Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà giang hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.47 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG ÁI XOAN

CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN Ở TỈNH
HÀ GIANG HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã Số: 60 31 02 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học Xã hội

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHẠM MINH SƠN
Phản biện 1: PGS.TS NGUYỄN THU NGHĨA
Phản biện 2: GS.TS NGUYỄN HỮU KHIỂN

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học Viện Khoa học Xã hội vào lúc: 8 giờ, ngày 29 tháng 10
năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại:


- Thư viên Học viện Khoa học Xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác tuyên truyền là một trong những bộ phận quan
trọng của công tác tư tưởng có nhiệm vụ phổ biến, truyền bá hệ tư
tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đến quần chúng nhân dân.
Quá trình toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ phát triển mạnh đã có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế,
chính trị thế giới nói chung và xu thế phát triển của các quốc gia, dân
tộc nói riêng. Các thế lực thù địch tăng cường thực hiện âm mưu,
hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa,
nhằm chống Đảng, Nhà nước ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng,
từng bước thay đổi mục tiêu, định hướng xã hội chủ nghĩa, tiến tới
thực hiện "đa nguyên chính trị", "đa đảng đối lập", lợi dụng các quan
hệ hợp tác, hội nhập, giao lưu, viện trợ... để sử dụng các chiêu bài
"tôn giáo", "dân tộc", "dân chủ", "nhân quyền" làm ngòi nổ, kết hợp
với răn đe, gây bạo loạn lật đổ…
Xác định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác tuyên
truyền miệng, Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa X) đã ban hành
Chỉ thị số 17-CT/TW, ngày 15-10-2007 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng (Khóa X) “Về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới”. Đảng bộ tỉnh
Hà Giang quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng nói chung,
công tác tuyên truyền miệng nói riêng, từng bước hoạt động có nề
nếp và đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, công tác tuyên
truyền của Đảng nói chung, của tỉnh Hà Giang nói riêng trong những
năm qua còn một số hạn chế, yếu kém như: (1) Một số cấp ủy chưa

thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền miệng nên
1


công tác kiện toàn tổ chức và quản lý, hướng dẫn hoạt động của đội ngũ
báo cáo viên các cấp còn nhiều bất cập. Đội ngũ báo cáo viên các cấp
đông nhưng chưa mạnh, trình độ lý luận chính trị, chuyên môn và kỹ
năng nghiệp vụ còn nhiều hạn chế; (2) Việc kiểm tra công tác tuyên
truyền miệng và hoạt động báo cáo viên chưa được tiến hành thường
xuyên, ở cả Trung ương và địa phương; (3) Việc xây dựng nội dung
chương trình, nhất là việc lựa chọn các chuyên đề chuyên sâu, đảm bảo
tính thời sự, tính thiết thực, đáp ứng nhu cầu thông tin nhanh, những vấn
đề “nóng”, bức xúc, nhạy cảm cho đội ngũ và việc xây dựng kế hoạch,
tổ chức hội nghị báo cáo viên thường kỳ, hoặc đột xuất các cấp còn giản
đơn, thiếu khoa học, chưa có nhiều phương án để lựa chọn nên có lúc, có
nơi chất lượng còn hạn chế. Chưa có nhiều chuyên đề hay, ấn tượng;
chưa xây dựng và kết nối chặt chẽ được một đội ngũ cộng tác viên tâm
huyết, chuyên nghiệp. Còn bị động trong việc mời giảng viên, một số
giảng viên kỹ năng thuyết trình còn chưa đạt yêu cầu, thông tin thiếu
tính định hướng, tính dự báo còn thấp, chưa sát với tình hình; (4) đội
ngũ báo cáo viên, vẫn còn một bộ phận năng lực diễn thuyết, đối
thoại và ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác tuyên truyền còn
hạn chế.
Yêu cầu đặt ra lúc này là vừa phát triển kinh tế xã hội nhanh,
bền vững, vừa đảm bảo giữ trật tự an toàn xã hội, góp phần ổn định
an ninh biên giới, đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm giải pháp nâng cao chất lượng
công tác tuyên truyền nói chung, tuyên truyền miệng nói riêng của
Đảng bộ tỉnh Hà Giang để chuyển tải chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, các văn bản chỉ đạo của cấp uỷ, chính

