Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bằng những quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016, hãy chứng minh thuế nhập khẩu vẫn giữ vai trò là công cụ để bảo hộ nền sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu? Tìm hiểu những “thủ đoạn” chủ yếu hiện nay chủ thể nhập khẩu gian l

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.2 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................................2
NỘI DUNG...............................................................................................................................................2
I – Những vấn đề lý luận chung về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.................................................2
1. Khái niệm...................................................................................................................................2
1.1. Khái niệm thuế nhập khẩu...................................................................................................2
1.2. Khái niệm pháp luật về thuế nhập khẩu..............................................................................3
2. Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu...............................................................................3
II – Vai trò của Thuế nhập khẩu thể hiện thông qua những quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu...........................................................................................................................................4
1. Thuế nhập khẩu là công cụ bảo hộ nền sản xuất trong nước.....................................................4
2. Thuế nhập khẩu khuyến khích xuất khẩu..................................................................................7
III - Những “thủ đoạn” chủ yếu hiện nay chủ thể nhập khẩu gian lận thuế nhập khẩu.....................8
IV – Đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về thuế nhập khẩu của pháp luật Việt Nam...................10

KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................12

1


MỞ ĐẦU
Thuế vừa là nguồn thu ngân sách chủ đạo của Nhà nước, vừa là công cụ mạnh mẽ để Nhà
nước quản lý đất nước trên mọi lĩnh vực. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, một trong những
loại thuế quan trọng tác động đến hoạt động thương mại quốc tế của mỗi quốc gia là thuế xuất nhập
khẩu. Trong những năm qua, chính sách thuế xuất nhập khẩu ở nước ta đã từng bước đổi mới để phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội và chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Nhà
nước ta. Cùng với những cơ hội lớn dành cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước thì sự thay đổi của
pháp luật thuế xuất nhập khẩu cũng mang lại không ít khó khăn, đặc biệt là đối với nền kinh tế còn
non trẻ, sức cạnh tranh của các nền sản xuất trong nước còn kém. Vì vậy, để hòa nhập mà không
“hòa tan”, các nhà lập pháp phải xây dựng một hàng rào pháp lý vẫn phù hợp với các điều ước quốc


tế mà quốc gia đã tham gia ký kết đồng thời vẫn phải đảm bảo cho nền kinh tế trong nước có một
môi trường an toàn và ổn định để phát triển. Luật Thuế Xuất nhập khẩu năm 2016 là một trong
những công cụ pháp lý tiêu biểu trong hàng rào pháp lý này.
Liên quan đến vấn đề này, em xin lựa chọn đề bài số 11: “Bằng những quy định của Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016, hãy chứng minh thuế nhập khẩu vẫn giữ vai trò là
công cụ để bảo hộ nền sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu? Tìm hiểu những “thủ
đoạn” chủ yếu hiện nay chủ thể nhập khẩu gian lận thuế nhập khẩu.”

NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận chung về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1. Khái niệm
1.1.

Khái niệm thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu được hiểu theo nhiều các khác nhau phụ thuộc vào góc độ tiếp cận các loại
thuế trên.
Xét về phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu được quan niệm là khoản đóng góp bằng tiền
của tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, khi họ có hành vi nhập
khẩu hàng hóa qua biên giới một nước.
Xét trên phương diện pháp lý, thuế thuế nhập khẩu có thể hình dung như là quan hệ pháp
luật phát sinh giữa Nhà nước với tổ chức cá nhân, về việc tạo lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ
pháp lý cho các bên trong quá trình thu thuế nhập khẩu. Việc tiếp cận khái niệm thuế nhập khẩu từ
góc độ pháp lý mang lại những ý nghĩa thiết thực. Nó giúp ta nhận diện rõ hơn bản chất của thuế
thuế nhập khẩu. Thực chất đây là một quyết định hành chính đơn phương của quốc gia đối với người
đóng thuế. Trên cơ sở lý thuyết đó, giúp cho nhà nước hoạch định và thực thi chính sách thuế nhập
khẩu phù hợp hơn với quyền lợi của quốc gia và của người đóng thuế, xét trong mối quan hệ lợi ích
với các quốc gia khác trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhìn chung, có thể hiểu thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào hành vi dịch chuyển hành hóa
qua biên giới một cách hợp pháp. Thuế thuế nhập khẩu có những đặc trưng nổi bật như sau:


2


Đối tượng chịu thuế: Hàng hóa được dịch chuyển qua biên giới ở đây bao gồm các tư liệu
sản xuất và tư liệu tiêu dùng do con người sản xuất ra và tư liệu tiêu dùng do con người sản xuất ra
và được lưu thông trên thị trường bằng cách chuyển vào biên giới của một nước.
Thuế thuế nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hoặc thuế gián thu.
Thuế thuế nhập khẩu có chức năng đặc trưng là bảo hộ sản xuất trong nước và điều tiết hoạt
động xuất nhập khẩu. Đây là một trong những đặc trưng căn bản phân biệt giữa thuế nhập khẩu đối
với các loại thuế nội địa khác. Tuy nhiên, trong xu hướng tự do hóa thương mại toàn cầu như hiện
nay, chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của các nước có xu hướng cắt giảm dần các mức
thuế suất, tiến tới việc xóa bỏ ranh giới để phân biệt giữa thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các loại
thuế nội địa.
Riêng về thuế nhập khẩu, có thể rút ra một định nghĩa như sau: Thuế nhập khẩu có thể hiểu
là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa từ nước ngoài nhập khẩu vào mỗi quốc gia, hoặc từ khu
chế xuất xuất vào thị trường quốc gia đó. Khi phương tiện vận tải đến cửa khẩu biên giới thì các
công chức hải quan sẽ tiến hành kiểm tra hàng hóa so với khai báo trong tờ khai hải quan đồng thời
tính số thuế nhập khẩu phải thu theo các công thức tính thuế nhập khẩu đã quy định trước.
1.2. Khái niệm pháp luật về thuế nhập khẩu
Pháp luật về thuế nhập khẩu là danh từ chỉ tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp
thuế, quyết toán thuế hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lí các vi phạm, tranh chấp về thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, phát sinh giữa nhà nước và nộp thuế.
Xét từ phương diện hình thức, pháp luật thuế thuế nhập khẩu bao gồm các văn bản quy phạm
pháp luật như văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội, nghị định và nghị quyết của Chính phủ; quyết
định và chỉ thị của thủ tướng Chính phủ; quyết định, thông tư, chỉ thị của các bộ... Trong đó, tiêu
biểu là Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2016 được thông qua và có hiệu lực ngày 01 tháng 09
năm 2016.
Xét từ phương diện nội dung, pháp luật về thuế nhập khẩu bao hàm các vấn đề chủ yếu sau:
phạm vi áp dụng (chủ thể nộp thuế, đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế nhập khẩu); căn

cứ tính thuế thuế nhập khẩu; trình tự, thủ tục thu thuế nhập khẩu; chế độ miễn giảm thuế thuế nhập
khẩu; xử lí vi phạm và tranh chấp về thuế thuế nhập khẩu,...
Trong bối cảnh tự do hóa thương mại như hiện nay, nội hàm của thuế thuế nhập khẩu được
mở rộng. Theo đó, khái niệm thuế thuế nhập khẩu không chỉ là các quy định của pháp luật quốc gia
mà còn bao hàm cả các quy định trong pháp luật quốc gia mà còn bao hàm cả các quy định trong
pháp luật quốc tê liên quan trực tiếp đến vấn đề thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Các văn bản pháp
lý tiêu biểu trong lĩnh vực này như Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung – CEPT (Common
Effective Prefential Tariff); Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ; Hiệp định GATT hay Hiệp
định WTO hiện hành. Dựa trên các hiệp định mà quốc gia ký kết, các vấn đề liên quan đên thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu sẽ được áp dụng trực tiếp trong quan hệ giữa Nhà nước và người nộp thuế.
Trong trường hợp, luật chỉ quy định những nguyên tắc chung, việc tiến hành các nguyên tắc phải
tiến hành thông qua việc nội luật hóa.
2. Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Thuế thuế nhập khẩu cũng mang những vai trò cơ bản của các loại thuế khác.
3


