Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Bảo đảm quyền lợi của người lao động theo pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 87 trang )

4

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ LAM HỒNG

BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG
THEO PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS DƢƠNG ĐỨC CHÍNH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi và chưa
được công bố trong công trình nào khác. Những con số, ý kiến khoa học trong
luận văn được tham khảo và sử dụng đúng quy định.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017.



Tác giả

Phan Thị Lam Hồng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ
NƢỚC VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI
CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1 Sự cần thiết của việc bảo vệ quyền lợi người lao động khi cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước
1.2 Khái niệm, nguyên tắc, nội dung bảo đảm quyền và vai trò của pháp luật trong việc
bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
1.3 Quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về quyền lợi người
lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƢỜI
LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
2.1 Quyền lợi chung của những người lao động có tên trong danh sách thường xuyên
của doanh nghiệp tại thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa.
2.2 Quyền lợi của người lao động tiếp tục làm việc tại Công ty cổ phần
2.3 Quyền lợi của người lao động đủ điều kiện nghỉ hưu
2.4 Quyền lợi của người lao động sẽ chấm dứt Hợp đồng lao động
2.5 Quyền lợi của người lao không bố trí được việc làm khi cổ phần hóa doanh nghiệp

1

9
9

13
16

27
27
33
35
37
38

Nhà nước
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VÀ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước
3.2 Phương hướng, giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo
đảm quyền lợi người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước

45
45

KẾT LUẬN

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

78


66


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
1

CPH

Cổ phần hóa

2

CTCP

Công ty cổ phần

3

DNNN

Doanh nghiệp Nhà nước

4

NLĐ

5

Quyết định số 202-


Quyết định số 202-CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch

CT ngày 8/6/1992

Hội đồng Bộ trưởng về việc tiếp tục làm thí điểm

Người lao động

chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty
cổ phần.
6

Nghị định 28/CP

Nghị định số 28/CP ngày 07/5/1996 của Chính phủ về

ngày 07/5/1996

chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty
cổ phần.

7

8

9

10


11

Nghị định

Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/1998 của

44/1998/NĐ-CP

Chính phủ về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành

ngày 29/06/1998

Công ty cổ phần.

Nghị định

Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 của Chính

41/2002/NĐ-CP

phủ về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp

ngày 11/4/2002

lại doanh nghiệp Nhà nước.

Nghị định

Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 của Chính


64/2002/NĐ-CP

phủ về chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành

ngày 19/6/2002

Công ty cổ phần.

Nghị định

Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của

187/2004/NĐ-CP

Chính phủ về việc chuyển công ty Nhà nước thành

ngày 16/11/2004

Công ty cổ phần.

Nghị định

Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của

109/2007/NĐ-CP

Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà


ngày 26/6/2007

12

Nghị định

Nghị định 110/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của

110/2007/NĐ-CP

Chính phủ về chính sách đối với người lao động dôi

ngày 26/6/2007
13

nước thành Công ty cổ phần.

dư do sắp xếp lại công ty Nhà nước.

Nghị định

Nghị định 91/2010/NĐ-CP ngày 20/8/2010 của Chính

91/2010/NĐ-CP

phủ quy định chính sách đối với người lao động dôi

ngày 20/8/2010

dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.


14

15

Nghị định

Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính

59/2011/NĐ-CP

phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước

ngày 18/7/2011

thành Công ty cổ phần.

Nghị định

Nghị định 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 của Chính

60/2013/NĐ-CP

phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao

ngày 19/6/2013

động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm
việc

16


Nghị định

Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 của Chính

63/2015/NĐ-CP

phủ quy định chính sách đối với người lao động dôi

ngày 22/7/2015

dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

17

Thông tư

Thông tư 127/2014/TT-BTC ngày 5/9/2014 của Bộ

127/2014/TT-BTC

Tài chính hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá

ngày 5/9/2014

trị doanh nghiệp khi thực hiện chuyển doanh nghiệp
100% vốn Nhà nước thành CTCP



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cổ phần hóa (CPH) Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là một trong những chủ
trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm chuyển đổi các DNNN thành Công
ty cổ phần (CTCP) - loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, dễ dàng huy động
vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, để nâng cao năng lực tài chính,
đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế cũng như bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh
nghiệp, nhà đầu tư và người lao động (NLĐ) trong doanh nghiệp.
CPH DNNN gắn liền với thay đổi cơ cấu công nghệ và đổi mới phương thức
quản lý doanh nghiệp sẽ có những tác động to lớn, trực tiếp, cả tác động tích cực lẫn
tác động tiêu cực đến cuộc sống của NLĐ trong doanh nghiệp CPH. Do vậy, việc đảm
bảo quyền lợi cho những NLĐ trong doanh nghiệp CPH là rất cần thiết. Thêm vào đó,
việc đảm bảo quyền lợi cho NLĐ sẽ tạo động lực để họ phát huy vai trò làm chủ thực
sự của mình, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác CPH các DNNN.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo đảm quyền lợi NLĐ trong quá
trình CPH các DNNN, trong quá trình triển khai chủ trương CPH các DNNN của
Việt Nam từ những năm 1990 đến nay, chúng ta cũng đã xây dựng được hệ thống
các quy định pháp luật làm khung pháp lý cơ bản để điều chỉnh các vấn đề liên quan
đến CPH các DNNN nói chung và vấn đề đảm bảo quyền lợi cho NLĐ khi CPH
DNNN nói riêng.
Tại Thông tư 33/2012/TT-BLĐTBXH ngày 20/12/2012 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện chính sách đối với NLĐ theo quy định
tại Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về chuyển doanh
nghiệp 100% vốn Nhà nước thành Công ty cổ phần (đang có hiệu lực áp dụng) –
sau đây gọi tắt là Thông tư 33/2012/TT-BLĐTBXH ngày 20/12/2012 hướng dẫn
Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 đã quy định tương đối đầy đủ những
quyền lợi cơ bản của NLĐ được áp dụng cho từng nhóm đối tượng trong DNNN
CPH: quyền được mua cổ phần với giá ưu đãi, được chia số dư bằng tiền của Quỹ
khen thưởng, Quỹ phúc lợi… được áp dụng chung đối với những NLĐ có tên trong
danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm công bố giá trị doanh