quyền các cấp đến với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân
2


trong tỉnh là nhiệm vụ cấp thiết, để thống nhất ý chí và hành động
trong xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc
phòng, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội là yêu tố
quan trọng, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và tính thời sự sâu sắc, góp
phần bảo vệ vững chắc vùng biên cương của Tổ quốc.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, tôi chọn đề tài “Chất lượng
công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà
Giang hiện nay”, làm luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Chính trị học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Về sách chuyên khảo và bài viết trên tạp chí chuyên
ngành:
Ngô Huy Tiếp, Đinh Ngọc Giang (2010), Nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác tư tưởng ở cơ sở.
Ngô Huy Tiếp (2011), Những vấn đề lý luận về công tác tư
tưởng của Đảng hiện nay.
Trần Doãn Tiến, Trần Viết Lưu (2015), Nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác tuyên giáo, đáp ứng yêu cầu của tình hình
mới, Tạp chí Tuyên giáo số 1 – 2015.
Nguyễn Mạnh Hùng (2015), Ninh Bình: Lựa chọn giải pháp
đối thoại để nâng cao hiệu quả tuyên truyền miệng, Tạp chí Tuyên
giáo số 3 – 2015.
Nguyễn Văn Vững, Bắc Ninh, Chú trọng đổi mới, nâng cao
chất lượng đội ngũ báo cáo viên, Tạp chí Báo cáo viên tháng 3-2016.
Nguyễn Văn Tuấn, Hòa Bình, Mười năm triển khai, thực
hiện Chỉ thị số 17-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng trong

hoạt động báo cáo viên, Tạp chí Báo cáo viên tháng 5-2017.
3


* Về đề tài khoa học:
Đề tài khoa học (Mã số ĐTĐL 2003-17) Nghiên cứu, phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới, do Nguyễn Hồng Vinh
làm chủ nhiệm.
Lương Khắc Hiếu (2006), Tư tưởng, phong cách Hồ Chí
Minh và một số suy nghĩ về công tác tuyên truyền hiện nay.
Đàm Văn Bông, Hà Giang, Giải pháp nâng cao năng lực đội
ngũ báo cáo viên cơ sở tỉnh Hà Giang, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà
Giang, Đề tài 2010.
* Về luận án, luận văn:
Vũ Văn Vở (2009), Chất lượng công tác tuyên truyền miệng
của các đảng bộ huyện ở tỉnh Hải Dương, Luận văn Thạc sĩ Khoa
học chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Lâm Quang Minh (2011), Chất lượng công tác tuyên truyền
miệng của các đảng bộ quận ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị - Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Vũ Thị Diễm Hương (2013), Chất lượng công tác tuyên
truyền miệng ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học
chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Phạm Chí Hiếu (2015), Đổi mới công tác tuyên truyền của
Đảng bộ thành phố Cần Thơ giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa
học chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực trạng chất

lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh
4


Hà Giang, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
công tác này đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các khái niệm, quan điểm của Đảng về vai
trò, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo
cáo viên đối với sự phát triển.
- Phân tích thực trạng chất lượng công tác tuyên truyền
miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh
Hà Giang hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chất lượng công tác tuyên truyền miệng
của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu công tác tuyên truyền miệng
của đội ngũ báo cáo viên cấp tỉnh, huyện và thành phố ở tỉnh Hà
Giang từ năm từ 2010 đến 2015 gắn liền với hoạt động của đội ngũ
này trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ 16, nhiệm
kỳ 2015-2020; một số sự kiện nổi bật: Đại hội thi đua yêu nước tỉnh
Hà Giang lần thứ 5 (năm 2014); đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 15, nhiệm kỳ 2010-2015. Các giải pháp định
hướng đến năm 2025.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Luận văn dựa vào phương pháp luận các quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
5


Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ trương, đường lối, nghị quyết của
Đảng ta về công tác chính trị - tư tưởng, công tác tuyên truyền, hoạt
động tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản của
khoa học xã hội và nhân văn:
5.2.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
5.2.2. Phương pháp nghiên cứu, so sánh
5.2.3. Phương pháp điều tra xã hội học kết hợp phỏng vấn
sâu
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ tầm quan
trọng của công tác tuyên truyền miệng và giải pháp nâng cao chất
lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh
Hà Giang.
- Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng
và Ban Tuyên giáo các cấp nói chung và của Đảng bộ tỉnh Hà Giang
nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 03 chương, 06 tiết.

