỉ từ chỉ thời gian: bây giờ, giờ, rày, bấy giờ, nãy,…

20


3.2.7. Lượng từ

3.2.7.1. Ý nghĩa khái quát: là những từ biểu thị quan hệ về số luợng với
sự vật được nêu ở danh từ.
3.2.7.2. Khả năng kết hợp: chuyên dùng kèm với danh từ.
3.2.7.3. Chức năng: làm thành tố phụ trong cụm danh từ.
3.2.7.4. Phân loại:
+ Nhóm: “những, các, một”. Trong đó “những, các” ý nghĩa số nhiều;
“một” chỉ ý nghĩa số đơn.
+ Nhóm “mọi, mỗi, từng”: chỉ ý nghĩa phân phối về số lượng.
(Diệp Quang Ban gọi hai nhóm trên là định từ)
+ Nhóm “cả, tất cả, tất thảy, hết thảy, hết cả, cả thảy…” (Nhóm này
trước đây được xếp vào nhóm đại từ chỉ số lượng tổng thể)
3.2.8. Phó từ
3.2.8.1. Ý nghĩa khái quát: là những từ biểu thị ý nghĩa về quan hệ giữa
quá trình và đặc trưng với thực tại, biểu thị ý nghĩa về cách thức nhận thức và
phản ánh các quá trình và đặc trưng trong hiện thực.
3.2.8.2. Khả năng kết hợp: thường dùng kèm với động từ, tính từ.
3.2.8.3. Chức năng cú pháp: làm thành tố phụ trong cụm động từ, cụm
tính từ khi các cụm từ tham gia cấu tạo thành phần câu.
3.2.8.4. Phân loại
- Phó từ chỉ thời gian: đã, đang, sẽ, vừa, mới, sắp, từng…
- Phó từ chỉ sự khẳng định, phủ định: không, chưa, chẳng (chả), có..
- Phó từ chỉ ý nghĩa mệnh lệnh: hãy, đi, thôi, đừng, chớ, hẵng,…
- Phó từ chỉ sự so sánh, tiếp diễn: cũng, đều, vẫn, còn, mải, lại, cứ, mãi,
nữa…
- Phó từ chỉ mức độ: rất, quá, lắm, khá, khí, hơi…
- Phó từ chỉ ý nghĩa kết thúc, hoàn thành của hành động: xong, rồi…
- Phó từ chỉ kết quả: mất, được, lấy…

21



- Phó từ chỉ hướng diễn biến: ra, lên, xuống, đi, lại, sang, qua, lại, đến,
vào…
- Phó từ biểu thị sự đánh giá bất lợi: cho, phải…
- Phó từ chỉ tần số: thường, hay, năng, thường xuyên, luôn, luôn luôn…
3.2.9. Quan hệ từ
3.2.9.1. Ý nghĩa khái quát
Quan hệ từ là từ loại biểu thị ý nghĩa về quan hệ giữa các khái niệm và
đối tượng được phản ánh. Quan hệ từ biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa các từ,
các cụm từ, giữa các bộ phận của câu hoặc giữa các câu mà nó liên kết. Quan
hệ từ không có ý nghĩa từ vựng chỉ thuần túy mang ý nghĩa ngữ pháp.
3.2.9.2. Khả năng kết hợp
Không làm thành tố trung tâm trong cụm từ. Quan hệ từ được dùng để
nối kết các từ, các kết hợp từ, các câu, các đoạn văn với nhau.
3.2.9.3. Chức năng cú pháp
Không làm thành phần chính trong câu.
3.2.9.4. Phân loại
a) Quan hệ từ chính phụ: chỉ ý nghĩa quan hệ chính phụ. Chúng dùng
để nối kết thành tố phụ vào thành tố chính. Chẳng hạn: của, cho, bằng, do, vì,
bởi, tại, để, mà, về, đến, tới, từ, trong, ngoài, trên, dưới, giữa ...
b) Quan hệ từ đẳng lập: chỉ ý nghĩa quan hệ đẳng lập. Quan hệ từ
chuyên nối các thành tố có quan hệ đẳng lập. Chẳng hạn: và, với, cùng, hay,
hoặc, rồi, còn , là, thì, thà, chứ ...
3.2.10. Trợ từ
3.2.10.1. Ý nghĩa khái quát
Trợ từ là từ loại biểu thị ý nghĩa tình thái bằng cách nhấn mạnh vào từ,
kết hợp từ…có nội dung phản ánh liên quan đến thực tại mà người nói muốn
lưu ý người nghe. Chúng được dùng để nhấn mạnh vào một chi tiết nào đó
hoặc để biểu thị sự đánh giá của người nói đối với một sự tình trong câu.
3.2.10.2. Khả năng kết hợp

