Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Bảo đảm quyền lợi của người lao động theo pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.85 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ LAM HỒNG

BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI LAO
ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS DƢƠNG ĐỨC CHÍNH

Phản biện 1: Hoàng Văn Tú
Phản biện 2: Vũ Thư

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận
thạc sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội 10 giờ 50 phút
ngày 08 tháng 08 năm 2015

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa


học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cổ phần hóa (CPH) Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là một trong
những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm chuyển đổi các
DNNN thành Công ty cổ phần (CTCP) - loại hình doanh nghiệp có nhiều
chủ sở hữu, dễ dàng huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài, để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương
thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế
cũng như bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư
và người lao động (NLĐ) trong doanh nghiệp.
CPH DNNN gắn liền với thay đổi cơ cấu công nghệ và đổi mới
phương thức quản lý doanh nghiệp sẽ có những tác động to lớn, trực tiếp, cả
tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực đến cuộc sống của NLĐ trong doanh
nghiệp CPH. Do vậy, việc đảm bảo quyền lợi cho những NLĐ trong doanh
nghiệp CPH là rất cần thiết. Thêm vào đó, việc đảm bảo quyền lợi cho NLĐ
sẽ tạo động lực để họ phát huy vai trò làm chủ thực sự của mình, góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác CPH các DNNN.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo đảm quyền lợi NLĐ
trong quá trình CPH các DNNN, trong quá trình triển khai chủ trương CPH
các DNNN của Việt Nam từ những năm 1990 đến nay, chúng ta cũng đã
xây dựng được hệ thống các quy định pháp luật làm khung pháp lý cơ bản
để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến CPH các DNNN nói chung và vấn
đề đảm bảo quyền lợi cho NLĐ khi CPH DNNN nói riêng.
Tại Thông tư 33/2012/TT-BLĐTBXH ngày 20/12/2012 của Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện chính sách đối với
NLĐ theo quy định tại Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của
Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành Công ty cổ

phần (đang có hiệu lực áp dụng) đã quy định tương đối đầy đủ những
quyền lợi cơ bản của NLĐ được áp dụng cho từng nhóm đối tượng trong
DNNN CPH: quyền được mua cổ phần với giá ưu đãi, được chia số dư bằng
tiền của Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi… được áp dụng chung đối với
những NLĐ có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời
điểm công bố giá trị doanh nghiệp CPH; quyền được hưởng chế độ hưu trí
đối với những NLĐ đủ điều kiện nghỉ hưu; quyền được hưởng chế độ trợ

1


cấp thôi việc đối với những NLĐ sẽ chấm dứt hợp đồng lao động; quyền
được hưởng chế độ của người lao động dôi dư đối với những NLĐ không
bố trí được việc làm và đủ điều kiện; quyền được hưởng chế độ trợ cấp mất
việc đối với những NLĐ không đủ điều kiện hưởng chế độ đối với lao động
dôi dư… Những quy định này là những hành lang pháp lý cơ bản, quan
trọng bảo đảm cho quyền lợi của NLĐ, tạo điều kiện cho NLĐ nâng cao vị
thế của mình trong DNNN CPH cũng như góp phần giảm thiểu tác động
tiêu cực của quá trình CPH DNNN đến cuộc sống của NLĐ.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật liên quan
đến việc bảo đảm quyền lợi cho NLĐ tại các DNNN CPH, xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau, có thể từ phía các quy
định pháp luật, từ phía Ban lãnh đạo DNNN CPH, có thể từ phía NLĐ…
mà quyền lợi của NLĐ chưa được bảo đảm một cách tốt nhất. Có nhiều
NLĐ không có đủ tiền để mua cổ phần ưu đãi dành cho họ do giá cổ phần
ưu đãi vẫn còn cao so với thu nhập của họ; có trường hợp NLĐ mua được
cổ phần ưu đãi nhưng chỉ với số lượng rất ít ỏi; có trường hợp NLĐ không
được chia số dư từ Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh nghiệp để
mua cổ phần ưu đãi; có nhiều trường hợp NLĐ vẫn bị nợ lương, không
được trả sổ bảo hiểm xã hội… Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật

nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập cho thấy việc nghiên cứu để không
ngừng hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm tốt hơn nữa quyền lợi của NLĐ
khi CPH DNNN là rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với bản
thân NLĐ mà còn góp phần nâng cao hiệu quả công tác CPH đang còn tồn
tại nhiều vấn đề ở Việt Nam hiện nay.
Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Bảo đảm quyền lợi của ngƣời
lao động theo pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt
Nam hiện nay” để nghiên cứu làm Luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
CPH DNNN là một chủ trương lớn của Nhà nước ta được triển khai
thử nghiệm từ những năm 1990 – 1991, chính thức thực hiện từ năm 1992,
được đẩy mạnh từ năm 1996 và quá trình CPH các DNNN diễn ra đến nay
đã được hơn 20 năm. Trong quá trình chúng ta tiến hành CPH các DNNN,
có khá nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn đề CPH
DNNN nói chung. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu một cách quy mô,

2


kỹ lưỡng liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền lợi cho NLĐ trong quá trình
CPH DNNN không nhiều và chủ yếu được tiến hành trong giai đoạn đẩy
mạnh CPH DNNN ở nước ta, có thể kể đến một số công trình sau đây:
- “Chế độ, quyền lợi người lao động khi cổ phần hóa DNNN” – Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp trường - Khoa Pháp luật kinh tế - Trường Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2007;
- Nguyễn Thị Minh Trang - “Bảo đảm quyền lợi của người lao động
trong quá trình cổ phần hóa DNNN với thực tiễn tại Hà Nội” – Luận văn
Thạc sỹ Luật học, Hà Nội, 2009;
- Nguyễn Xuân Vinh – “Bảo vệ quyền lợi người lao động trong và
sau quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước: Pháp luật và thực