6



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN
1.1. Khái niệm, vai trò, nội dung và đặc điểm công tác
tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên
1.1.1. Khái niệm tuyên truyền, công tác tuyên truyền
miệng, đội ngũ báo cáo viên
Tuyên truyền: Là một bộ phận cấu thành của công tác tư
tưởng. Khi xem xét công tác tư tưởng như một quá trình liên tục, V.I.
Lênin khẳng định công tác tư tưởng có ba hình thái: Công tác lý luận,
công tác tuyên truyền và công tác cổ động (hay gọi là ba bộ phận).
Công tác tuyên truyền miệng: Là phương thức tuyên truyền
được tiến hành chủ yếu bằng lời nói trong giao tiếp trực tiếp nhằm
mục đích nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực
hành động của người nghe.
Báo cáo viên của Đảng: Là chức danh để chỉ những người làm
công tác tuyên truyền miệng trong tổ chức Đảng, đoàn thể, cơ quan
Nhà nước và nhân dân dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các cấp
ủy Đảng và cơ quan nhà nước
1.1.2. Vai trò của công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ
báo cáo viên
Công tác tuyên truyền góp phần xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam
có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức và sức
khỏe; sống có văn hóa, văn minh, giàu lòng yêu nước và tinh thần
quốc tế trong sáng. C.Mác viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không
thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị
đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực
7



lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [33, tr.580]. Vai
trò của công tác tuyên truyền miệng chính là làm cho “Lý luận thâm
nhập vào quần chúng” để qua đó “Trở thành lực lượng vật chất”.
1.1.3. Nội dung công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ
báo cáo viên
* Tuyên truyền chính trị
* Tuyên truyền về kinh tế
* Tuyên truyền về văn hóa
* Tuyên truyền về quốc phòng, an ninh
* Tuyên truyền về đối ngoại
* Tuyên truyền đấu tranh chống các quan điểm sai trái của
các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa.
1.1.4. Đặc điểm công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ
báo cáo viên
Thứ nhất, tuyên truyền miệng là phương thức thực hiện
thông qua sự giao tiếp trực tiếp, nhằm cung cấp và trao đổi thông tin
giữa người nói và người nghe.
Thứ hai, tuyên truyền miệng là hình thức tuyên truyền thực
hiện được chức năng thông tin hai chiều, thông qua cơ chế đối thoại
giữa người nói với người nghe.
Thứ ba, tuyên truyền miệng là hình thức tuyên truyền chủ
yếu chuyển tải thông tin bằng ngôn ngữ nói.
1.2. Quan niệm về chất lượng, tiêu chí đánh giá và các
yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác tuyên truyền miệng
của đội ngũ báo cáo viên
1.2.1.Quan niệm về chất lượng công tác tuyên truyền miệng
của đội ngũ báo cáo viên


8


Chất lượng nội dung công tác tuyên truyền miệng thông qua
việc tổ chức, ban hành văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy.
Cơ sở vật chất, kỹ thuật, hệ thống các thiết chế phục vụ công
tác tuyên truyền miệng: Chất lượng, hiệu quả của các thiết chế phục
vụ cho công tác tuyên truyền miệng được đo bằng độ bền, tiêu chuẩn
kinh tế, kỹ thuật, khả năng đáp ứng yêu cầu phục vụ công tác tuyên
truyền miệng.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác tuyên truyền
miệng của đội ngũ báo cáo viên
1.2.2.1. Tiêu chí về nội dung, hình thức tiến hành công tác
tuyên truyền
Nhiệm vụ, nội dung công tác tuyên truyền thường có sự chỉ
đạo thống nhất, định hướng của Trung ương, việc đánh giá chất
lượng nội dung, phương thức tiến hành công tác tuyên truyền phải
xem xét kết quả thực hiện chỉ thị, hướng dẫn của trên và việc vận
dụng sáng tạo ở cấp cơ sở.
1.2.2.2. Tiêu chí về tổ chức bộ máy, phẩm chất và năng lực
của đội ngũ báo cáo viên trong công tác tuyên truyền miệng
1.2.2.3. Tiêu chí về tài chính, cơ sở vật chất, phương tiện
công tác tuyên truyền:
1.2.2.4. Tiêu chí về nhận thức của các cấp ủy Đảng
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác tuyên
truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên
Với đặc thù là tỉnh miền núi biên giới cực Bắc của Tổ quốc, có
vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng; có biên giới trên đất liền giáp
với Trung Quốc; điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, địa hình hiểm trở,
chủ yếu là đồi núi cao, độ dốc lớn, giao thông đi lại khó khăn. Dân số