Thứ nhất là tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Thứ hai là hướng dẫn tiêu dùng trong xã hội.
Thứ ba là điều tiết hoạt động kinh tế.
Ngoài ra, thuế nhập khẩu còn có vai trò đặc trưng riêng, đó là bảo hộ nền sản xuất trong
nước và chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa xuất khẩu trong nước với hàng
hóa ngoại nhập. Điều này được thể hiện qua khía cạnh sau: đối với hàng hoá nhập khẩu do bị đánh
thuế nhập khẩu nên về lý thuyết giá cả hàng hoá này trên thị trường nhập khẩu sẽ tăng lên, trong khi
đó, các hàng hoá được sản xuất trong nước do không phải chịu thuế nhập khẩu (hoặc chỉ chịu thuế
nhập khẩu do phần nguyên liệu hoặc máy móc nhập khẩu) nên giá cả của chúng có xu hướng rẻ hơn
và do đó, sức cạnh tranh lớn hơn hàng hoá ngoại nhập. Điều này cho thấy, việc đánh thuế nhập khẩu
thực chất là một biện pháp để bảo vệ sản xuất trong nước, khi chính phủ nhận thấy những bất lợi
nghiêng về phía hàng hoá được sản xuất từ phía các doanh nghiệp trong nước. Mặt khác, thuế nhập
khẩu giúp các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các ngành còn non trẻ trong nước có thời gian

trường thành và sinh lời, từ đó có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu.
II. Vai trò của Thuế nhập khẩu thể hiện thông qua những quy định của Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 được Quốc hội XI thông qua ngày
14/6/2005 có hiệu lực ngày 1/1/2006. Sau hơn 10 năm thực thi, Luật đã đem lại nhiều kết quả đáng
ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, Luật thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu năm
2005 cũng đã bộc lộ một số hạn chế, không phù hợp với diễn biến thực tế phát triển kinh tế và hội
nhập quốc tế của đất nước. Một số nội dung quy định tại Luật không còn phù hợp với quy định của
hệ thống pháp luật nói chung và một số luật liên quan như Luật Quản lý thuế, Luật Hải quan, Luật
Đầu tư, Luật Bảo vệ môi trường… và thực tiễn xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa những năm gần đây,
đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế và triển khai mạnh mẽ công tác cải
cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020. Trước yêu cầu đổi mới, phát triển, hội nhập mạnh mẽ của
nền kinh tế, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 6/4/2016 đã được Quốc Hội thay thế Luật
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.
Những quy định trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016 đã kế thừa và phát huy
được những ưu điểm của những quy định cũ đồng thời khắc phục được những điểm hạn chế. Đặc
biệt, những quy định về thuế nhập khẩu cũng đã có những thay đổi nhất định. Những thay đổi này
góp phần thể hiện vai trò của thuế nhập khẩu, đó là bảo hộ nền sản xuất trong nước và khuyến khích
xuất khẩu. Sau đây em xin đi vào làm rõ các quy định của Luật thể hiện vai trò trên.
1. Thuế nhập khẩu là công cụ bảo hộ nền sản xuất trong nước
a) Khái niệm bảo hộ nền sản xuất trong nước
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hộ nền sản xuất. Theo từ điển Tiếng việt do Hoàng
Phê chủ biên, “bảo hộ là chính sách bảo vệ sản xuất trong nước chống lại sự cạnh tranh của hàng
hóa nước ngoài trong thị trường nước mình”.
Trong cuốn Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế, Walter Goode lại cho rằng, bảo hộ là
mức độ các nhà sản xuất nội địa và các sản phẩm của họ được bảo vệ khỏi sự cạnh tranh của thị
trường quốc tế. Biện pháp cơ bản để đạt được điều này là thuế quan, trợ cấp, các hạn chế xuất khẩu
tự nguyện và các biện pháp phi thuế quan khác.
4