tiễn” – Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội, 2009;
- Nguyễn Thanh Hải “Bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước” – Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Hà Nội, 2012.
Có thể thấy, trong 4 công trình khoa học nêu trên chỉ có 03 công trình
Luận văn Thạc sỹ nghiên cứu liên quan đến vấn đề quyền lợi của NLĐ trong
DNNN cổ phần hóa và có 01 là đề tài nghiên cứu khoa học về vấn đề này.
Ngoài các công trình nêu trên, theo tác giả tìm hiểu thì còn có một số Khóa
luận tốt nghiệp cử nhân nghiên cứu về vấn đề này, tuy nhiên ở cấp độ Luận
văn Thạc sỹ Luật học, tác giả xin phép không trích dẫn những Khóa luận tốt
nghiệp này.
Đối với đề tài khoa học của Khoa pháp luật kinh tế - Trường Đại học
Luật Hà Nội, các tác giả đã đưa ra một cách hệ thống, kỹ lưỡng các vấn đề
liên quan đến việc bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong và sau CPH các
DNNN theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đề tài khoa học được thực
hiện từ năm 2007, các quy định pháp luật được phân tích theo Nghị định
109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà
nước thành CTCP – đã hết hiệu lực thi hành từ ngày 05/9/2011 trong khi
chính sách, pháp luật về CPH DNNN nói chung và vấn đề bảo đảm quyền
lợi cho NLĐ trong quá trình CPH DNNN nói riêng đã có nhiều sửa đổi, bổ
sung.
Đối với Luận văn của Thạc sỹ Nguyễn Thị Minh Trang, tác giả Luận
văn đã đưa ra được những nội dung cơ bản của vấn đề CPH các DNNN như:

3


khái niệm CPH, tính tất yếu khách quan của CPH DNNN, mục tiêu và các
hình thức CPH, những tác động của CPH DNNN đến quyền lợi của NLĐ.
Tuy nhiên, tác giả tập trung dung lượng lớn (9 trang/17 trang của Chương 1)

để phân tích về khái niệm CPH và các hình thức CPH DNNN, 8 trang còn lại
tác giả mới đưa ra vấn đề sự tác động của CPH DNNN đến quyền lợi của
NLĐ nhưng tác giả lại không phân tích quá trình hình thành và phát triển các
quy định pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH
DNNN từ khi triển khai CPH đến nay làm cơ sở để phân tích, so sánh với các
quy định pháp luật hiện hành (tại thời điểm tác giả triển khai Luận văn thì
Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 về chuyển doanh nghiệp 100%
vốn Nhà nước thành Công ty cổ phần đang có hiệu lực). Thạc sỹ Nguyễn Thị
Minh Trang cũng đã đưa ra những quy định pháp luật về vấn đề bảo đảm
quyền lợi của NLĐ theo quy định tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày
26/6/2007 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành CTCP nhưng
không có những so sánh, đối chiếu, đánh giá với các quy định pháp luật trong
giai đoạn trước. Thêm vào đó, tác giả tập trung vào việc phân tích những
chính sách, mục tiêu và thực trạng quá trình CPH các doanh nghiệp trên địa
bàn thành phố Hà Nội và đánh giá một cách sơ lược tập trung vào việc giải
quyết chế độ cho NLĐ dôi dư chứ không phân chia cụ thể theo các nhóm đối
tượng. Từ đó, phần kiến nghị phương hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề
bảo đảm quyền lợi cho NLĐ chưa được toàn diện cho các nhóm đối tượng
theo các quyền lợi cụ thể của họ đã được pháp luật quy định mà chỉ tập trung
theo các vấn đề đã được tác giả nghiên cứu trên phạm vi thành phố Hà Nội.
Đối với Luận văn của Thạc sỹ Nguyễn Xuân Vinh, tác giả có đưa ra
được những vấn đề cơ bản liên quan đến CPH DNNN nhưng chưa phân tích
chỉ rõ tác động của CPH DNNN đến quyền lợi NLĐ. Vấn đề này chỉ được
tác giả chỉ ra trong hơn 01 trang giấy (trang 17-18) của Luận văn chưa cho
người đọc thấy được vai trò và sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của NLĐ
trong quá trình cổ phần hóa DNNN. Luận văn cũng có đưa ra vấn đề kinh
nghiệm CPH DNNN ở một số nước trên thế giới nhưng chủ yếu tập trung
vào vấn đề CPH nói chung mà chưa chỉ ra được kinh nghiệm áp dụng đối
với Việt Nam trong việc bảo đảm quyền lợi cho NLĐ trong quá trình CPH
DNNN. Thêm vào đó, Luận văn nghiên cứu dàn trải cả vấn đề bảo đảm

quyền lợi cho NLĐ trong quá trình CPH DNNN và sau quá trình CPH

4


DNNN nên chưa phân tích kỹ lưỡng được những thực trạng thực hiện pháp
luật và hướng hoàn thiện cụ thể liên quan đến bảo vệ quyền lợi NLĐ trong
quá trình CPH DNNN.
Đối với Luận văn của Thạc sỹ Nguyễn Thanh Hải, tại công trình của
mình, tác giả đã trình bày được vấn đề sự cần thiết phải bảo đảm quyền lợi
của NLĐ trong quá trình CPH DNNN một cách tương đối toàn diện, đầy
đủ. Tuy nhiên, công trình này chưa đi vào nghiên cứu quá trình hình thành
và phát triển của các quy định pháp luật về vấn đề này. Thêm vào đó, mặc
dù tác giả có nghiên cứu vấn đề quyền lợi của người lao động trong DNNN
CPH theo quy định của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành CTCP, tuy nhiên trong
vấn đề quyền lợi của NLĐ dôi dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu thì tác giả trình bày nội
dung theo quy định tại Nghị định 91/2010/NĐ-CP ngày 20/8/2010 quy định
chính sách đối với NLĐ dôi dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu – đến thời điểm hiện tại đã
được thay thế bằng Nghị định 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 quy định
chính sách đối với NLĐ dôi dư khi sắp xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu cho nên các kiến nghị của tác
giả liên quan đến việc giải quyết quyền lợi cho người lao động dôi dư tại
DNNN CPH cũng không còn phù hợp bởi các quy định đã được sửa đổi tại
Nghị định 63/2015/NĐ-CP nêu trên.
Tóm lại, các công trình nêu trên đề cập đến các khía cạnh khác nhau
về đảm bảo quyền lợi cho NLĐ theo các quy định của pháp luật trong giai
đoạn trước khi Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 về chuyển doanh

nghiệp 100% vốn Nhà nước thành CTCP và Nghị định 63/2015/NĐ-CP
ngày 22/7/2015 quy định chính sách đối với người lao động dôi dư khi sắp
xếp lại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ
sở hữu được ban hành. Hiện tại, chưa có công trình nào nghiên cứu về việc
bảo đảm quyền lợi NLĐ trong quá trình CPH DNNN theo quy định pháp
luật hiện hành với cấp độ của một Luận văn Thạc sỹ luật học. Việc nghiên
cứu một cách có hệ thống các quy định hiện hành về vấn đề bảo đảm quyền
lợi cho NLĐ trong quá trình CPH DNNN, những tồn tại, vướng mắc và