9


trên 80 vạn người, với 19 dân tộc, trong đó dân tộc thiểu số chiếm
trên 88%; trình độ dân trí thấp.
1.2.3.1. Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền
1.2.3.2.Cơ chế chính sách, chế độ đãi ngộ
1.2.3.3.Yếu tố về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ
thuật phục vụ công tác tuyên truyền miệng
Nếu như việc đầu tư kinh phí cho công tác trong tuyên truyền
hạn chế, thiếu trọng tâm, thiếu đồng bộ chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ; chưa có chương trình, đề án đầu tư cho công tác này; điều kiện
làm việc của đội ngũ báo cáo viên chưa được cải thiện; việc tuyên
truyền qua công nghệ thông tin hiện đại ít được áp dụng vì không có
đủ điều kiện... Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu
quả công tác tuyên truyền miệng thấp.
Kết luận Chương 1
Trong thời đại bùng nổ thông tin, Đảng ta luôn quan tâm, chú
trọng đến công tác tuyên truyền nói chung, tuyên truyền miệng nói
riêng, quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước; đề ra các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng
đến công tác tuyên truyền nói chung, tuyên truyền miệng nói riêng;
kịp thời ban hành các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng lãnh đạo,
chỉ đạo công tác tuyên truyền miệng, vận dụng sáng tạo và phù hợp
thực tiễn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an
ninh, quốc phòng và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội. Đó
là những tiền đề, là nền tảng tư tưởng quan trọng của Đảng lãnh đạo
quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong tình hình

mới.

10


Chương 2
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CỦA
ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN Ở TỈNH HÀ GIANG – THỰC
TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Đặc điểm của tỉnh Hà Giang
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên
Hà Giang là tỉnh miền núi biên giới cực Bắc của Tổ quốc, có
vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng; có đường biên giới trên đất liền
tiếp giáp với Trung Quốc dài 277,56 km. Diện tích tự nhiên là
7.914,889 km2, chủ yếu là đồi núi cao, độ dốc lớn.
2.1.2. Về văn hóa - xã hội
Dân số trên 80 vạn người, với 19 dân tộc cùng sinh sống, dân tộc
thiểu số chiếm trên 88%; (trong đó: Dân tộc Mông chiếm 31,5%, dân tộc Tày
26%, dân tộc Dao 15,4%... còn lại là các dân tộc khác);
2.1.3. Về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
Tính đến năm 2016, tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh
(GRDP) đạt 6,5% so với năm 2015 (Nông lâm nghiệp - thủy sản tăng
4,3%; công nghiệp - XDCB tăng 7,8%; dịch vụ tăng 7,2%, thuế sản
phẩm tăng 8,3%). Cơ cấu kinh tế (theo VA): Nông lâm nghiệp và thủy
sản chiếm 32,66%; công nghiệp và xây dựng chiếm 24,13%; Dịch vụ
chiếm 43,21%. Tổng sản phẩm bình quân đầu người 20,5 triệu đồng.
2.2. Thực trạng chất lượngcông tác tuyên truyền miệng của
đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang
2.2.1. Thực trạng chất lượng nội dung, hình thức tuyên
truyền miệng

2.2.1.1. Về chất lượng nội dung tuyên truyền
Về mức độ phù hợp của thông tin: 30% ý kiến cho rằng nội
dung thông tin phù hợp; 43,3% ý kiến cho rằng thông tin phù hợp có
11


mức độ; 26% ý kiến cho rằng thông tin chưa phù hợp.
2.2.1.2. Về hình thức tuyên truyền
- Tổ chức hội nghị báo cáo viên cấp tỉnh, huyện.
- Tổ chức hội nghị học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị
của Trung ương, của tỉnh.
- Tổ chức đối thoại, tọa đàm nhân kỷ niệm các ngày lễ, ngày
kỷ niệm.
- Tuyên truyền thông qua các buổi nói chuyện thời sự, kể
chuyện công tác, đây là hình thức được hầu hết mọi người yêu
thích bởi tính hấp dẫn của yếu tố thời sự, lịch sử.
2.2.1.2. Những hạn chế, yếu kém
- Nội dung công tác tuyên truyền miệng còn nặng về đưa tin;
chất lượng học tập, quán triệt, triển khai nghị quyết còn hạn chế, nội
dung còn dài, dàn trải, thiếu trọng tâm.
- Phương pháp trình bày của một bộ phận không nhỏ báo cáo
viên, tuyên truyền viên theo phương pháp độc thoại, thiếu sức thuyết
phục, đơn điệu một chiều ...
2.2.2. Thực trạng tổ chức bộ máy, chất lượng đội ngũ báo
cáo viên làm công tác tuyên truyền miệng ở tỉnh Hà Giang
2.2.2.1. Về tổ chức bộ máy
Về cơ cấu đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp:
- Giới tính: Nữ chiếm 23,65%
- Dân tộc thiểu số (Tày, Dao, Mông, Nùng, La Chí, Pà Thẻn,
Ngạn, Giáy…) chiếm 71,41% ; dân tộc kinh chiếm28,58%.Về cơ cấu

trong cấp ủy các cấp chiếm 58,96%.
2.2.2.2. Về chất lượng đội ngũ báo cáo viên tuyên truyền
miệng