Từ một vài định nghĩa về bảo hộ trên đây, có thể hiểu, bảo hộ sản xuất là thuật ngữ kinh tế
học quốc tế, chỉ toàn bộ biện pháp bảo hộ ngành sản xuất hàng hóa trong một quốc gia nhằm chống
lại sự cạnh tranh đến từ hàng hóa tương tự từ nước ngoài.
Một số biện pháp bảo hộ thông thường như: áp đặt thuế suất nhập khẩu cao đối với một số
mặt hàng nhập khẩu, áp dụng nâng cao một số tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi
trường,... Các biện pháp này được chia làm hai nhóm là biện pháp thuế quan và biện pháp phi thuế
quan. WTO và các định chế khu vực thương mại thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp pháp
bởi tính minh bạch và rõ ràng của nó. Mức thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu qua lãnh thổ hải quan
của một quốc gia được quy định bằng một con số cụ thể và rõ ràng.
b) Biểu hiện của thuế nhập khẩu là công cụ bảo hộ nền sản xuất thông qua các quy định
của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Thứ nhất, theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005, Khoản 2, 3 Điều 5 và Khoản
1, 2, 3, 4 Điều 11 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định các biện pháp về thuế để tự vệ,
chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa nhưng chưa đầy
đủ, mới chỉ dừng ở việc định danh về các biện pháp này. Việc áp dụng các loại thuế phòng vệ đang
được thực hiện theo quy định tại các pháp lệnh chống bán phá giá, Pháp lệnh chống trợ cấp, Pháp
lệnh về tự vệ.
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016 đã bổ sung các quy định về thuế chống bán
phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử để góp phần bảo vệ nền sản xuất kinh doanh trong
nước trong điều kiện hội nhập quốc tế; trên cơ sở kế thừa, nâng cấp, bổ sung những quy định của
Pháp lệnh liên quan thời gian qua. Cụ thể, Luật đã bổ sung quy định về thuế áp dụng đối với hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu gồm thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ gồm điều kiện
áp dụng, nguyên tắc áp dụng, thời hạn áp dụng đối với từng loại thuế. Căn cứ mức thuế, số lượng
hoặc trị giá hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ,
người khai hải quan có trách nhiệm kê khai và nộp thuế theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Trong phần giải thích từ ngữ, Luật đã bổ sung giải thích một loạt cụm từ ngữ có liên quan về 3 loại
thuế phòng vệ được chuyển nguyên trạng từ quy định tại các Pháp lệnh chống bán phá giá, Pháp
lệnh chống trợ cấp, Pháp lệnh về tự vệ, bao gồm: “Gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất trong nước”; “Ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước”; “Ngành sản