1


nghiệp CPH; quyền được hưởng chế độ hưu trí đối với những NLĐ đủ điều kiện
nghỉ hưu; quyền được hưởng chế độ trợ cấp thôi việc đối với những NLĐ sẽ chấm
dứt hợp đồng lao động; quyền được hưởng chế độ của NLĐ dôi dư đối với những
NLĐ không bố trí được việc làm và đủ điều kiện; quyền được hưởng chế độ trợ cấp
mất việc đối với những NLĐ không đủ điều kiện hưởng chế độ đối với lao động dôi
dư… Những quy định này là những hành lang pháp lý cơ bản, quan trọng bảo đảm
cho quyền lợi của NLĐ, tạo điều kiện cho NLĐ nâng cao vị thế của mình trong
DNNN CPH cũng như góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình CPH
DNNN đến cuộc sống của NLĐ.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến việc
bảo đảm quyền lợi cho NLĐ tại các DNNN CPH, xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khách quan, chủ quan khác nhau… mà quyền lợi của NLĐ chưa được bảo đảm một
cách tốt nhất. Có nhiều NLĐ không có đủ tiền để mua cổ phần ưu đãi dành cho họ
do giá cổ phần ưu đãi vẫn còn cao so với thu nhập của họ; có trường hợp NLĐ mua
được cổ phần ưu đãi nhưng chỉ với số lượng rất ít ỏi; có trường hợp NLĐ không
được chia số dư từ Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh nghiệp để mua cổ
phần ưu đãi; có nhiều trường hợp NLĐ vẫn bị nợ lương, không được trả sổ bảo
hiểm xã hội… Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật nảy sinh nhiều vướng
mắc, bất cập cho thấy việc nghiên cứu để không ngừng hoàn thiện pháp luật nhằm
bảo đảm tốt hơn nữa quyền lợi của NLĐ khi CPH DNNN là rất cần thiết và có ý
nghĩa to lớn không chỉ đối với bản thân NLĐ mà còn góp phần nâng cao hiệu quả
công tác CPH đang còn tồn tại nhiều vấn đề ở Việt Nam hiện nay.
Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Bảo đảm quyền lợi của ngƣời lao động
theo pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam hiện nay”
để nghiên cứu làm Luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

CPH DNNN là một chủ trương lớn của Nhà nước ta được triển khai thử nghiệm
từ những năm 1990 – 1991, chính thức thực hiện từ năm 1992, được đẩy mạnh từ năm
1996 và quá trình CPH các DNNN diễn ra đến nay đã được hơn 20 năm. Trong quá
trình chúng ta tiến hành CPH các DNNN, có khá nhiều công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học về vấn đề CPH DNNN nói chung. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu

2


một cách quy mô, kỹ lưỡng liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền lợi cho NLĐ trong
quá trình CPH DNNN không nhiều và chủ yếu được tiến hành trong giai đoạn đẩy
mạnh CPH DNNN ở nước ta, có thể kể đến một số công trình sau đây:
- “Chế độ, quyền lợi người lao động khi cổ phần hóa DNNN” – Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường - Khoa Pháp luật kinh tế - Trường Đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội, 2007;
- Nguyễn Thị Minh Trang - “Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong
quá trình cổ phần hóa DNNN với thực tiễn tại Hà Nội” – Luận văn Thạc sỹ Luật
học, Hà Nội, 2009;
- Nguyễn Xuân Vinh – “Bảo vệ quyền lợi người lao động trong và sau quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước: Pháp luật và thực tiễn” – Luận văn
Thạc sỹ Luật học, Hà Nội, 2009;
- Nguyễn Thanh Hải “Bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quá trình cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước” – Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội, 2012.
Có thể thấy, trong 4 công trình khoa học nêu trên chỉ có 03 công trình Luận văn
Thạc sỹ nghiên cứu liên quan đến vấn đề quyền lợi của NLĐ trong DNNN cổ phần
hóa và có 01 là đề tài nghiên cứu khoa học về vấn đề này. Ngoài các công trình nêu
trên, theo tác giả tìm hiểu thì còn có một số Khóa luận tốt nghiệp cử nhân nghiên cứu
về vấn đề này, tuy nhiên ở cấp độ Luận văn Thạc sỹ Luật học, tác giả xin phép không
trích dẫn những Khóa luận tốt nghiệp này.[37]
Đối với đề tài khoa học của Khoa Pháp luật kinh tế - Trường Đại học Luật Hà

Nội, các tác giả đã đưa ra một cách hệ thống, kỹ lưỡng các vấn đề liên quan đến
việc bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong và sau CPH các DNNN theo quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, đề tài khoa học được thực hiện từ năm 2007, các quy định
pháp luật được phân tích theo Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành CTCP (Nghị định 109/2007/NĐCP ngày 26/6/2007) – đã hết hiệu lực thi hành từ ngày 05/9/2011 trong khi chính
sách, pháp luật về CPH DNNN nói chung và vấn đề bảo đảm quyền lợi cho NLĐ
trong quá trình CPH DNNN nói riêng đã có nhiều sửa đổi, bổ sung.
Đối với Luận văn của Thạc sỹ Nguyễn Thị Minh Trang [39], tác giả Luận văn
đã đưa ra được những nội dung cơ bản của vấn đề CPH các DNNN như: khái niệm
3


CPH, tính tất yếu khách quan của CPH DNNN, mục tiêu và các hình thức CPH,
những tác động của CPH DNNN đến quyền lợi của NLĐ. Tuy nhiên, tác giả tập trung
dung lượng lớn (9 trang/17 trang của Chương 1) để phân tích về khái niệm CPH và
các hình thức CPH DNNN, 8 trang còn lại tác giả mới đưa ra vấn đề sự tác động của
CPH DNNN đến quyền lợi của NLĐ nhưng tác giả lại không phân tích quá trình hình
thành và phát triển các quy định pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá
trình CPH DNNN từ khi triển khai CPH đến nay làm cơ sở để phân tích, so sánh với
các quy định pháp luật hiện hành (tại thời điểm tác giả triển khai Luận văn thì Nghị
định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 đang có hiệu lực). Thạc sỹ Nguyễn Thị Minh
Trang cũng đã đưa ra những quy định pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền lợi của
NLĐ theo quy định tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 nhưng không có
những so sánh, đối chiếu, đánh giá với các quy định pháp luật trong giai đoạn trước.
Thêm vào đó, tác giả tập trung vào việc phân tích những chính sách, mục tiêu và thực
trạng quá trình CPH các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội và đánh giá một
cách sơ lược tập trung vào việc giải quyết chế độ cho NLĐ dôi dư chứ không phân
chia cụ thể theo các nhóm đối tượng. Từ đó, phần kiến nghị phương hướng hoàn
thiện pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền lợi cho NLĐ chưa được toàn diện cho các
nhóm đối tượng theo các quyền lợi cụ thể của họ đã được pháp luật quy định mà chỉ