12


Từ việc phân tích, đánh giá chất lượng thực chất đội ngũ báo
cáo viên cho thấy: Năng lực làm nhiệm vụ báo cáo viên, nhất là cấp
cơ sở của tỉnh còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém, đặc biệt là khả năng
phân tích, tổng hợp, kỹ năngthuyết trình, phương pháp đối thoại, định
hướng thông tin…cho nên việc nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên là yêu cầu cấp
thiết hiện nay.
2.2.2.3. Những hạn chế, yếu kém
- Việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ báo
cáo viên, tuyên truyền viên chưa được quan tâm đúng mức, nhất là ở
cơ sở.
- Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên đông nhưng chưa
mạnh, phương thức hoạt động một chiều từ trên xuống, ít chú trọng
nắm bắt thông tin hai chiều, công tác nắm bắt, phản ánh dư luận xã
hội, tâm tư, nguyện vọng, diễn biến tư tưởng trong nhân dân chưa
thường xuyên, kịp thời, thiếu khả năng đối thoại.
2.2.3. Thực trạng đầu tư tài chính, cơ sở vật chất cho công
tác tuyên truyền miệng ở tỉnh Hà Giang
2.2.3.1. Về đầu tư tài chính
Các cấp ủy đảng trong tỉnh thực hiện đúng Hướng dẫn liên
Ban số 06-HD/TCTW-BTGTW, ngày 15-8-2011 của Ban Tổ chức Ban Tuyên giáo Trung ương về thực hiện chế độ phụ cấp trách nhiệm
đối với báo cáo viên các cấp theo Thông báo số 13-TB/TW, ngày
28/3/2011 của Bộ Chính trị.

2.2.3.2. Về đầu tư cơ sở vật chất

13


Bảng 2.2: Kết quả khảo sát cơ sở vật chất phục vụ công tác tuyên truyền

Mức độ đáp
ứng

Mức độ

của Đáp ứng

Đáp ứng một

CSVC

Chưa đáp ứng

phần
SL

%

Hội trường

120

40.0


130

43.3

50

16.7

Âm thanh

160

53.3

130

43.3

10

3.3

150

50.0

90

30.0


60

20.0

Công

SL

%

SL

%

nghệ

thông tin

Qua kết quả điều tra về mức độ đáp ứng về cơ sở vật chất cho
thấy: cơ sở vật chất như hội trường, âm thanh đáp ứng nhu cầu và
đáp ứng 70%, còn lại chưa đáp ứng được nhu cầu; công nghệ thông
tin chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế cao hơn 60%. Số lượng báo
cáo viên được trang cấp một số thiết bị cơ bản như máy ghi âm, máy
ảnh, máy tính đạt tỷ lệ thấp khoảng 30%
2.2.3.3. Những hạn chế, yếu kém
- Việc đầu tư kinh phí phụ cấp cho đội ngũ báo cáo viên còn
hạn chế, ngoài chế độ phụ cấp theo Hướng dẫn của Trung ương, kinh
phí của địa phương hỗ trợ thêm cho công tác tuyên truyền còn hạn
chế.

- Việc đầu tư các trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho công
tác tuyên truyền miệng còn ít
2.2.4. Thực trạng về nhận thức của các cấp ủy Đảng đối
với công tác tuyên truyền miệng và hoạt động của báo cáo viên
Đã hình thành và tổ chức được mạng lưới báo cáo viên,
tuyên truyền viên từ tỉnh đến cơ sở xã, thôn; cấp ủy đảng trực tiếp chỉ
đạo nội dung tuyên truyền. Riêng đối với các huyện, xã biên giới của
tỉnh, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên là lực lượng nòng cốt
14


thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền. Tuy nhiên, một số cấp ủy cơ sở
chưa quan tâm trong quá trình lãnh đạo, hướng dẫn hoạt động tuyên
truyền miệng…những hạn chế, yếu kém nêu trên ảnh hưởng lớn đến
chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng.
2.3. Kết quả, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra về chất
lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở
tỉnh Hà Giang
2.3.1. Kết quả của công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ
báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy tỉnh, với phương châm
thiết thực, hiệu quả, tăng cường tính chiến đấu, tính thuyết phục, giữ
vững mặt trận tư tưởng của Đảng và tinh thần đổi mới không ngừng,
công tác tuyên truyền miệng trên địa bàn tỉnh được đổi mới cả về nội
dung, hình thức và phương thức hoạt động, cơ bản đáp ứng yêu
nhiệm vụ cách mạng hiện nay trên địa bàn tỉnh Hà Giang
2.3.2. Nguyên nhân của ưu điểm
Nguyên nhân chủ quan:
Một là, cấp ủy Đảng các cấp nhận thức đúng vai trò, vị trí
của công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên. Cấp ủy

Đảng, người đứng đầu (Trực tiếp là Bí thư cấp ủy) đã quan tâm đến
hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên.
Hai là, các cấp uỷ đảng đã chủ động xây dựng hướng dẫn, kế
hoạch tuyên truyền cụ thể triển khai đồng bộ đến cấp cơ sở; phát huy
vai trò của cả thống chính trị cùng tham gia tuyên truyền miệng.
Ba là, nội dung và hình thức tuyên truyền miệng ngày càng
phong phú, đa dạng.
Nguyên nhân khách quan:
Một là, tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc
15


phòng của tỉnh trong những năm qua luôn được giữ vững ổn định,
kinh tế có mức tăng trưởng khá, đời sống vật chất, tinh thần của cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân từng bước được nâng lên; sự
quan tâm, đầu tư của Nhà nước về hệ thống cơ sở hạ tầng, phát triển
giáo dục, y tế, hạ tầng giao thông…
Hai là, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp ủy tỉnh, Ban
Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng các hoạt
động trên các lĩnh vực của công tác tuyên giáo.
Ba là, Thiết chế văn hóa, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác
tuyên truyền miệng từng bước được quan tâm đầu tư.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
Một là, mặc dù các cấp ủy đảng đã nhận thức đúng vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng, song có nơi cấp
ủy đảng chưa lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng lực lượng, nâng cao
hiệu quả hoạt động của đội ngũ báo cáo viên đúng tầm, còn có biểu
hiện giao khoán cho Ban Tuyên giáo các cấp; cơ sở vật chất, trang
thiết bị, phương tiện phục vụ công tác tuyên truyền miệng hạn chế.
Hai là, sự suy thoái về đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị

của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong hệ thống chính trị ở một số ngành, đơn vị, cơ sở đã làm giảm
sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Ba là, công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên
môn, nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác tuyên truyền miệng ở một
số nơi chưa quan tâm về công tác tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố
trí và sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền miệng.
Bốn là, nội dung, phương pháp tuyên truyền miệng đã được
chú trọng, đổi mới, song chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn
hiện nay.
16


Nguyên nhân khách quan:
Một là, trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới có nhiều
diễn biến phức tạp, cuộc chạy đua quyền lực và cạnh tranh về lợi ích
giữa các quốc gia đang diễn ra gay gắt. Xung đột sắc tộc, tôn giáo,
xung đột vũ trang với mức độ và quy mô lớn trên thế giới đang diễn
ra, nguy cơ chiến tranh lạnh đang tái xuất hiện. Tình trạng quan liêu,
tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả...
đã và đang tác động đến tư tưởng, tâm trạng cán bộ, đảng viên, nhân
dân.
Hai là, cơ chế, chính sách đãi ngộ và cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại phục vụ cho hoạt động tuyên truyền miệng, còn thiếu, chưa
kịp thời đầy đủ; chưa tạo động lực thu hút, động viên những người có
tâm huyết, năng lực phát huy cao nhất khả năng của mình.
2.3.4. Những vấn đề đặt ra về chất lượng công tác tuyên
truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang
2.3.4.1. Về chất lượng nội dung, phương thức tuyên truyền
miệng

Thứ nhất, cần giải quyết giữa yêu cầu đổi mới nội dung
tuyên truyền miệng với việc chậm đổi mới phương pháp tuyên truyền
miệng trong tình hình mới.
Thứ hai, cần giải quyết giữa yêu cầu đổi mới nội dung,
phương pháp tuyên truyền miệng với nhận thức hạn chế, thiếu quan
tâm và chưa nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm của báo cáo viên,
của cấp ủy cơ sở.
Thứ ba, giải quyết yêu cầu giữa tăng cường sử dụng phương
pháp đối thoại trong hoạt động tuyên truyền miệng với năng lực báo
cáo viên hạn chế về kỹ năng và nghiệp vụ sư phạm.
2.3.4.2. Về tổ chức bộ máy, chất lượng đội ngũ báo cáo viên
17