xuất trong nước”; “Trợ cấp”; “Nhập khẩu hàng hoá quá mức”... Cùng với đó, tại chương III (từ Điều
12 đến Điều 15) Luật quy định về nội hàm của từng biện pháp phòng vệ thuế như điều kiện, nguyên
tắc, thời hạn áp dụng biện pháp phòng vệ và thẩm quyền áp dụng các loại thuế này.
Thông qua việc quy định trực tiếp các loại thuế trên trong Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu, đã đảm bảo được sự nhất quán, xuyên suốt, tạo ra môi trường nhằm phát huy vai trò là công
cụ bảo vệ sự lành mạnh của môi trường kinh tế, bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước trong điều kiện
phải cắt giảm thuế NK theo các cam kết quốc tế gần như xuống 0% trong thời gian tới; mặt khác,
nâng quy định pháp lý từ Pháp lệnh lên thành Luật và việc hợp nhất các nội dung về các biện pháp
phòng vệ đối với hàng hóa XK, NK tại Luật Thuế XK, thuế NK phù hợp với quy định của Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, tạo sự rõ ràng, minh bạch trong quá trình hoàn thiện pháp luật
Việt Nam. Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và thuế tự về đều là những hình thức bảo hộ
hợp pháp và có những tác động tích cực tới nền kinh tế, góp phần thúc đấy nên kinh tế trong nước
phát triển.
Thứ hai, để bảo hộ nền sản xuất trong nước, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành
quy định mức thuế suất cao vào hàng hóa nhập khẩu, để làm tăng thành của hàng hóa nhập khẩu. Từ
5


đó, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu đối với hàng hóa nôi địa tương tự. Thuế suất
đối với hàng hóa nhập khẩu gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt, thuế suất thông thường
và được áp dụng như sau:
+ Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc
vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam; hàng hóa từ
khu phi thuế quan nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng Điều kiện xuất xứ từ nước, nhóm
nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam;
+ Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm
nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu trong quan hệ thương mại
với Việt Nam; hàng hóa từ khu phi thuế quan nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng Điều
kiện xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập
khẩu trong quan hệ thương mại với Việt Nam;

+ Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu không thuộc các trường hợp
trên. Thuế suất thông thường được quy định bằng 150% thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương
ứng. Trường hợp mức thuế suất ưu đãi bằng 0%, Thủ tướng Chính phủ căn cứ quy định tại Điều 10
của Luật Thuế xuất nhập khẩu để quyết định việc áp dụng mức thuế suất thông thường.
Thuế nhập khẩu quy định mức thuế suất phân biệt đối với các loại hàng hóa khác nhau, cụ
thể là đối với hàng hóa trong nước đã sản xuất hoặc đang được khuyến khích sản xuất thì chịu mức
thuế nhập khẩu cao, còn đối với các mặt hàng máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu sản xuất thì
chịu mức thuế suất nhập khẩu thấp.
Chính vì thuế nhập khẩu có tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong
nước. Đối với cách nghành nghê đang được nhà nước quan tâm và ưu tiên phát triển, thuế suất thuế
nhập khẩu đánh vào các mặt hàng hóa của ngành nghề này sẽ cao hơn nhằm mục đích giảm bớt sự
cạnh tranh của mặt hàng cùng loại, giảm bớt đối thủ cho các doanh nghiệp còn non nớt về kinh
nghiệm cũng như tiềm lực tài chính ở trong nước.
Ví dụ, đối với hàng hóa trong nước đã sản xuất hoặc đang được khuyến khích sản xuất như
thủy sản, ngành lắp ráp và sản xuất ô tô, ngành cơ khí,.. thì đánh mức thuế suất cao lên cụ thể như
sau:
+ Ngành thủy sản: đối với động vật giáp xác đã được hun khói chịu mức thuế suất thuế nhập
khẩu là 27%.
+ Nhập khẩu các linh kiện để sản xuất ô tô: mức thuế suất thuế nhập khẩu lên tới 70%.
+ Ngành nông nghiệp: đối với mặt hàng trứng chim và trứng gia cầm nguyên vỏ, sống, đã
bảo quản, đã làm chín có mức thuế suất thuế nhập khẩu lên tới 40%.
+ Ngành sản xuất gốm xứ cũng có mức thuế suất lên tới 45%.
+ Ngành dệt may cũng có những loại hàng hóa với mức thuế suất cao lên tới 25%.
+ Còn đối với các mặt hàng máy móc, vật tư, thiết bị, nguyên liệu phục vụ sản xuất mà
trong nước chưa sản xuất được thì áp dụng mức thuế suất thấp.
Thứ ba, Nhà nước còn quy định thuế suất áp dụng trong trường hợp vượt quá hạn ngạch để
bảo hộ nên sản xuất trong nước. Đây được biết đến là hình thức bảo hộ hợp pháp của nhà nước.
6