tập trung theo các vấn đề đã được tác giả nghiên cứu trên phạm vi thành phố Hà Nội.
Đối với Luận văn của Thạc sỹ Nguyễn Xuân Vinh [45], tác giả có đưa ra được
những vấn đề cơ bản liên quan đến CPH DNNN nhưng chưa phân tích chỉ rõ tác
động của CPH DNNN đến quyền lợi NLĐ. Vấn đề này chỉ được tác giả chỉ ra trong
hơn 01 trang (trang 17-18) của Luận văn chưa cho người đọc thấy được vai trò và
sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN. Luận văn
cũng có đưa ra vấn đề kinh nghiệm CPH DNNN ở một số nước trên thế giới nhưng
chủ yếu tập trung vào vấn đề CPH nói chung mà chưa chỉ ra được kinh nghiệm áp
dụng đối với Việt Nam trong việc bảo đảm quyền lợi cho NLĐ trong quá trình CPH
DNNN. Thêm vào đó, Luận văn nghiên cứu dàn trải cả vấn đề bảo đảm quyền lợi
cho NLĐ trong quá trình CPH DNNN và sau quá trình CPH DNNN nên chưa phân
tích kỹ lưỡng được những thực trạng thực hiện pháp luật và hướng hoàn thiện cụ thể
liên quan đến bảo vệ quyền lợi NLĐ trong quá trình CPH DNNN.

4


Đối với Luận văn của Thạc sỹ Nguyễn Thanh Hải [24], tại công trình của
mình, tác giả đã trình bày được vấn đề sự cần thiết phải bảo đảm quyền lợi của
NLĐ trong quá trình CPH DNNN một cách tương đối toàn diện, đầy đủ. Tuy nhiên,
công trình này chưa đi vào nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các
quy định pháp luật về vấn đề này. Thêm vào đó, mặc dù tác giả có nghiên cứu vấn
đề quyền lợi của NLĐ trong DNNN CPH theo quy định của Nghị định
59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước
thành CTCP (Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011), tuy nhiên trong vấn đề
quyền lợi của NLĐ dôi dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên do Nhà nước làm chủ sở hữu thì tác giả trình bày nội dung theo quy định tại
Nghị định 91/2010/NĐ-CP ngày 20/8/2010 quy định chính sách đối với NLĐ dôi
dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm
chủ sở hữu (Nghị định 91/2010/NĐ-CP ngày 20/8/2010) – đến thời điểm hiện tại đã

được thay thế bằng Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 quy định chính sách
đối với NLĐ dôi dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do
Nhà nước làm chủ sở hữu (Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015) cho nên các
kiến nghị của tác giả liên quan đến việc giải quyết quyền lợi cho NLĐ dôi dư tại
DNNN CPH cũng không còn phù hợp bởi các quy định đã được sửa đổi tại Nghị
định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 nêu trên.
Tóm lại, các công trình nêu trên đề cập đến các khía cạnh khác nhau về đảm bảo
quyền lợi cho NLĐ theo các quy định của pháp luật trong giai đoạn trước khi Nghị
định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 và Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015
được ban hành. Hiện tại, chưa có công trình nào nghiên cứu về việc bảo đảm quyền
lợi NLĐ trong quá trình CPH DNNN theo quy định pháp luật hiện hành với cấp độ
của một Luận văn Thạc sỹ luật học. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy
định hiện hành về vấn đề bảo đảm quyền lợi cho NLĐ trong quá trình CPH DNNN,
những tồn tại, vướng mắc và hướng hoàn thiện trong thời gian tới là rất cần thiết. Vì
vậy, tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu thực hiện Luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục đích sau: Nghiên cứu hệ thống các
quy định pháp luật, đặc biệt là quy định pháp luật hiện hành và thực trạng thực hiện

5


pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN, từ đó đưa ra
một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như có biện pháp để bảo đảm tốt
hơn nữa quyền lợi cho NLĐ trong DNNN tiến hành CPH. Để thực hiện mục đích
này, Luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích những vấn đề cơ bản về CPH DNNN và sự cần thiết của việc đảm
bảo quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN.
- Phân tích, so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật về bảo đảm quyền lợi
của NLĐ trong quá trình CPH DNNN trong các giai đoạn khác nhau, trong đó tập

trung vào các quy định pháp luật hiện hành.
- Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền lợi NLĐ
trong quá trình CPH DNNN.
- Trên cơ sở các nhận xét, đánh giá những vấn đề có liên quan và thực tiễn bảo
đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN, Luận văn sẽ đề xuất một số
giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH các DNNN.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN là một vấn đề lớn.
Vì vậy, trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sỹ không thể giải quyết được một
cách trọn vẹn tất cả các vấn đề có liên quan đến việc bảo đảm quyền lợi của NLĐ
trong doanh nghiệp CPH. Do đó, đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau đây:
Đối tƣợng nghiên cứu: Các quy định của pháp luật từ những năm 1990 tới
nay, tập trung vào các quy định pháp luật hiện hành theo quy định tại Nghị định
59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 và Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 về
bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN và thực trạng áp dụng các
quy định pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH các DNNN.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Các quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về
bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH các DNNN.

6


- Về không gian: Nghiên cứu trên bình diện chung của cả nước, tập trung hơn
vào một số doanh nghiệp thuộc Bộ xây dựng tiến hành CPH trong thời gian vừa qua
theo tìm hiểu và số liệu thu thập được của tác giả.
- Về thời gian: Các quy định của pháp luật từ những năm 1990 tới nay, tập trung vào
các quy định pháp luật hiện hành theo Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 (có hiệu
lực từ 05/9/2011 tới nay) về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận: Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin, những quan điểm chính trị của
Đảng cộng sản Việt Nam để làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản cũng như các quy
định pháp luật về CPH DNNN nói chung và vấn đề quyền lợi của NLĐ trong quá
trình CPH DNNN.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích,
so sánh, đối chiếu, hệ thống, tổng hợp, suy luận, diễn giải, quy nạp… để làm rõ các
quy định pháp luật liên quan đến việc bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình
CPH DNNN qua các giai đoạn khác nhau cũng như đưa ra những đánh giá của tác giả
trên cơ sở thông tin, dữ liệu thu thập được về vấn đề nghiên cứu của Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Ý nghĩa khoa học của Luận văn: Luận văn đã phân tích, so sánh một cách có
hệ thống các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền lợi của NLĐ
trong quá trình CPH DNNN qua các giai đoạn khác nhau khi tiến hành chủ trương
CPH các DNNN ở nước ta.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để kiến nghị hoàn thiện các quy định
pháp luật trong quá trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về CPH nói
chung và bảo đảm quyền lợi cho NLĐ khi CPH DNNN nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn cũng là tài liệu thực tiễn có thể dùng để
giảng dạy, tham khảo cho các chủ thể quan tâm tới vấn đề này.
Ý nghĩa thực tiễn của Luận văn: Thông qua việc phân tích các vấn đề lý
luận và các quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật
trong việc bảo vệ quyền - lợi ích hợp pháp của NLĐ khi CPH DNNN, Luận văn đã