5


hướng hoàn thiện trong thời gian tới là rất cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn đề
tài này để nghiên cứu thực hiện Luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục đích sau: Nghiên cứu hệ
thống các quy định pháp luật, đặc biệt là quy định pháp luật hiện hành và
thực trạng thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình
CPH DNNN, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng
như có biện pháp để bảo đảm tốt hơn nữa quyền lợi cho NLĐ trong DNNN
tiến hành CPH. Để thực hiện mục đích này, Luận văn thực hiện một số nhiệm
vụ sau đây:
- Phân tích những vấn đề cơ bản về CPH DNNN và sự cần thiết của
việc đảm bảo quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN.
- Phân tích, so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật về bảo đảm
quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN trong các giai đoạn khác
nhau, trong đó tập trung vào các quy định pháp luật hiện hành.
- Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền
lợi NLĐ trong quá trình CPH DNNN.
- Trên cơ sở các nhận xét, đánh giá những vấn đề có liên quan và

thực tiễn bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN, Luận
văn sẽ đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ
trong quá trình CPH các DNNN.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN là một vấn
đề lớn. Vì vậy, trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sỹ không thể giải
quyết được một cách trọn vẹn tất cả các vấn đề có liên quan đến việc bảo
đảm quyền lợi của NLĐ trong doanh nghiệp CPH. Do đó, đề tài tập trung
nghiên cứu một số vấn đề sau đây:
Đối tƣợng nghiên cứu: Các quy định của pháp luật từ những năm
1990 tới nay, tập trung vào các quy định pháp luật hiện hành theo quy định
tại Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 về chuyển doanh nghiệp
100% vốn Nhà nước thành Công ty cổ phần và Nghị định 63/2015/NĐ-CP
ngày 22/7/2015 quy định chính sách đối với NLĐ dôi dư khi sắp xếp lại
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu

6


về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN và thực trạng
áp dụng các quy định pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá
trình CPH các DNNN.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Các quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp
luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH các DNNN.
- Về không gian: Nghiên cứu trên bình diện chung của cả nước, tập
trung hơn vào một số doanh nghiệp thuộc Bộ xây dựng tiến hành CPH
trong thời gian vừa qua theo tìm hiểu và số liệu thu thập được của tác giả.
- Về thời gian: Các quy định của pháp luật từ những năm 1990 tới

nay, tập trung vào các quy định pháp luật hiện hành theo Nghị định
59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà
nước thành Công ty cổ phần (có hiệu lực từ 05/9/2011 tới nay) về bảo đảm
quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận: Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin, những quan điểm
chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam để làm rõ những vấn đề lý luận cơ
bản cũng như các quy định pháp luật về CPH DNNN nói chung và vấn đề
quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp
phân tích, so sánh, đối chiếu, hệ thống, tổng hợp, suy luận, diễn giải, quy
nạp… để làm rõ các quy định pháp luật liên quan đến việc bảo đảm quyền
lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN qua các giai đoạn khác nhau cũng
như đưa ra những đánh giá của tác giả trên cơ sở thông tin, dữ liệu thu thập
được về vấn đề nghiên cứu của Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Ý nghĩa khoa học của Luận văn: Luận văn đã phân tích, so sánh
một cách có hệ thống các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề bảo đảm
quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN qua các giai đoạn khác
nhau khi tiến hành chủ trương CPH các DNNN ở nước ta.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để kiến nghị hoàn thiện các
quy định pháp luật trong quá trình ban hành các văn bản quy phạm pháp

7


luật về CPH nói chung và bảo đảm quyền lợi cho NLĐ khi CPH DNNN nói
riêng.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn cũng là tài liệu thực tiễn có thể

dùng để giảng dạy, tham khảo cho các chủ thể quan tâm tới vấn đề này.
Ý nghĩa thực tiễn của Luận văn: Thông qua việc phân tích các vấn
đề lý luận và các quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp
dụng pháp luật trong việc bảo vệ quyền - lợi ích hợp pháp của NLĐ khi
CPH DNNN, Luận văn đã chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế trong các quy
định pháp luật đối với NLĐ và đưa ra một số các giải pháp cần thực hiện để
góp phần hoàn thiện quy định về CPH DNNN nhằm bảo đảm quyền lợi của
NLĐ. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về CPH DNNN nói
chung và về quyền lợi của NLĐ khi CPH DNNN nói riêng sẽ góp phần thúc
đẩy chủ trương CPH được tiến hành mạnh mẽ, hiệu quả, tạo động lực cho
sự phát triển của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết
cấu theo ba chương:
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN
HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN LỢI NGƢỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC.
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VÀ
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA
NGƢỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ
NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

8



Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN
HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1. Sự cần thiết của việc bảo đảm quyền lợi cho ngƣời lao động
khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc
DNNN là một mô hình doanh nghiệp không chỉ xuất hiện ở Việt
Nam mà thực chất là một mô hình đã ra đời và tồn tại phổ biến ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Đối với Việt Nam, trong thời kỳ kế hoạch hóa tập
trung, DNNN đã được thành lập và phát triển với số lượng, quy mô lớn.
DNNN chi phối các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của
nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò
chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vai trò là thành phần
kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, việc thành lập một
cách tràn lan, thiếu cơ sở khoa học cũng như thiếu cơ chế và kinh nghiệm
để điều hành DNNN hoạt động hiệu quả khiến cho nền kinh tế đất nước ta
rơi vào tình trạng khủng hoảng. DNNN tỏ ra hoạt động kém hiệu quả trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh, chưa tương xứng với tiềm lực Nhà nước
đầu tư cho DNNN [36, tr 127-136].
Thực trạng này dẫn tới yêu cầu tất yếu của việc sắp xếp, đổi mới
hoạt động của DNNN. Đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội thì vấn đề này trở nên vô cùng bức
thiết. Từ quan điểm đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện sắp
xếp và đổi mới DNNN. Hàng loạt giải pháp quan trọng được tiến hành như
chuyển một số DNNN thành CTCP, giao, bán, khoán, cho thuê DNNN, và
CPH DNNN là giải pháp được lựa chọn phổ biến.[21].
Có thể thấy, CPH DNNN là việc chuyển mình mạnh mẽ của DNNN
từ hoạt động có sự bảo đảm của Nhà nước sang hoạt động một cách độc lập,
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Tuy nhiên, khi tiến

hành CPH DNNN thì NLĐ là đối tượng phải chịu những tác động to lớn và
trực tiếp từ quá trình này. Việc bảo vệ quyền lợi của NLĐ là vấn đề rất cần
thiết, cần được chú trọng, quan tâm bởi lẽ:
1.1.1 Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tác động trực tiếp đến
vấn đề việc làm của người lao động