Hiện nay, hạn ngạch thuế quan được áp dụng đối với 4 mặt hàng đó là: đường, muối, trứng và thuốc
lá.
Ví dụ: Đối với mặt hàng là trứng gà:
- Lượng hạn ngạch ban đầu và thuế suất trong hạn ngạch được áp dụng là 30000 tá chịu mức
thuế 40%.
- Thuế suất ngoài hạn ngạch là 80%.
2. Thuế nhập khẩu khuyến khích xuất khẩu
Ngoài vai trò bảo hộ nền sản xuất trong nước, thuế nhập khẩu còn góp phần khuyến khích
xuất khẩu, cụ thể được thể hiện thông qua các quy định sau:
Thứ nhất, miễn thuế là một trong những quy định của Nhà nước góp phần thúc đẩy xuất
khẩu hàng hóa. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016 đã quy định việc miễn thuế đối với
một số loại hàng hóa nhất định, chủ yếu, các mặt hàng này là nguyên liệu, vật tư, kinh kiện nhập
khẩu gia công, sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Quy định này đã tạo điều kiện về mặt tài chính cho các
doanh nghiệp trong nước đầu tư sản xuất các sản phẩm xuất khẩu. Vì giảm bớt chi phí trong việc
đầu tư nguyên vật liệu đầu vào nên sẽ giảm nhẹ gánh nặng về vốn cho các doanh nghiệp phải gánh
chịu. Cụ thể, Luật quy định miễn thuế các đối tượng này tại Khoản 6, khoản 7 và khoản 16 điều 16
Luật Thuế xuất nhập khẩu như sau:
“Điều 16. Miễn thuế
6. Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để gia công sản phẩm xuất khẩu; sản phẩm hoàn chỉnh
nhập khẩu để gắn vào sản phẩm gia công; sản phẩm gia công xuất khẩu.

Sản phẩm gia công xuất khẩu được sản xuất từ nguyên liệu, vật tư trong nước có thuế xuất khẩu thì
không được miễn thuế đối với phần trị giá nguyên liệu, vật tư trong nước tương ứng cấu thành trong
sản phẩm xuất khẩu.
Hàng hóa xuất khẩu để gia công sau đó nhập khẩu được miễn thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu
tính trên phần trị giá của nguyên vật liệu xuất khẩu cấu thành sản phẩm gia công. Đối với hàng hóa
xuất khẩu để gia công sau đó nhập khẩu là tài nguyên, khoáng sản, sản phẩm có tổng trị giá tài
nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên thì
không được miễn thuế.
7. Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu.

16. Dự án, cơ sở đóng tàu thuộc danh Mục ngành, nghề ưu đãi theo quy định của pháp luật
về đầu tư được miễn thuế đối với: c) Tàu biển xuất khẩu.”
Theo quy định hiện hành, để khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu…
phục vụ cho sản xuất xuất khẩu quy định hiện hành cho phép một số trường hợp đơn vị nhập khẩu
được nợ thuế Nhập khẩu từ 30 ngày đến 270 ngày, thực chất đây là hình thức Nhà nước tài trợ cho
doanh nghiệp thông qua phương thức cho vay vốn nhưng không thu lãi để doanh nghiệp tạm
thời không mất đi một khoản vốn lưu động để nộp thuế Nhập khẩu, quy định này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016 còn quy định về hoàn thuế đối với
hàng hóa nhập khẩu để sản xuất, kinh doanh những đã đưa vào sản xuất hàng hóa xuất khẩu và đã
7