7


chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật đối với NLĐ và
đưa ra một số các giải pháp cần thực hiện để góp phần hoàn thiện quy định về CPH

DNNN nhằm bảo đảm quyền lợi của NLĐ. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật
hiện hành về CPH DNNN nói chung và về quyền lợi của NLĐ khi CPH DNNN nói
riêng sẽ góp phần thúc đẩy chủ trương CPH được tiến hành mạnh mẽ, hiệu quả, tạo
động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu theo
ba chương:
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI
NGƢỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC.
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VÀ PHƢƠNG
HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG KHI
CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

8


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC VÀ
SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA
NGƢỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1. Sự cần thiết của việc bảo đảm quyền lợi cho ngƣời lao động khi cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc
DNNN là một mô hình doanh nghiệp không chỉ xuất hiện ở Việt Nam mà thực
chất là một mô hình đã ra đời và tồn tại phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đối

với Việt Nam, trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, DNNN đã được thành lập và
phát triển với số lượng, quy mô lớn. DNNN chi phối các ngành, lĩnh vực then chốt
và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực
hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vai trò là thành
phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, việc thành lập một cách
tràn lan, thiếu cơ sở khoa học cũng như thiếu cơ chế và kinh nghiệm để điều hành
DNNN hoạt động hiệu quả khiến cho nền kinh tế đất nước ta rơi vào tình trạng
khủng hoảng. DNNN tỏ ra hoạt động kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, chưa tương xứng với tiềm lực Nhà nước đầu tư cho DNNN [36, tr 127-136].
Thực trạng này dẫn tới yêu cầu tất yếu của việc sắp xếp, đổi mới hoạt động
của DNNN. Đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội thì vấn đề này trở nên vô cùng bức thiết. Từ quan điểm đó, Đảng
và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện sắp xếp và đổi mới DNNN. Hàng loạt giải
pháp quan trọng được tiến hành như chuyển một số DNNN thành CTCP, giao, bán,
khoán, cho thuê DNNN, và CPH DNNN là giải pháp được lựa chọn phổ biến.[21].
Có thể thấy, CPH DNNN là việc chuyển mình mạnh mẽ của DNNN từ hoạt
động có sự bảo đảm của Nhà nước sang hoạt động một cách độc lập, tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về quyết định của mình. Tuy nhiên, khi tiến hành CPH DNNN thì NLĐ
là đối tượng phải chịu những tác động to lớn và trực tiếp từ quá trình này. Việc bảo
vệ quyền lợi của NLĐ là vấn đề rất cần thiết, cần được chú trọng, quan tâm bởi lẽ:
1.1.1 Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tác động trực tiếp đến vấn đề
việc làm của người lao động

9


Việc làm là vấn đề được quan tâm đầu tiên và là mối quan tâm lớn nhất đối
với NLĐ trong cuộc đời của họ. CPH DNNN tác động trực tiếp đến vấn đề việc làm
của NLĐ, bởi lẽ khi CPH DNNN, mục tiêu đề ra là thay đổi, tổ chức lại cơ cấu quản
lý doanh nghiệp, sắp xếp lại quy trình sản xuất kinh doanh cho hợp lý và hiệu quả

hơn. Điều này kéo theo sự thay đổi trong việc bố trí, sử dụng lao động. Thêm vào
đó, sau khi CPH thì công nghệ và quy trình sản xuất, cơ chế quản lý lao động cũng
có thể thay đổi theo hướng giảm nhu cầu sử dụng lao động. Tính chất của công
nghệ hiện đại, tiên tiến được áp dụng trong quá trình sản xuất có thể khiến cho NLĐ
trong DNNN chưa được đào tạo hoặc đào tạo không phù hợp với yêu cầu mới sẽ bị
thay thế.
Ngoài ra, không chỉ tại thời điểm CPH mà ngay cả khi CTCP đã đi vào hoạt
động, NLĐ vẫn có thể đứng trước nguy cơ bị mất việc làm. Sau CPH, doanh nghiệp
huy động được một lượng vốn lớn để đầu tư công nghệ hiện đại, cơ cấu lại sản xuất
nên những NLĐ được giữ lại làm việc theo phương án sử dụng lao động lại tiếp tục
bị mất việc làm. Một số Công ty có thể đưa ra lý do thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm
việc hay giải thể xưởng sản xuất để chấm dứt hợp đồng lao động đối với NLĐ chỉ
một thời gian ngắn sau khi CPH.
Có thể thấy, NLĐ làm việc tại DNNN có tên trong danh sách lao động dôi dư sẽ
phải đi tìm việc làm mới nhưng trong tình trạng thiếu việc làm ở nước ta vẫn chưa
được giải quyết thì điều này là tương đối khó khăn với họ. Hơn thế nữa, nhiều NLĐ
dôi dư là những NLĐ lớn tuổi, làm việc lâu năm trong DNNN thì tìm một công việc
mới đối với họ là rất khó. Những NLĐ có thể bị thất nghiệp và gia tăng sức ép lên thị
trường lao động vốn đã căng thẳng do mất cân đối giữa cung và cầu như hiện nay.
Như vậy, khi CPH DNNN, NLĐ trong các doanh nghiệp CPH đứng trước
nguy cơ mất việc làm. Thêm vào đó, trong nhiều trường hợp trên thực tiễn, khi giải
quyết quyền lợi về việc làm cho NLĐ tại các doanh nghiệp CPH thì các doanh
nghiệp thực hiện chưa đúng quy định pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của NLĐ.
1.1.2 Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tác động trực tiếp đến thu nhập
của người lao động