Giải quyết giữa yêu cầu nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền miệng với yêu cầu tuyển chọn, sử dụng đội ngũ báo cáo viên.
Vấn đề giữa vị trí, vai trò, tầm quan trọngcông tác tuyên
truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên với nhận thức chưa đầy đủ
của cấp ủy đảng.
2.3.4.3. Về đầu tư tài chính, cơ sở vật chất cho công tác
tuyên truyền miệng ở tỉnh Hà Giang
Yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao về năng lực của báo cáo
viên, tuyên truyền viên với những bất cập về chế độ, chính sách đối
với đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở
Kết luận chương 2
Để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc hội nhập quốc tế, mặc dù
còn nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng chung của tình hình thế
giới và trong nước. Song, cấp ủy, chính quyền các cấp tỉnh Hà Giang
đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quan điểm, chủ trương của Đảng
trên lĩnh vực tư tưởng- văn hóa nói chung, công tác tuyên truyền

miệng nói riêng vào điều kiện thực tiễn đối với một tỉnh miền núi,
biên giới, dân tộc. Cấp ủy tỉnh đã không ngừng lãnh đạo, chỉ đạo đổi
mới nội dung, hình thức, phương pháp và đa dạng hóa các loại hình
tuyên truyền, nhằm đạt được mục tiêu nhân dân dễ hiểu, dễ nhớ, dễ
thực hiện. Đồng thời, củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng công
tác tuyên truyền miệng; tích cực đặt ra những vấn đề mới, phát sinh
cần giải quyết. Qua đó, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng
thuận của nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 – 2015, định hướng đến năm 2020.

18


Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN Ở
TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY
3.1.Dự báo những nhân tố tác động, mục tiêu nâng cao
chất lượng công tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên
ở tỉnh Hà Giang
3.1.1. Dự báo những nhân tố tác động đến chất lượng công
tác tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang
3.1.1.1.Tình hình quốc tế
Trong tình hình hiện nay, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là
xu thế lớn; xu thế đa cực hóa và dân chủ hóa quan hệ quốc tế tiếp tục
phát triển, tạo thuận lợi cho Việt Nam triển khai hiệu quả chính sách
đối ngoại độc lập, tự chủ, tranh thủ nguồn lực để phát triển nhanh,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
3.1.1.2. Tình hình trong nước
Thành tựu của công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực chính trị,

kinh tế- xã hội, an ninh- quốc phòng qua hơn 30 năm đổi mới là hết
sức to lớn, tạo ra thế và lực mới cho đất nước phát triển, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
3.1.1.3.Tình hình trong tỉnh Hà Giang
Tiếp tục tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tập trung phát
huy những lợi thế, tiềm năng của tỉnh và bước đầu khai thác có hiệu
quả; định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục ổn định
và có bước phát triển, duy trì và tăng trưởng khá…
3.1.2. Mục tiêu nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền
miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang
19


3.1.2.1.Mục tiêu chung
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các loại hình
tuyên truyền, góp phần thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng trong sạch, vững
mạnh.
3.1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hai là, tiếp tục tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và
nhân dân tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, hưởng ứng các
phong trào thi đua yêu nước, xây dựng đời sống văn hóa, học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Ba là, kiên quyết đấu tranh, phòng chống âm mưu, hoạt động
“diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ thành quả cách

mạng của Đảng và nhân dân; định hướng dư luận về những quan
điểm, tư tưởng sai trái, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ Đảng
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII.
Bốn là, các cấp ủy Đảng từ tỉnh đến cơ sở, các đảng viên đều
phải có trách nhiệm tuyên truyền miệng về chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước trong đó báo cáo viên là lực
lượng nòng cốt.
Năm là, Cấp ủy Đảng các cấp, người đứng đầu các cơ quan,
đơn vị có trách nhiệm xây dựng, lãnh đạo, quản lý hoạt động của đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và xây dựng bộ máy báo cáo
viên, tuyên truyền viên có đủ phẩm chất, khả năng đáp ứng yêu cầu,
20