9


1.1.2 Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tác động trực tiếp đến
thu nhập của người lao động
1.1.3 Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tác động trực tiếp đến
vấn đề sở hữu cổ phần của người lao động
1.2. Khái niệm, nguyên tắc, nội dung bảo đảm quyền và vai trò
của pháp luật trong việc bảo đảm quyền lợi của ngƣời lao động khi cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc
- Khái niệm quyền lợi và bảo đảm quyền lợi của người lao động khi
cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước:
+ Quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN là những lợi ích của
người lao động làm việc trong DNNN được hưởng khi DNNN tiến hành cổ
phần hóa, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Khi xem xét dưới khía cạnh pháp lý, quyền lợi của người lao động
khi cổ phần hóa DNNN là các quy tắc xử xự chung áp dụng đối với các cá
nhân, tổ chức có liên quan trong quá trình giải quyết quyền lợi cho người
lao động trong DNNN tiến hành CPH để bảo đảm việc thực hiện thành
công chủ trương cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam hiện nay và bảo đảm tốt
nhất quyền lợi của những người lao động tại doanh nghiệp.
+ Bảo đảm quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN là việc tạo
ra các tiền đề, các điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức
để người lao động được hưởng các quyền lợi của họ khi CPH DNNN đã

được pháp luật ghi nhận. Trong các tiền đề này, tiền đề về pháp lý đóng vai
trò đặc biệt quan trọng bởi nó tạo ra những cơ sở vững chắc trong việc ghi
nhận quyền cũng như bảo đảm các quyền lợi này được thực hiện trên thực
tế.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước:
Việc tạo ra các tiền đề, các điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội,
pháp lý nhằm bảo đảm các quyền lợi cho người lao động khi CPH DNNN
cần đảm bảo tuân thủ một số nguyên tắc sau đây:
+ Đảm bảo các quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN được
tiến hành toàn diện, đồng bộ trên các lĩnh vực như: kinh tế, xã hội, pháp lý.

10


+ Đối với các bảo đảm pháp lý: các quyền lợi của người lao động khi
CPH DNNN phải được pháp luật ghi nhận đầy đủ và có biện pháp tổ chức
thực hiện.
+ Đảm bảo các quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN phải
đảm bảo nguyên tắc công bằng giữa những người lao động trong DNNN cổ
phần hóa.
+ Việc đảm bảo các quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN
phải hướng đến giải quyết toàn diện các vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống của người lao động: vấn đề việc làm, vấn đề thu nhập, vấn đề
quyền sở hữu cổ phần trong DNNN cổ phần hóa …nhưng cần đặc biệt chú
trọng đến việc giải quyết việc làm cho người lao động.
+ Các hành vi vi phạm quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN
cần được xử lý nghiêm minh.
- Nội dung bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa
doanh nghiệp Nhà nước:

Như đã phân tích ở mục 1.1 thì việc cổ phần hóa DNNN tác động
trực tiếp đến người lao động thuộc nhiều đối tượng khác nhau, trên nhiều
khía cạnh khác nhau. Có thể kể đến 03 lĩnh vực chính cần bảo đảm quyền
lợi người lao động trong DNNN CPH như sau:
+ Bảo đảm quyền lợi của người lao động đối với vấn đề việc làm của
người lao động.
+ Bảo đảm quyền lợi của người lao động đối với vấn đề thu nhập của
người lao động.
+ Bảo đảm quyền lợi của người lao động đối với vấn đề sở hữu cổ
phần của người lao động trong DNNN CPH.
Việc bảo đảm quyền lợi của người lao động cũng cần xem xét đến
quyền lợi của từng đối tượng người lao động, cụ thể:
+ Người lao động tiếp tục làm việc tại CTCP.
+ Người lao động đủ điều kiện nghỉ hưu.
+ Người lao động tự nguyện chấm dứt Hợp đồng lao động.
+ Người lao động không bố trí được việc làm khi CPH DNNN.
- Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền lợi của người lao
động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước:

11


+ Pháp luật là phương tiện để cụ thể hóa một cách chính thống phần
lớn các quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
+ Pháp luật là phương tiện để giới hạn quyền lực của người sử dụng
lao động trong mối quan hệ với người lao động – vốn được coi là đối tượng
yếu thế hơn trong quan hệ lao động, từ đó góp phần bảo đảm quyền của
người lao động.
+ Pháp luật là phương tiện để người lao động động, các cá nhân, tổ

chức có liên quan kiểm soát được hoạt động của các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, hoạt động của DNNN cổ phần hóa và hoạt động của các đơn vị
có liên quan trong quá trình CPH DNNN, từ đó ngăn chặn được những
hành vi vi phạm pháp luật và bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người lao động
khi CPH DNNN. Khi nhận thức rõ được các quy định pháp luật, người lao
động sẽ thực hiện việc bảo vệ quyền lợi của mình một cách nhanh chóng và
hiệu quả hơn.
+ Pháp luật là phương tiện pháp lý, bằng các phương thức, cách thức,
biện pháp khác nhau để bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quá trình
CPH các DNNN khi các quyền lợi này bị xâm phạm. Các quy định liên
quan đến xử phạt vi phạm, các quy định cụ thể về trách nhiệm dân sự, trách
nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền lợi của người lao động
khi cổ phần hóa DNNN sẽ là cơ chế hữu hiệu để người lao động bảo vệ
được quyền lợi của mình.
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp
luật về quyền lợi ngƣời lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nƣớc
CPH DNNN là giải pháp quan trọng và hữu hiệu mà Đảng và Nhà
nước ta đã lựa chọn sử dụng để cải cách, đổi mới DNNN. Trải qua các giai
đoạn khác nhau, với những kinh nghiệm thực tiễn được rút ra, pháp luật về
CPH DNNN nói chung và pháp luật về quyền lợi của NLĐ trong doanh
nghiệp CPH nói riêng cũng có những thay đổi cho phù hợp với đặc điểm
của từng thời kỳ và quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