10



Về mặt tích cực thì CPH DNNN về cơ bản sẽ mang lại thu nhập cao hơn cho
NLĐ tiếp tục làm việc tại CTCP do hiệu quả kinh doanh được nâng cao. Tuy nhiên,
điều này chỉ có ý nghĩa đối với NLĐ được chuyển sang làm việc tại doanh nghiệp
sau CPH. Đối với những NLĐ không được tiếp tục làm việc tại doanh nghiệp sau
CPH thì thu nhập của họ có thể bị ảnh hưởng theo hướng tiêu cực.
Như đã phân tích ở trên, đối với những NLĐ dôi dư thì kéo theo mất việc làm,
thu nhập NLĐ đương nhiên cũng bị ảnh hưởng. Nếu như trước đây tiền lương hàng
tháng của NLĐ là nguồn thu nhập chính để nuôi sống cả gia đình thì khi bị mất việc
làm, NLĐ sẽ tạm thời bị mất đi nguồn thu nhập này, đời sống của họ và những
người thân cũng bị ảnh hưởng. Họ có thể không có việc làm trong một khoảng thời
gian 1 - 2 tháng nhưng cũng có thể không thể tìm được việc làm mới. Điều đó đồng
nghĩa với việc NLĐ và gia đình của họ mất đi một khoản thu nhập quan trọng để
phục vụ những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Mặc dù lao động dôi dư được
hưởng một khoản trợ cấp nhưng nó chỉ mang tính chất tạm thời. Thêm vào đó, quá
trình giải quyết quyền lợi cho lao động dôi dư, nhiều doanh nghiệp cũng chưa đảm
bảo quyền lợi cho NLĐ theo quy định pháp luật. Nhiều sai phạm trong việc xác
định thời điểm cho NLĐ nghỉ việc, tính toán sai thời gian thực tế làm việc tại doanh
nghiệp đã khiến cho họ bị thiệt thòi khi tính trợ cấp thôi việc…
Ngoài ra, một vấn đề được NLĐ rất quan tâm đó là việc phân phối lợi ích từ quỹ
lương, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi khi doanh nghiệp CPH. Đây là nguồn tài chính
hỗ trợ cho NLĐ để mua cổ phần ưu đãi. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều doanh nghiệp lợi
dụng sự thiếu hiểu biết pháp luật của NLĐ đã không đảm bảo quyền lợi này cho NLĐ,
dẫn đến quyền lợi hợp pháp của họ bị xâm phạm. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến
thu nhập trực tiếp họ nhận được để mua cổ phần ưu đãi tại thời điểm phân phối lợi ích
mà còn ảnh hưởng đến số lượng cổ phần NLĐ có thể mua tại DNNN CPH và ảnh
hưởng tới mức cổ tức họ nhận được sau này khi doanh nghiệp phát triển hơn.
Từ những phân tích trên có thể thấy, CPH DNNN có tác động rất lớn đến cả
vấn đề thu nhập của NLĐ.
1.1.3 Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tác động trực tiếp đến vấn đề sở
hữu cổ phần của người lao động


11


Một trong những mục tiêu CPH DNNN đó là tạo điều kiện cho đông đảo NLĐ
có thể sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp CPH, trở thành những cổ đông, những
người chủ thực sự của doanh nghiệp, tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý
doanh nghiệp. Pháp luật cũng có những quy định cụ thể để tạo điều kiện cho NLĐ
trong việc sở hữu cổ phần của doanh nghiệp CPH. Tuy nhiên, trên thực tế dù đã có
sự ưu đãi về giá cho NLĐ khi mua cổ phần nhưng mức giá ấy dường như vẫn còn
chưa phù hợp với điều kiện của họ. NLĐ thường có đối tượng có những khó khăn
về kinh tế nên họ không đủ điều kiện để mua cổ phần ưu đãi của doanh nghiệp.
Trong trường hợp mua được số cổ phần ưu đãi của doanh nghiệp đi chăng nữa thì
sau đó cũng có thể họ sẽ bán lại số cổ phần này để hưởng mức chệnh lệch về giá.
Từ đó quyền sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp của họ không được đảm bảo.
Ngoài ra, khi CPH thì việc thực hiện phân phối lợi ích từ Quỹ lương, Quỹ
khen thưởng, Quỹ phúc lợi trong doanh nghiệp để tạo điều kiện cho NLĐ được sở
hữu thêm cổ phần trong nhiều trường hợp cũng không được các doanh nghiệp tuân
thủ các quy định pháp luật khiến cho quyền - lợi ích hợp pháp của NLĐ cũng bị
ảnh hưởng. Việc không được sở hữu cổ phần của doanh nghiệp CPH khiến quyền
lợi của NLĐ bị ảnh hưởng ở nhiều khía cạnh khác nhau. NLĐ đánh mất đi cả quyền
lợi về kinh tế (không được hưởng cổ tức, không được hưởng lợi khi giá cổ phiếu
trên thị trường tăng, không được quyền mua cổ phần tăng vốn khi CTCP tăng vốn
điều lệ…) lẫn quyền lợi về quản lý doanh nghiệp khi không được tham gia Đại hội
cổ đông để bàn bạc, biểu quyết quyết định những vấn đề quan trọng của doanh
nghiệp.
Tóm lại, NLĐ làm việc tại các DNNN là những người có sự gắn bó lâu dài,
đóng góp cho sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng cũng như sự phát triển của
nền kinh tế nói chung. Quá trình CPH DNNN sẽ có những tác động tích cực cũng
như tiêu cực đến đời sống của NLĐ. Do đó, công tác bảo đảm quyền lợi cho NLĐ

khi cổ phần hóa DNNN không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về
mặt xã hội. Việc không bảo đảm được quyền lợi của NLĐ khi CPH DNNN có thể
dẫn đến những phản ứng tiêu cực từ phía họ, gây ảnh hưởng tới sự thành công của
chủ trương CPH DNNN cũng như những tác động không tốt tới xã hội.