nhiệm vụ trong tình hình mới.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Hà Giang
3.2.1. Tăng cường công tác lãnh đạo và chỉ đạo của cấp ủy
đảng đối với hoạt động của đội ngũ báo cáo viên
Cấp ủy cơ sở phải đổi mới nhận thức, phong cách lãnh đạo về
tổ chức hoạt động của đội ngũ báo cáo viên ở cấp mình, xác định đây
là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác lãnh đạo tư
tưởng chính trị của cấp ủy cơ sở hiện nay.
3.2.2.Nâng cao chất lượng nội dung, hình thức tuyên
truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên
Chỉ đạo đội ngũ báo cáo viên không ngừng đổi mới nội dung
và phương pháp tuyên truyền miệng.
3.2.3. Xây dựng tổ chức bộ máy hoạt động của đội ngũ báo
cáo viên đáp ứng yêu cầu mới
3.2.3.1.Công tác quy hoạch đội ngũ báo cáo viên

Làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn nghiệp vụ, lý luận chính trị đối với quy hoạch chức danh bí thư,
phó bí thư Đảng ủy cơ sở.
3.2.3.2. Xây dựng đội ngũ báo cáo viên
Về số lượng: cấp tỉnh không quá 45 báo cáo viên; cấp huyện
không quá 30 báo cáo viên; cấp xã, phường, thị trấn từ 8 đến 13
tuyên truyền viên (Đối với vùng cao, vùng sâu, vùng biên giới có thể
số lượng 8 đến 10 người; vùng thấp có thể bố trí số lượng tối đa
không quá 15 người).
- Về cơ cấu giới tính:
- Về xây dựng nhóm chuyên đề
3.2.3.3. Tổ chức hoạt động của đội ngũ báo cáo viên
21


Một là, Cấp ủy các cấp trong tỉnh phải xây dựng quy chế tổ chức
và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên.
Hai là, Cấp ủy là chủ thể quản lý và điều hành hoạt động của báo
cáo viên theo quy chế.
Ba là, Đội ngũ báo cáo viên các cấp trong tỉnh hoạt động dưới sự
điều hành, giám sát của Ban Tuyên giáo cùng cấp.
3.2.3.4. Tổ chức đánh giá hoạt động của báo cáo viên
3.2.3.5. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng
3.2.4. Tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí công tác đối
với báo cáo viên
3.2.4.1. Lựa chọn đội ngũ báo cáo viên
- Phải dự báo về phẩm chất, năng lực, nhất là xu hướng phát
triển năng lực trí tuệ là điểm cốt yếu, vì trí tuệ là tiền đề nhận biết và
khả năng phân tích, tổng hợp, khả năng sử dụng ngôn ngữ nói chuẩn
xác, khả năng thuyết trình tốt, khả năng dự báo tốt.

- Xây dựng quy hoạch cán bộ cần đảm bảo yêu cầu cân đối,
đáp ứng các tiêu chí sau: Ưu tiên lựa chọn cán bộ trẻ, có khả năng
làm báo cáo viên lâu dài; về cơ cấu dân tộc và giới tính phải cơ cấu
hợp lý theo tỷ lệ dân cư; về chuyên môn cần chú trọng các lĩnh vực
như làm công tác Đảng, công tác chính quyền, đoàn thể, ngành nông
– lâm nghiệp…
3.2.4.2. Đào tạo, bồi dưỡng báo cáo viên
3.2.4.3. Bố trí công tác đối với báo cáo viên
3.2.4.4. Thực hiện chế độ nghiên cứu, tham quan thực tế
3.2.4.5. Tổ chức thi báo cáo viên giỏi
3.2.5.Tăng cường đầu tư tài chính, cơ sở vật chất cho công
tác tuyên truyền miệng
3.2.5.1. Thực hiện các chế độ thù lao cho báo cáo viên
22


3.2.5.2. Đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công tác tuyên truyền
miệng
Kết luận Chương 3
Trong các nhóm giải pháp đã nêu, có những giải pháp mang
tính đột phá, đó là giải pháp về quy hoạch đội ngũ báo cáo viên, công
tác đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lâu dài (Trong đó khâu lựa chọn
người vào quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp bố trí công tác là
khâu then chốt trong công tác này). Cùng với đó, việc đổi mới nhận
thức của cấp ủy là vô cùng quan trọng mang tính quyết định đối với
công tác báo cáo viên, chỉ khi nhận thức đúng đắn mới có thể hành
động đúng. Với đặc thù của tỉnh Hà Giang, khi thực hiện các giải
pháp nêu trên, phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa phương
để xác định điểm xuất phát từ giải pháp nào, với từng cách làm phù
hợp với đặc điểm cụ thể của địa phương.


23


×