12


Tại nội dung Chương 1, tác giả đã tập trung làm rõ những vấn đề cơ
bản liên quan đến vấn đề CPH DNNN, cụ thể: khái niệm DNNN; thực trạng

hoạt động của các DNNN và yêu cầu cần phải đổi mới, sắp xếp lại hoạt
động của các DNNN; khái niệm CPH DNNN; khái niệm CTCP và vai trò, ý
nghĩa của việc CPH các DNNN đối với nền kinh tế đất nước ta. Về cơ bản,
có thể thấy rằng, CPH DNNN là việc chuyển một phần sở hữu Nhà nước
sang sở hữu của các cổ đông thuộc các thành phần kinh tế khác nhau nhằm
mục đích huy động mọi nguồn vốn từ tất cả các thành phần kinh tế vào
doanh nghiệp, phát huy tính tự chủ của NLĐ, đổi mới hoạt động tổ chức
quản lý doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh của
doanh nghiệp.
Thông qua việc làm rõ những vấn đề liên quan đến CPH DNNN, tác
giả cũng đã chỉ rõ những tác động của quá trình CPH DNNN đến vấn đề
việc làm, thu nhập, vấn đề sở hữu cổ phần của NLĐ. Từ đó, chúng ta có thể
thấy được sự cần thiết phải nghiên cứu và hoàn thiện quy định pháp luật
cũng như có những biện pháp để bảo đảm tốt nhất quyền lợi của những
NLĐ trong quá trình CPH DNNN. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với
bản thân những NLĐ mà còn góp phần quan trọng trong việc hoàn thành
chủ trương CPH DNNN của Đảng và Nhà nước ta.
Để có cơ sở nền tảng cho việc nghiên cứu các quy định pháp luật
hiện hành về bảo đảm quyền lợi NLĐ trong DNNN CPH tại Chương 2, tác
giả cũng đã khái quát về quá trình hình thành và phát triển của các quy định
pháp luật về bảo đảm quyền lợi của NLĐ khi CPH DNNN tại Việt Nam
trong giai đoạn từ những năm 1986 cho tới những năm 2011. Các quy định
cụ thể liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong DNNN CPH
theo quy định tại Nghị định 59/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/7/2011
đang có hiệu lực tại thời điểm hiện nay sẽ được tác giả trình bày cụ thể tại
Chương 2 của Luận văn.
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN LỢI NGƢỜI LAO ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC


13


2.1 Quyền lợi chung của những ngƣời lao động có tên trong danh
sách thƣờng xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm công bố giá trị
doanh nghiệp cổ phần hóa.
Chính sách cổ phần ưu đãi đối với NLĐ đã được nhiều doanh nghiệp
tại Việt Nam áp dụng từ lâu, đặc biệt là trong một số lĩnh vực có nguy cơ
“chảy máu” chất xám cao. Phương pháp thông thường là tạo điều kiện
thuận lợi cho NLĐ sở hữu cổ phần như ưu đãi về giá, ưu đãi về điều kiện
thanh toán... Đây là một chế độ ưu đãi cho NLĐ để tạo sự gắn bó chặt chẽ
giữa NLĐ và doanh nghiệp, đồng thời có chính sách thu hút được lao động
giỏi gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. NLĐ được mua cổ phần ưu đãi khi
công ty Nhà nước tiến hành CPH. Đối tượng và số lượng cổ phần NLĐ
được ưu đãi mua được quy định tại khoản Điều 48 Nghị định 59/2011/NĐCP ngày 18/7/2011 và được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 10 Điều 1 Nghị
định 116/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015, cụ thể:
Một là, NLĐ được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực tế làm
việc tại khu vực nhà nước với giá bán bằng 60% giá đấu thành công thấp
nhất (trường hợp đấu giá công khai trước) hoặc bằng 60% giá bán thành
công thấp nhất cho các nhà đầu tư chiến lược (đối với trường hợp bán cho
nhà đầu tư chiến lược trước).
NLĐ thuộc đối tượng doanh nghiệp cần sử dụng và có cam kết làm
việc lâu dài cho doanh nghiệp trong thời hạn ít nhất là 03 năm (kể từ ngày
doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu) sẽ
được mua thêm cổ phần ưu đãi theo quy định sau:
- Mua thêm theo mức 200 cổ phần/01 năm cam kết làm việc tiếp
trong doanh nghiệp nhưng tối đa không quá 2.000 cổ phần cho một NLĐ.
Riêng NLĐ là các chuyên gia giỏi, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cao làm việc tại doanh nghiệp được mua thêm theo mức 500 cổ phần/01
năm cam kết làm việc tiếp trong doanh nghiệp nhưng tối đa không quá

5.000 cổ phần cho một NLĐ. Doanh nghiệp CPH căn cứ đặc thù ngành
nghề, lĩnh vực kinh doanh của mình xây dựng và quyết định các tiêu chí để
xác định chuyên gia giỏi, có trình độ nghiệp vụ cao và phải được nhất trí
thông qua tại Đại hội công nhân viên chức của doanh nghiệp trước khi
CPH.

14


- Giá bán cổ phần ưu đãi cho NLĐ mua thêm được xác định là giá
đấu thành công thấp nhất (trường hợp đấu giá công khai trước) hoặc bằng
giá bán thành công thấp nhất cho các nhà đầu tư chiến lược (đối với trường
hợp bán cho nhà đầu tư chiến lược trước).
Hai là, NLĐ được chia số dư bằng tiền của Quỹ khen thưởng, Quỹ
phúc lợi (bao gồm cả giá trị tài sản dùng trong sản xuất, kinh doanh đầu tư
bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi) để mua cổ phần (khoản 3 Điều
48 Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 về chuyển doanh nghiệp
100% vốn Nhà nước thành Công ty cổ phần). Trở thành cổ đông của CTCP
không chỉ giúp NLĐ có thêm nguồn thu nhập mà quan trọng hơn là giúp
NLĐ cải thiện vị trí yếu thế của mình trong quan hệ lao động (nhất là đối
với những NLĐ còn tiếp tục làm việc tại Công ty sau CPH).
Ba là, NLĐ tiếp tục làm việc tại CTCP còn được hưởng quyền lợi
thông qua việc mua cổ phần của tổ chức Công đoàn cơ sở. Theo quy định
tại điểm c khoản 2 Điều 36 Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 thì
Công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp được sử dụng nguồn quỹ công đoàn tại
doanh nghiệp CPH (không huy động, vay vốn) để mua cổ phần ưu đãi
nhưng không quá 3% vốn điều lệ.
Điểm g khoản 4 Điều 10 Thông tư 127/2014/TT-BTC ngày 5/9/2014
của Bộ Tài chính hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh
nghiệp khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành

CTCP (Thông tư 127/2014/TT-BTC ngày 5/9/2014) quy định như sau:
“…Trường hợp thời gian tính từ ngày hết hạn nhà đầu tư nộp tiền mua cổ
phần đến thời điểm công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp kéo dài trên 3 tháng thì doanh nghiệp được tính chi phí lãi vay để
chi trả cho các nhà đầu tư theo nguyên tắc:
- Chỉ tính lãi từ tháng thứ tư trở đi trên tổng mệnh giá của số cổ
phần được mua. Đối với cổ phần NLĐ mua cổ phần ưu đãi giảm giá, nếu
giá mua cổ phần ưu đãi dưới mệnh giá thì chỉ được tính lãi trên số tiền thực
nộp.
- Tỷ lệ trả lãi không vượt quá lãi suất vay ngắn hạn cùng kỳ của ngân
hàng thương mại nơi doanh nghiệp CPH đang mở tài khoản tại thời điểm
tính lãi.

15


- Số tiền trả lãi cho nhà đầu tư doanh nghiệp CPH được hạch toán
vào chi phí sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo không vượt quá số
tiền phải trả theo quy định và doanh nghiệp CPH không bị lỗ khi lập báo
cáo tài chính để bàn giao sang CTCP….”
Như vậy trong trường hợp DNNN CPH vi phạm tiến độ cổ phần
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật thì NLĐ nói riêng và các nhà đầu
tư mua cổ phần tại DNNN CPH nói chung sẽ được bảo đảm quyền lợi bằng
việc được trả lãi (theo tỷ lệ lãi suất vay ngắn hạn cùng kỳ của ngân hàng
thương mại nơi doanh nghiệp CPH đang mở tài khoản tại thời điểm tính
lãi) đối với số tiền mua cổ phần đã nộp. Đây là một quy định mới của Nghị
định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 và Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày
26/6/2007 so với các quy định trước đây, được xuất phát từ thực tiễn chậm
CPH của các DNNN ở nước ta. Tuy nhiên quy định này chưa thực sự bảo
đảm quyền lợi hợp pháp của NLĐ trong quá trình CPH DNNN sẽ được tác

giả phân tích ở phần thực tiễn của Luận văn.
2.2 Quyền lợi của ngƣời lao động tiếp tục làm việc tại Công ty cổ
phần
Ngoài những quyền lợi chung của NLĐ như đã phân tích tại mục
2.1.1 trên đây thì sau khi hoàn thành CPH DNNN, những NLĐ tiếp tục làm
ở CTCP sẽ được hưởng các quyền lợi của NLĐ khi làm việc tại Công ty
này. NLĐ tiếp tục được tham gia và hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế và các chế độ khác (khoản 4 Điều 48 Nghị định 59/2011/NĐCP ngày 18/7/2011). Đối với các công trình phúc lợi: nhà trẻ, nhà mẫu giáo,
bệnh xá và các tài sản phúc lợi khác đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng,
Quỹ phúc lợi thì được chuyển giao cho tổ chức Công đoàn tại CTCP quản
lý, sử dụng để phục vụ tập thể NLĐ trong CTCP (khoản 4, khoản 5 Điều
14, Điều 19 Nghị định 59/2011/NĐ-CP). Ngoài ra, quyền lợi của những
NLĐ sẽ được xác định theo theo Hợp đồng lao động đã giao kết với DNNN
trước đó, theo thỏa ước lao động tập thể của CTCP (nếu có) và theo Nội
quy, Quy chế lao động của CTCP phù hợp với các quy định của pháp luật
lao động hiện hành.
Có thể thấy, các quyền lợi của NLĐ khi chuyển sang làm việc tại
DNNN CPH đã được quy định khá cụ thể và đầy đủ. Các cơ quan, tổ chức
có liên quan cần phổ biến cho NLĐ cũng như NLĐ cần chủ động tìm hiểu

16


quy định pháp luật về quyền lợi của mình để yêu cầu doanh nghiệp CPH
đảm bảo chế độ, quyền lợi cho mình.
2.3 Quyền lợi của ngƣời lao động đủ điều kiện nghỉ hƣu
Như đã phân tích ở mục 2.1.1, bên cạnh các quyền lợi chung được
hưởng, căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Thông tư 33/2012/TTBLĐTBXH ngày 20/12/2012 hướng dẫn Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày
18/7/2011, đối với những người đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí quy định
tại điểm a khoản 2 Điều 3 Thông tư 33/2012/TT-BLĐTBXH ngày

20/12/2012 hướng dẫn Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 thì Tổng
giám đốc, Giám đốc doanh nghiệp CPH và cơ quan Bảo hiểm xã hội nơi
doanh nghiệp đóng bảo hiểm xã hội giải quyết chế độ hưu trí theo quy định
của pháp luật.
2.4 Quyền lợi của ngƣời lao động sẽ chấm dứt Hợp đồng lao động
Bên cạnh các quyền lợi chung tại mục 2.1.1, căn cứ theo quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 3 và khoản 5 Điều 4 Thông tư 33/2012/TT-BLĐTBXH
ngày 20/12/2012 hướng dẫn Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 thì
khi tiến hành CPH sẽ có một số lao động thuộc đối tượng sẽ chấm dứt hợp
đồng lao động do hết thời hạn thực hiện hợp đồng, tự nguyện chấm dứt hợp
đồng hoặc các lý do khác theo quy định tại Bộ luật lao động năm 2012. Khi
đó, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc của doanh nghiệp CPH sẽ giải quyết
quyền lợi cho NLĐ thuộc đối tượng này theo quy định của Bộ luật lao động
năm 2012.
Căn cứ theo quy định tại Điều 48 Bộ luật lao động năm 2012 có thể
thấy, khi chấm dứt Hợp đồng lao động đối với NLĐ đã làm việc thường
xuyên trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức từ đủ 12 tháng trở lên, người sử
dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho NLĐ này. Mức trợ
cấp thôi việc được tính mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền
lương. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp
đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc. Thời
gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian NLĐ đã làm việc thực
tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian NLĐ đã tham gia bảo hiểm
thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã
được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.