12


Từ những lý do trên, có thể khẳng định rằng việc bảo vệ quyền lợi cho NLĐ
khi CPH DNNN là hết sức cần thiết. Pháp luật về bảo đảm quyền lợi cho NLĐ khi
CPH DNNN sẽ tạo ra một cơ chế để bảo vệ NLĐ đồng thời cũng tạo ra một công cụ
giúp cho NLĐ có thể tự bảo vệ mình. Việc bảo đảm được những quyền và lợi ích
hợp pháp cho NLĐ không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân họ mà còn quyết định sự
thành công của chương trình CPH, góp phần ổn định xã hội và tăng cường sự phát
triển của nền kinh tế đất nước.
1.2. Khái niệm, nguyên tắc, nội dung bảo đảm quyền và vai trò của pháp
luật trong việc bảo đảm quyền lợi của ngƣời lao động khi cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nƣớc
- Khái niệm quyền lợi và bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước:
+ Quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN là những lợi ích của người
lao động làm việc trong DNNN được hưởng khi DNNN tiến hành cổ phần hóa,
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Khi xem xét dưới khía cạnh pháp lý, quyền lợi của người lao động khi cổ phần
hóa DNNN là các quy tắc xử xự chung áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức có liên
quan trong quá trình giải quyết quyền lợi cho người lao động trong DNNN tiến
hành CPH để bảo đảm việc thực hiện thành công chủ trương cổ phần hóa DNNN ở
Việt Nam hiện nay và bảo đảm tốt nhất quyền lợi của những người lao động tại
doanh nghiệp.
+ Bảo đảm quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN là việc tạo ra các

tiền đề, các điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để người lao
động được hưởng các quyền lợi của họ khi CPH DNNN đã được pháp luật ghi
nhận. Trong các tiền đề này, tiền đề về pháp lý đóng vai trò đặc biệt quan trọng bởi
nó tạo ra những cơ sở vững chắc trong việc ghi nhận quyền cũng như bảo đảm các
quyền lợi này được thực hiện trên thực tế.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước:

13


Việc tạo ra các tiền đề, các điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý
nhằm bảo đảm các quyền lợi cho người lao động khi CPH DNNN cần đảm bảo tuân
thủ một số nguyên tắc sau đây:
+ Đảm bảo các quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN được tiến hành
toàn diện, đồng bộ trên các lĩnh vực như: kinh tế, xã hội, pháp lý.
+ Đối với các bảo đảm pháp lý: các quyền lợi của người lao động khi CPH
DNNN phải được pháp luật ghi nhận đầy đủ và có biện pháp tổ chức thực hiện.
+ Đảm bảo các quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN phải đảm bảo
nguyên tắc công bằng giữa những người lao động trong DNNN cổ phần hóa.
+ Việc đảm bảo các quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN phải hướng
đến giải quyết toàn diện các vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người
lao động: vấn đề việc làm, vấn đề thu nhập, vấn đề quyền sở hữu cổ phần trong
DNNN cổ phần hóa …nhưng cần đặc biệt chú trọng đến việc giải quyết việc làm
cho người lao động.
+ Các hành vi vi phạm quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN cần
được xử lý nghiêm minh.
- Nội dung bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước:
Như đã phân tích ở mục 1.1 thì việc cổ phần hóa DNNN tác động trực tiếp đến

người lao động thuộc nhiều đối tượng khác nhau, trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Có thể kể đến 03 lĩnh vực chính cần bảo đảm quyền lợi người lao động trong
DNNN CPH như sau:
+ Bảo đảm quyền lợi của người lao động đối với vấn đề việc làm của người
lao động.
+ Bảo đảm quyền lợi của người lao động đối với vấn đề thu nhập của người
lao động.
+ Bảo đảm quyền lợi của người lao động đối với vấn đề sở hữu cổ phần của
người lao động trong DNNN CPH.
Việc bảo đảm quyền lợi của người lao động cũng cần xem xét đến quyền lợi
của từng đối tượng người lao động, cụ thể:
14


+ Người lao động tiếp tục làm việc tại CTCP.
+ Người lao động đủ điều kiện nghỉ hưu.
+ Người lao động tự nguyện chấm dứt Hợp đồng lao động.
+ Người lao động không bố trí được việc làm khi CPH DNNN.
- Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền lợi của người lao động khi
cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước:
+ Pháp luật là phương tiện để cụ thể hóa một cách chính thống phần lớn các
quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Các quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa DNNN trên thực tế có thể
được triển khai trên nhiều mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, chỉ có tiền đề về
pháp lý mới đảm bảo một cách chính xác, rõ ràng, triệt để nhất quyền lợi cho người
lao động khi CPH DNNN.
+ Pháp luật là phương tiện để giới hạn quyền lực của người sử dụng lao động
trong mối quan hệ với người lao động – vốn được coi là đối tượng yếu thế hơn
trong quan hệ lao động, từ đó góp phần bảo đảm quyền của người lao động. Các
quy định của pháp luật đã xác định rõ quyền và nghĩa vụ của người lao động trong

DNNN CPH cũng như quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi cổ phần hóa.
Những quy định này là hành lang, là khung giới hạn hành vi của doanh nghiệp trong
việc thực hiện các đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Doanh nghiệp không thể
lạm dụng quyền lực của mình cũng như không thể cắt giảm quyền lợi của người lao
động để gây ảnh hưởng đến những lợi ích mà người lao động được hưởng.
+ Pháp luật là phương tiện để người lao động động, các cá nhân, tổ chức có
liên quan kiểm soát được hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, hoạt
động của DNNN cổ phần hóa và hoạt động của các đơn vị có liên quan trong quá
trình CPH DNNN, từ đó ngăn chặn được những hành vi vi phạm pháp luật và bảo
đảm tốt hơn quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN. Khi nhận thức rõ được
các quy định pháp luật, người lao động sẽ thực hiện việc bảo vệ quyền lợi của mình
một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn.
+ Pháp luật là phương tiện pháp lý, bằng các phương thức, cách thức, biện
pháp khác nhau để bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quá trình CPH các

15


DNNN khi các quyền lợi này bị xâm phạm. Các quy định liên quan đến xử phạt vi
phạm, các quy định cụ thể về trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự đối với các
hành vi xâm phạm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa DNNN sẽ là cơ
chế hữu hiệu để người lao động bảo vệ được quyền lợi của mình.
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về
quyền lợi ngƣời lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc
CPH DNNN là giải pháp quan trọng và hữu hiệu mà Đảng và Nhà nước ta đã
lựa chọn sử dụng để cải cách, đổi mới DNNN. Trải qua các giai đoạn khác nhau,
với những kinh nghiệm thực tiễn được rút ra, pháp luật về CPH DNNN nói chung
và pháp luật về quyền lợi của NLĐ trong doanh nghiệp CPH nói riêng cũng có
những thay đổi cho phù hợp với đặc điểm của từng thời kỳ và quan điểm chỉ đạo
của Đảng, Nhà nước ta.