xuất khẩu sản phẩm. Mục đích của quy định trên cũng nhằm khuyến khích việc xuất khẩu. Bởi lẽ,
xét thấy việc doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa này là sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Đây được đánh
giá là một trong những quy định có tac động tích cực cho các doanh nghiệp đẩy mạnh việc sản xuất
sản phẩm để xuất khẩu. Quy định về hoàn thuế tại điều 19 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
“Điều 19. Hoàn thuế
d) Người nộp thuế đã nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất, kinh doanh nhưng
đã đưa vào sản xuất hàng hóa xuất khẩu và đã xuất khẩu sản phẩm.”
- Việc đánh thuế suất cao đối với một số loại hàng hóa đã góp phần bảo hộ một số ngành sản
xuất trong nước, đã góp phần thúc đẩy và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Những ngành sản xuất trong nước trước đây chưa phát triển hay mới phát triển ở quy
mô nhỏ thì hiện nay đang phát triển một cách nhanh chóng đáp ứng từng bước nhu cầu trong nước
thậm chí còn xuất khẩu ra nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta tăng đáng kể của các ngành
dệt may, thủy sản, vật liệu xây dựng ... là những minh chứng rõ ràng nhất.
Báo cáo tại Hội thảo về Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010
có xét đến năm 2020, ông Phạm Anh Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng (Bộ Công
Thương) cho biết, tỷ lệ giá trị xuất khẩu cơ khí trên tổng giá trị ngành cơ khí trong năm 2014 đạt
32,12% đã vượt chỉ tiêu Chiến lược là 30%.

Thêm vào đó, việc hầu như không thu thuế đối với các mặt hàng xuất khẩu, giảm nhóm và
lượng các mặt hàng chịu thuế xuất khẩu đã góp phần khuyến khích việc sản xuất và xuất khẩu trong
nước.
Thứ ba, việc kéo dài thời hạn nộp thuế nhập khẩu đối với các vật tư nguyên liệu dùng để sản
xuất hàng xuất khẩu góp phần tích cực trong việc hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu theo đúng định
hướng kinh tế của nhà nước. Đồng thời, Luật đã sửa đổi nguyên tắc ban hành biểu thuế, thuế suất.
Khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu, vật liệu, ưu tiên loại trong nước chưa đáp ứng nhu cầu; chú
trọng phát triển lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường;
phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và các cam kết về thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Các nguyên tắc sẽ góp phần
bình ổn thị trường và nguồn thu ngân sách Nhà nước; đơn giản, minh bạch, tạo thuận lợi cho người
nộp thuế và thực hiện cải cách thủ tục hành chính về thuế.
III.Những “thủ đoạn” chủ yếu hiện nay chủ thể nhập khẩu gian lận thuế nhập khẩu
Trong điều kiện các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng gia tăng, kéo theo sự tăng
trưởng không ngừng của kim ngạch nhập khẩu, đồng thời, các hành vi gian lận về thuế đối với hàng
hóa nhập khẩu cũng gia tăng đáng kể về hình thức gian lận, số vụ gian lận và quy mô số thuế gian
lận. Cụ thể như sau:
a) Buôn lậu
Đây là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hoá cấm, không khai báo,
tránh sự quản lý của hải quan và trốn nghĩa vụ thuế. Thời gian qua, việc buôn bán, vận chuyển, tiêu
thụ hàng nhập lậu, hàng cấm có diễn biến phức tạp, với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo
quyệt, khó kiểm soát. Hàng nhập lậu chủ yếu là hàng tiêu dùng như quần áo, vải, giày dép, đồ chơi
trẻ em, rượu, bia và các loại nước giải khát, hàng điện máy gia dụng, điện lạnh, thực phẩm… Sau
8


khi nhập lậu vào Việt Nam, các mặt hàng này được xé nhỏ, vận chuyển bằng xe khách, xe tải và
được hợp pháp hoá bằng hệ thống hoá đơn mua qua bán lại giữa các DN.
Bên cạnh hoạt động buôn lậu nêu trên, lợi dụng sự thông thoáng về thủ tục hải quan, nhiều
chủ hàng đã thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nhưng không khai báo đầy đủ các mặt hàng