17


Thêm vào đó, căn cứ theo quy định tại Điều 4 Thông tư 33/2012/TTBLĐTBXH ngày 20/12/2012 hướng dẫn Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày

18/7/2011 và Điều 47 Bộ luật lao động năm 2012 thì trong thời hạn 07 ngày
(tối đa là 30 ngày) NLĐ thuộc diện chấm dứt Hợp đồng lao động sẽ được
doanh nghiệp CPH thanh toán đầy đủ các khoản nợ (nếu có), hoàn thành
thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà
người sử dụng lao động đã giữ lại của NLĐ.
2.5 Quyền lợi của ngƣời lao không bố trí đƣợc việc làm khi cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc
Các quyền lợi đối với 02 nhóm NLĐ không bố trí được việc làm tại
Công ty cổ phần mang nhiều điểm khác nhau, cụ thể:
2.1.5.1 Người lao động thuộc đối tượng áp dụng chính sách đối với
lao động dôi dư khi cổ phần hóa DNNN:
2.1.5.2 Người lao động không thuộc đối tượng áp dụng chính sách
đối với lao động dôi dư khi cổ phần hóa DNNN
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Tại Chương 2 của Luận văn, tác giả đã trình bày hệ thống quy định
pháp luật hiện hành về các quyền lợi của NLĐ khi CPH DNNN theo từng
nhóm NLĐ cụ thể. Nhìn chung, khi DNNN CPH, những NLĐ có tên trong
danh sách lao động thường xuyên của doanh nghiệp sẽ được hưởng quyền
mua cổ phần ưu đãi, quyền được chia số dư từ Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc
lợi của doanh nghiệp để mua cổ phần tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, pháp
luật cũng đã quy định các chế độ riêng đối với từng đối tượng NLĐ khi
CPH DNNN: Quyền lợi theo thỏa thuận giữa NLĐ và người sử dụng lao
động của những NLĐ tiếp tục làm việc tại CTCP; quyền được hưởng chế
độ hưu trí của những NLĐ đủ điều kiện nghỉ hưu; quyền được trả trợ cấp
thôi việc của những NLĐ chấm dứt hợp đồng lao động và quyền được
hưởng trợ cấp mất việc làm, chế độ đối với lao động dôi dư của những NLĐ
không bố trí được việc làm khi CPH DNNN…
Từ những nghiên cứu về quy định pháp luật về bảo đảm quyền lợi
NLĐ trong quá trình CPH DNNN, tác giả sẽ so sánh và đối chiếu với thực
trạng thực hiện pháp luật liên quan đến vấn đề này, những thành tựu cơ bản

đã đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những hạn
chế cần được khắc phục tại Chương 3 của Luận văn. Trên cơ sở đó, tác giả

18


sẽ đưa ra quan điểm về phương hướng và một số biện pháp cụ thể để hoàn
thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong vấn đề
này.
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VÀ PHƢƠNG
HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI LAO
ĐỘNG KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
3.1 Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo đảm quyền lợi của ngƣời
lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc
3.1.1 Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo đảm quyền lợi chung của
những người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh
nghiệp tại thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa
Như đã phân tích ở mục 2.1.1, những NLĐ thường xuyên của doanh
nghiệp tại thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp sẽ được hưởng những
quyền lợi chung cho những NLĐ trong DNNN CPH đó là: quyền được mua
cổ phần ưu đãi, quyền được chia số dư bằng tiền Quỹ khen thưởng, Quỹ
phúc lợi của doanh nghiệp để mua cổ phần…. Đây là những quyền lợi cơ
bản của NLĐ. Trong quá trình CPH các DNNN, những quyền lợi chung
này của NLĐ về cơ bản đều được các doanh nghiệp bảo đảm cho NLĐ.
Điều này góp phần quan trọng trong việc nhận được sự ủng hộ từ phía NLĐ
đối với chủ trương CPH DNNN [42].
Đối với việc tạo điều kiện cho NLĐ mua cổ phần ưu đãi, mặc dù có sự
thay đổi qua các thời kỳ nhưng chính sách ưu đãi cho NLĐ trong việc mua cổ

phần tại doanh nghiệp CPH luôn được chú trọng. NLĐ vốn là những người
yếu thế trong quan hệ lao động, không có khả năng mua cổ phần theo giá
cạnh tranh trên thị trường, nhờ có chính sách ưu đãi về giá, họ sẽ được mua
cổ phần của chính doanh nghiệp nơi mình làm việc. Trên thực tế, không ít
NLĐ đã nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc sở hữu cổ phần nên đã cố
gắng mua cổ phần, thậm chí có người còn vay mượn hoặc hoãn chỉ tiêu riêng
nhiều khoản để dành tiền mua cổ phần [42].

19


Tuy nhiên, quá trình áp dụng quy định pháp luật về quyền lợi của
NLĐ trong việc mua cổ phần ưu đãi cũng phát sinh những bất cập nhất
định.
Một là, vấn đề cổ phần ưu đãi cho người lao động nghèo.
Hai là, quá trình áp dụng quy định liên quan đến quyền mua thêm cổ
phần ưu đãi của NLĐ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 48 Nghị định
59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 cũng cho thấy nhiều bất cập:
Ba là, vấn đề giá bán cổ phần ưu đãi cho NLĐ cũng là một vấn đề
được đông đảo NLĐ quan tâm:
Bốn là, về quy định tại điểm d khoản 2 Điều 48 Nghị định
59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 liên quan đến giá chuyển nhượng cổ phần
của người lao động chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn cam kết
làm việc:
Năm là, về vấn đề cổ phần ưu đãi trong doanh nghiệp cổ phần hóa
một phần và toàn bộ doanh nghiệp:
Sáu là, về quy định liên quan đến quyền lợi của người lao động trong
trường hợp bị nghỉ việc do doanh nghiệp không bảo đảm việc làm trong
thời gian dài không do lỗi của người lao động.
Bảy là, quy định về việc tính lãi đối với số tiền mua cổ phần của

người lao động trong trường hợp doanh nghiệp vi phạm tiến độ cổ phần
hóa.
Tóm lại, việc hoàn thiện các quy định pháp luật và bảo đảm cho các
quy định pháp luật được thực hiện nghiêm túc để NLĐ được hưởng những
quyền lợi cơ bản của mình trong quá trình CPH các DNNN là rất cần thiết.
Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân NLĐ mà còn có ý nghĩa
góp phần thực hiện thành công chủ trương CPH DNNN của chúng ta và
nhận được sự ủng hộ to lớn từ phía những NLĐ, doanh nghiệp và xã hội.
3.1.2 Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo đảm quyền của người lao
động tiếp tục làm việc tại Công ty cổ phần
3.1.3 Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo đảm quyền của người lao
động đủ điều kiện nghỉ hưu
3.1.4 Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo đảm quyền của người lao
động sẽ chấm dứt Hợp đồng lao động