1.3.1 Giai đoạn từ những năm 1986 đến trước năm 1996
Xuất phát từ tình hình thực tế và xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới, tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã chủ trương xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Theo đó, DNNN đứng trước yêu cầu đổi mới để tồn tại và phát triển
trên thị trường. Ngày 10/5/1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 143HĐBT về việc tổng kết thực hiện Quyết định 217-HĐBT ngày 14/11/1987, các Nghị
định 50-HĐBT ngày 22/03/1988 và 98-HĐBT ngày 02/6/1988 và làm thử việc tiếp
tục đổi mới quản lý xí nghiệp quốc doanh. Tại mục 2 Quyết định 143-HĐBT nêu trên
có khẳng định: “Tiến hành làm thử việc tổ chức lại bộ máy quản lý xí nghiệp; chuyển
xí nghiệp quốc doanh thành CTCP…”. Quyết định 143-HĐBT ngày 10/5/1990 nêu
trên là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về vấn đề CPH DNNN, tuy nhiên, Quyết
định này chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc CPH mà dường như mới chỉ
khai sinh ra khái niệm này. Quyền lợi của NLĐ trong doanh nghiệp CPH cũng chưa
được đề cập tới. Đây mới chỉ là bước đi đầu tiên mang tính chất nền tảng cho việc
CPH sau này.
Đến ngày 8/6/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số
202-CT về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển một số DNNN thành CTCP (Quyết
định số 202-CT ngày 8/6/1992). Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992 đã quy định về

16


điều kiện của DNNN tiến hành CPH, các hình thức CPH DNNN cũng như trình tự,
thủ tục để chuyển một số DNNN được chọn lựa thành CTCP. Tại văn bản này,
quyền lợi của NLĐ đã được đề cập một cách cụ thể hơn, theo đó mục tiêu của CPH
sẽ hướng đến việc tạo điều kiện để NLĐ thực sự làm chủ doanh nghiệp. Tại Điều 7
Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992 quy định về ưu đãi trong việc mua cổ phần của
NLĐ như sau: “…Cán bộ công nhân viên chức trong các doanh nghiệp CPH được
hưởng chính sách ưu đãi trong việc mua cổ phiếu trả chậm với thời gian trả không
quá 12 tháng…”. Đề án chuyển một số DNNN thành CTCP áp dụng tại các doanh

nghiệp được chọn làm thí điểm ban hành kèm theo Quyết định 202-CT ngày
8/6/1992 cũng đã khẳng định lại quyền ưu tiên mua cổ phiếu của NLĐ trong doanh
nghiệp tại điểm b Mục 4 như sau:
“…Trật tự ưu tiên về bán cổ phiếu như sau:
- Thứ nhất là bán cho công nhân viên chức đang làm việc trong doanh nghiệp.
Một số công nhân viên chức có hoàn cảnh khó khăn sẽ được ưu tiên trả chậm tiền
mua cổ phiếu (không quá 12 tháng)…”
Các chế độ khác liên quan đến NLĐ như tiền lương, bảo hiểm xã hội, hợp
đồng lao động, thoả ước lao động tập thể trong DNNN khi CPH và sau khi CPH
được Đề án dẫn chiếu đến quy định tại Thông tư số 09/LĐTBXH-TT ngày
22/7/1992 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn về lao động và
chính sách đối với NLĐ trong thí điểm chuyển DNNN thành CTCP theo Quyết định
202/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Theo đó, Nhà nước cho phép các
doanh nghiệp áp dụng việc sắp xếp lại lao động theo Quyết định 176/HĐBT của
Hội đồng Bộ trưởng ban hành ngày 09/10/1989 về việc sắp xếp lại lao động trong
các đơn vị kinh tế quốc doanh do Hội đồng Bộ trưởng ban hành và các Thông tư
hướng dẫn kèm theo.
- Đối với những NLĐ tiếp tục làm việc tại CTCP thì họ sẽ được hưởng các
quyền lợi theo chế độ Hợp đồng lao động thỏa thuận với doanh nghiệp sau CPH.
- Đối với những NLĐ đến tuổi nghỉ hưu thì họ sẽ được hưởng chế độ hưu trí
theo quy định tại điểm c mục 3 của Quyết định 176/HĐBT ngày 09/10/1989 về việc
sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh do Hội đồng Bộ trưởng
ban hành.

17


- Đối với những NLĐ có nhu cầu xin chuyển công tác, thì được giải quyết theo
nguyện vọng và doanh nghiệp có trách nhiệm cấp kinh phí đi đường, tiền tàu xe đến
nơi làm việc mới.

- Đối với những NLĐ mà doanh nghiệp xác định là dôi dư thì giải quyết theo
chế độ thôi việc và được hưởng trợ cấp 1 lần theo chính sách quy định tại điểm a
mục 3 Quyết định 176/HĐBT ngày 09/10/1989 về việc sắp xếp lại lao động trong
các đơn vị kinh tế quốc doanh do Hội đồng Bộ trưởng ban hành, cụ thể: “…Đối với
số lao động ra làm việc ở khu vực ngoài kinh tế quốc doanh được thực hiện chế độ
trợ cấp thôi việc thì cứ mỗi năm công tác liên tục được trợ cấp một tháng lương cơ
bản cộng phụ cấp (nếu có), tối thiểu là 03 tháng, do đơn vị trả, Nhà nước trợ giúp
một phần đối với đơn vị có nhiều khó khăn nhưng tối đa không quá 1/2 số trợ cấp,
phần trợ giúp này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể…”
Ngoài ra, NLĐ tại doanh nghiệp CPH nói chung còn được hưởng quyền lợi từ
Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh nghiệp theo quy định tại điểm 2 Mục I
Thông tư 09/LĐTBXH-TT ngày 22/7/1992 hướng dẫn về lao động và chính sách
đối với người lao động trong thí điểm chuyển DNNN thành CTCP theo Quyết định
202/1992 ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng do Bộ Lao động, thương
binh và xã hội ban hành như sau: “Quỹ phúc lợi còn lại, tài sản công trình phúc lợi
công cộng cần được kiểm kê lại giá trị. Doanh nghiệp thành lập Hội đồng kiểm kê
lại giá trị. Doanh nghiệp thành lập Hội đồng kiểm kê có sự giám sát của các cơ
quan: Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động. Giá trị
tài sản này (trừ nhà cửa, vật kiến trúc có hướng dẫn riêng) sẽ được phân chia cho
toàn bộ công nhân viên chức đang làm việc trong doanh nghiệp tính đến thời điểm
tiến hành cổ phần hoá…”.
Có thể thấy, Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992 mặc dù chưa quy định cụ thể
nhưng đã có những dẫn chiếu đến pháp luật lao động thời kỳ này về việc giải quyết
quyền lợi cho NLĐ trong doanh nghiệp CPH. Các quyền lợi cơ bản của NLĐ có thể
dễ dàng nhận thấy đó là quyền ưu tiên mua cổ phiếu trong doanh nghiệp CPH và
quyền được chia các nguồn lợi từ Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi còn lại của doanh
nghiệp. Đối với những NLĐ đủ điều kiện về hưu và NLĐ không tiếp tục làm việc