22


Trợ từ không có khả năng làm trung tâm trong cụm từ. Nó có thể đứng
trước từ mà nó bổ sung ý nghĩa tình thái.
3.2.10.3. Chức năng cú pháp
Không có khả năng làm thành phần câu.
3.2.10.4. Phân loại: chính, tự, ngay, cả, những, hàng, đích, đích thị,
chỉ, chỉ là, đến, đến cả, đến nỗi, thật ra, thì, là, mà, cái, ngay cả, ngay như,
ngay những, đúng, đúng là, ...
3.2.11. Tình thái từ
3.2.11.1. Ý nghĩa khái quát
Tình thái từ là từ loại biểu thị ý nghĩa tình thái trong quan hệ của chủ
thể phát ngôn với người nghe hay với nội dung được phản ánh, hoặc ý nghĩa
tình thái gắn với mục đích phát ngôn. Tuy tình thái từ có số lượng không
nhiều nhưng nó mang những sắc thái khá đa dạng. Nhờ nó mà người nói
(người viết) có thể bày tỏ được những sắc thái tình cảm và thái độ tế nhị đối
với người nghe, hoặc đối với nội dung câu nói.
3.2.11.2. Khả năng kết hợp
Tình thái từ không có mối liên hệ hình thức với từ đứng trước hoặc sau
chúng.
3.2.11.3. Chức năng cú pháp
Tình thái từ thường làm dấu hiệu chỉ rõ mục đích phát ngôn của câu.
3.2.11.4. Phân loại
- Tình thái từ nghi vấn: à, ư, nhỉ, nhé, chứ, chăng, hử, hả, không,
phỏng…
- Tình thái từ cầu khiến: đi, thôi, nào, với, kia, chứ…
- Tình thái từ thể hiện thái độ ngạc nhiên: nhỉ, ư..
- Tình thái từ cảm thán: thay, sao…
- Tình thái từ biểu hiện cảm xúc: a, á, ạ, vậy, mà, cơ, hử, nhé, đấy…

3.2.12. Thán từ
3.2.12.1. Ý nghĩa khái quát
23


Thán từ là từ loại dùng để biểu hiện cảm xúc, biểu lộ trực tiếp thái độ,
tình cảm chủ quan của chủ thể phát ngôn.
3.2.12.2. Khả năng kết hợp
Thán từ không có mối liên hệ hình thức với từ đứng trước hoặc sau
chúng.
3.2.12.3. Chức năng cú pháp
Thán từ vừa có vai trò như một từ, vừa có vai trò tương đương với một
câu và có thể đứng độc lập, tạo thành một khối riêng. Nó có thể dùng độc lập
như một câu đơn đặc biệt, có thể dùng kết hợp với các từ khác.
3.2.12.4. Phân loại
Một số thán từ thường gặp: ồ, ôi, chao ôi, ủa, chà, ơ hay, ô kìa, ơ này,
trời ơi, trời đất ơi, ái chà, eo ôi, a, hỡi, ơi, này, vâng, dạ ...
3.3. Hiện tượng chuyển di từ loại trong tiếng Việt
3.3.1. Định nghĩa về hiện tượng chuyển di từ loại
Chuyển di từ loại là hiện tượng phổ biến trong nhiều ngôn ngữ, nhất là
đối với ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập như tiếng Việt. Hiện tượng chuyển
di từ loại là sự chuyển hóa từ ở phạm trù từ loại hoặc tiểu loại này sang phạm
trù từ loại khác hoặc tiểu loại khác.
Khi chuyển loại, ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp và chức vụ cú
pháp của từ cũng thay đổi theo. Từ mới được tạo ra theo phương thức chuyển
loại có các đặc điểm:
- Giữ nguyên vỏ âm thanh của từ gốc;
- Mang nghĩa mới, nghĩa mới đó có quan hệ nhất định với nghĩa của từ
gốc;
- Mang những đặc trưng ngữ pháp mới (ý nghĩa khái quát, khả năng kết

hợp và chức năng làm thành phần câu thay đổi).
So với từ gốc ban đầu, từ đã chuyển loại mang nghĩa mới, đặc trưng
ngữ pháp mới nhưng vẫn nằm trong hệ thống với từ gốc ban đầu, nghĩa là

24


chúng có mối quan hệ nhất định nào đó với nhau về nghĩa chứ không hoàn
toàn tách biệt như từ đồng âm.
3.3.2. Một số kiểu chuyển loại thường gặp trong tiếng Việt
3.3.2.1. Hiện tượng chuyển loại thực từ thành hư từ (hiện tượng hư
hóa)
a) Danh từ, động từ chuyển loại thành quan hệ từ
Ví dụ:
- Rừng là của quý cần bảo vệ.  Đây là vườn hoa của nhà tôi.
- Trèo lên trên.

 Trên bàn có quyển sách.

- Nhà tôi ở Đà Nẵng.

 Tôi sống ở Đà Nẵng.

- Mẹ cho con đi chơi.

 Mẹ đưa quyển sách cho con.

b) Động từ, tính từ chuyển loại thành phó từ
Ví dụ:
- Trong tủ có tiền.


 Em có đi chơi không?

- Nhà không còn gạo.

 Vẫn còn yêu em.

- Tôi có quyển sách mới.  Tôi mới mua quyển sách.
- Cái áo này vừa với tôi  Tôi vừa may cái áo.
c) Động từ chuyển thành tình thái từ
Ví dụ: Tôi đi học

 Em về đi.

3.3.2.2. Hiện tượng chuyển loại giữa các thực từ
a) Chuyển loại giữa danh từ và động từ
- Chuyển loại danh từ thành động từ. Ví dụ:
+ đem cày đi cày ruộng
+ có ý thức  ý thức được việc đó
- Chuyển loại động từ thành danh từ. Ví dụ:
+ bó hai bó rau
+ đang suy nghĩ mông lung

 những suy nghĩ mông lung ấy

b) Chuyển loại giữa tính từ và danh từ
- Chuyển loại tính từ thành danh từ. Ví dụ:
25



×