20


3.1.5 Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo đảm quyền của người lao
động không bố trí được việc làm khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nước
Từ những phân tích nêu trên, tác giả xin đƣa ra đánh giá chung
nhƣ sau:
- Những kết quả đạt được
- Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất: Một số hạn chế của pháp luật hiện hành về bảo đảm
quyền lợi của ngƣời lao động trong quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nƣớc
Thứ hai: Một số hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế
trong việc áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền lợi của ngƣời lao động

khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc
3.2 Phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về bảo đảm quyền lợi ngƣời lao động khi cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nƣớc
3.2.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền lợi
người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
3.2.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước
- Nhóm các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền lợi
của người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Thứ nhất, về vấn đề tạo điều kiện cho người lao động nghèo được sở
hữu cổ phần:
Thứ hai, về vấn đề số lượng cổ phần người lao động được mua:
Thứ ba, về giá bán cổ phần ưu đãi cho người lao động:
Thứ tư, về quy định tại điểm d khoản 2 Điều 48 Nghị định
59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 liên quan đến giá chuyển nhượng cổ phần
của NLĐ chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn cam kết làm việc:
Thứ năm, về vấn đề cổ phần ưu đãi trong doanh nghiệp CPH một
phần và toàn bộ doanh nghiệp:

21


Thứ sáu: cần bổ sung các quy định về trường hợp tính thời gian để
NLĐ được mua cổ phần ưu đãi. Thời gian để NLĐ được tính để mua cổ
phần ưu đãi phải bao gồm cả thời gian phải ngừng việc không do lỗi của họ.
Thứ bảy, cần điều chỉnh quy định về việc tính lãi cho NLĐ trong
trường hợp DNNN chậm CPH theo hướng đảm bảo quyền của cổ đông cho
NLĐ kể từ thời điểm họ đã hoàn thành việc mua cổ phần hợp pháp tại

DNNN CPH theo đúng quy định pháp luật. Theo đó, cần xem xét đến việc
tính toán số cổ tức cho NLĐ được hưởng tương ứng với tỷ lệ phần trăm tỷ
lệ cổ phần mà họ sở hữu trong thời gian chậm CPH thay vì chỉ tính lãi như
hiện nay.
Thứ tám: về chính sách đối với người lao động dôi dư khi cổ phần hóa DNNN:
Trong giai đoạn đổi mới, sắp xếp lại DNNN, bên cạnh những đóng góp hết
sức to lớn cho sư tăng trưởng và phát triển đất nước thì quá trình đó cũng để
lại không ít những khó khăn. Một trong những vấn đề nổi cộm và bức bách
nhất có lẽ vẫn là vấn đề giải quyết việc làm cho lao động dôi dư.
- Nhóm các giải pháp về tổ chức thực hiện pháp luật để bảo
đảm quyền lợi của người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nước
Việc tổ chức thực hiện pháp luật trong việc bảo đảm quyền lợi của
NLĐ khi CPH DNNN cần được tiến hành theo một số phương hướng sau
đây:
- Cần có cơ chế kiểm tra, giám sát để đảm bảo các quy định của pháp
luật được thực hiện một cách nghiêm túc, có hiệu quả, đảm bảo chủ trương
CPH có thể đạt được mục tiêu của nó cũng như nhận được sự ủng hộ từ
phía NLĐ.
- Cần có những biện pháp thích hợp xử lý nghiêm những sai phạm
trong quá trình CPH DNNN, đặc biệt là những sai phạm liên quan đến việc
giải quyết chế độ cho NLĐ khi CPH doanh nghiệp để bảo vệ quyền lợi hợp
pháp, chính đáng cho NLĐ.
- Có biện pháp để phát huy dân chủ, tinh thần chủ động, sáng tạo,
nâng cao hiểu biết của NLĐ, góp phần đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm của
NLĐ trong công ty.
- Có biện pháp để phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những NLĐ khi CPH DNNN.

22



Trên cơ sở các phương hướng cơ bản đã được tác giả trình bày,
chúng ta có thể tiến hành các biện pháp cụ thể sau đây:
- Doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp tăng cường tập huấn,
đào tạo, bồi dưỡng cho NLĐ và cán bộ quản lý công ty về quyền của cổ
đông, của các cơ quan quản lý trong công ty, trình tự, thủ tục thông qua các
quyết định quan trọng của công ty nhằm làm cho cổ đông nắm được các
quy định pháp lý, tránh tình trạng xung đột trong nội bộ công ty hoặc tình
trạng chỉ là “chủ hình thức” của các cổ đông nhỏ trong công ty sau chuyển
đổi do không hiểu pháp luật để đảm bảo hiệu quả hoạt động của công ty sau
CPH.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Qua việc trình bày một cách cụ thể các quy định pháp luật hiện hành
về vấn đề bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong DNNN tiến hành CPH tại
Chương 2 Luận văn, trong Chương 3, tác giả đã tập trung phân tích thực
trạng thực hiện pháp luật về vấn đề này và đề xuất một số phương hướng
cũng như những giải pháp cụ thể để hoàn thiện không chỉ các quy định
pháp luật về bảo đảm quyền lợi NLĐ trong quá trình CPH các DNNN mà
còn để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật trên
thực tế.
Về cơ bản, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật phải đảm bảo
tuân theo các chủ trương của Đảng và Nhà nước đặt ra, đảm bảo công khai,
minh bạch và việc thực hiện có hiệu quả cao. Tác giả đã đưa ra một số quan
điểm về phương hướng để hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo đảm
quyền lợi cho NLĐ khi CPH DNNN như: phải tạo điều kiện ưu đãi tốt nhất
cho NLĐ có thể sở hữu cổ phần, trở thành những người chủ thực sự của
doanh nghiệp và đảm bảo NLĐ giữ được cổ phần của mình trong một
khoảng thời gian nhất định; trong việc giải quyết chế độ cho NLĐ dôi dư
trong DNNN CPH thì cần hài hòa cả yếu tố giải quyết quyền lợi cho NLĐ

dôi dư theo đúng quy định pháp luật cũng như tạo thêm nhiều cơ hội, đào
tạo lại để họ có thể chủ động tìm kiếm được việc làm mới cho mình.
Song song với việc đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện các quy
định pháp luật, tác giả cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật, theo đó cần có biện pháp kiểm tra, giám sát

23


×