18



tại doanh nghiệp sau CPH sẽ được hưởng các khoản trợ cấp riêng theo pháp luật lao
động tại thời kỳ này.
Để đẩy mạnh triển khai thực hiện Quyết định số 202-CT ngày 8/6/1992, ngày
04/3/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 84-TTg về việc xúc tiến
thực hiện thí điểm CPH DNNN và các giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữu đối
với các DNNN. Chỉ thị số 84-TTg có nêu: “Quyết định số 202-CT ngày 8-6-1992
của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc tiếp tục làm
thí điểm chuyển một số DNNN thành CTCP đã ban hành hơn 8 tháng, nhưng việc
tiến hành còn quá chậm, không thực hiện được những yêu cầu và tiến độ đã quy
định. Nguyên nhân chính của các chậm trễ này là do các Bộ chức năng chưa kịp
thời hướng dẫn, cụ thể hoá những quy định của Quyết định số 202-CT; các Bộ quản
lý các đơn vị sản xuất, kinh doanh, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương chưa quán triệt sâu sắc về quan điểm, nội dung CPH và chưa quan tâm
đúng mức chỉ đạo việc triển khai thực hiện công tác này…”
Có thể thấy, Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng được ban hành nhưng việc thí điểm triển khai còn chậm trễ, không thực hiện
được những yêu cầu và tiến độ đã đặt ra. Chính vì vậy Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Chỉ thị 84-TTg ngày 04/3/1993 về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH
DNNN và các giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữu đối với các DNNN để đẩy
mạnh triển khai và tiến hành có hiệu quả thí điểm CPH DNNN. Điều này cho thấy
quyết tâm của Chính phủ trong việc triển khai chủ trương CPH các DNNN. Tại Chỉ
thị 84-TTg nêu trên, quyền lợi của NLĐ trong doanh nghiệp CPH về cơ bản được
quy định giống như Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992, theo đó NLĐ được hưởng
quyền ưu tiên mua cổ phiếu trả chậm, được chia số dư từ Quỹ phúc lợi và Quỹ khen
thưởng để mua cổ phiếu. Đối với những NLĐ thuộc diện nghỉ hưu, mất sức, thôi
việc thì quyền lợi tiếp tục được giải quyết theo các quy định của pháp luật lao động
thời điểm này.
Sau 4 năm thực hiện thí điểm, ngày 07/5/1996 Chính phủ ban hành Nghị định
28-CP về chuyển một số DNNN thành CTCP (Nghị định 28-CP ngày 07/5/1996).

Một năm sau đó, ngày 26/03/1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 25/1997/NĐCP sửa đổi một số điều của Nghị định số 28/CP ngày 07/5/1996. Các Nghị định này

19


cùng với các văn bản hướng dẫn đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho quá trình
CPH DNNN cũng như vấn đề bảo đảm quyền lợi của NLĐ khi CPH. Theo quy định
tại Điều 10, Điều 11 Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 thì những NLĐ sẽ được bảo
đảm về vấn đề việc làm khi DNNN CPH. Họ có quyền tiếp tục làm việc tại CTCP
theo nhu cầu của mình. Cụ thể, khoản 2 Điều 11 Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996
quy định: “…Được tiếp tục làm việc tại CTCP (nếu họ có nhu cầu) theo quy định
tại Điều 31 của Bộ Luật lao động ngày 23 tháng 6 năm 1994…”. Ngoài việc tiếp
tục làm việc tại doanh nghiệp sau khi CPH, NLĐ được hưởng các ưu đãi rất cơ bản
quan trọng khác như: Được Nhà nước cấp một số cổ phiếu tuỳ theo thâm niên và
chất lượng công tác của từng người. Đối với số cổ phiếu này, NLĐ được hưởng cổ
tức, được quyền thừa kế cho con làm việc tại CTCP nhưng không được chuyển
nhượng; được mua chịu một số cổ phiếu trả chậm trong 5 năm với lãi suất là 4%
năm; được chia số dư bằng tiền của Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh
nghiệp để mua cổ phiếu.
So với quy định tại các văn bản pháp luật trước đó về CPH thì Nghị định
28/CP ngày 07/5/1996 đã có những ưu đãi lớn hơn đối với NLĐ trong DNNN CPH.
Quyền lợi của NLĐ không chỉ dừng lại ở việc được ưu tiên mua cổ phiếu, được
mua cổ phiếu trả chậm trong một khoảng thời gian, được chia số dư của Quỹ khen
thưởng và Quỹ phúc lợi để mua cổ phiếu mà còn được cấp một lượng cổ phiếu nhất
định và hưởng cổ tức. Thêm vào đó NLĐ còn được đảm bảo quyền lợi về vấn đề
việc làm sau khi doanh nghiệp CPH - vấn đề quan tâm hàng đầu của NLĐ. Các quy
định về quyền lợi NLĐ tại Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 đã cho thấy chính sách
ưu đãi to lớn của pháp luật để đảm bảo tối đa các quyền lợi của NLĐ khi DNNN
tiến hành CPH, hướng tới một trong những mục tiêu của việc CPH DNNN đó là
nâng cao vai trò làm chủ thực sự của NLĐ, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh

nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
1.3.2 Giai đoạn từ những năm 1996 đến trước năm 2011
Tiếp tục hoàn thiện hơn các quy định về CPH DNNN, ngày 29/6/1998 Chính
phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP về chuyển DNNN thành CTCP (Nghị
định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998). Đối với vấn đề quyền lợi của NLĐ trong
DNNN CPH, so với Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996, ngoài quyền lợi được mua cổ

20


×