hoặc cố tình khai thiếu số lượng hàng xuất khẩu, nhập khẩu để không phải nộp thuế.
b) Khai sai chủng loại hàng hoá
Lợi dụng sự thông thoáng về thủ tục hải quan cũng như nguồn lực có hạn của cơ quan hải
quan, nhiều chủ hàng đã thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nhưng không khai báo đầy đủ
các mặt hàng hoặc khai sai tên hàng. Người nộp thuế còn trốn lậu thuế bằng cách nhập khẩu hàng
hóa là sản phẩm hoàn chỉnh nhưng lại tháo bớt một số bộ phận để trở thành hàng hóa chưa hoàn
thiện nhằm hưởng thuế suất thấp của hàng linh kiện. Thực tế thời gian qua, nhiều chủ hàng đã lợi
dụng các vấn đề trên để thực hiện gian lận thuế nhập khẩu bằng việc khai báo sai tên hàng, sai mã số
hàng hóa. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính trung bình hằng năm có khoảng 10.000 mẫu
hàng hóa được phân tích phân loại. Trong đó, mẫu khai đúng chiếm khoảng 47%, sai khoảng 53%,
giảm thuế khoảng 7,4%. Các hành vi thường gặp là: Thứ nhất, Cố tình khai sai tên hàng hóa, chủng
loại hàng hóa nhập khẩu nhằm mục đích giảm số thuế phải nộp. Thứ hai, Người nộp thuế gian lận
thuế bằng cách nhập khẩu hàng hóa là sản phẩm hoàn chỉnh nhưng lại tháo bớt một số bộ phận để
trở thành hàng hóa chưa hoàn thiện nhằm hưởng thuế suất thấp của hàng linh kiện.
c) Khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu
Thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam được phân biệt theo xuất xứ hàng hóa nhập khẩu.
Lợi dụng việc áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc biệt đối với các hàng hóa có xuất
xứ từ các nước, vùng lãnh thổ, khu vực thị trường đã có thỏa thuận về ưu đãi tối huệ quốc hay ưu
đãi đặc biệt với Việt Nam, các chủ hàng hóa cố tình khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu và làm các
giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) giả để được hưởng các mức thuế suất ưu đãi, ưu đãi đặc biệt.
d) Gian lận giá tính thuế
Gian lận thuế trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thông qua giá tính thuế là hành vi rất
phổ biến hiện nay. Các hành vi gian lận thường được các chủ hàng thực hiện dưới các hình thức sau:
Thứ nhất, chủ hàng khai báo thấp trị giá đối với những mặt hàng chịu thuế suất cao, chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt, những mặt hàng hay biến động về giá.
Thứ hai, Khai báo thấp trị giá của các lô hàng nhập khẩu giống hệt nhau. Bằng hành vi này,
chủ hàng đã lợi dụng các quy định về xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo phương pháp trị
giá giao dịch hàng nhập khẩu giống hệt/tương tự để được tính thuế với mức giá thấp hơn so với trị
giá giao dịch thực tế.
Thứ ba, chủ hàng lợi dụng các quy định về chiết khấu, giảm giá hoặc không khai báo tiền

bản quyền, phí giấy phép, các khoản trợ giúp, phí hoa hồng hoặc các khoản thanh toán gián tiếp để
làm giảm trị giá tính thuế hàng nhập khẩu.
Thứ tư, chủ hàng khai tăng trị giá tính thuế so với giá trị thực tế của hàng hóa nhập khẩu để
tăng vốn đầu tư và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài…
e) Giả mạo mục đích xuất khẩu, nhập khẩu để được hưởng ưu đãi thuế
9


Chứng từ thường hay được các chủ hàng giả mạo với mục gian lận thuế thường là các chứng
từ nộp thuế (nhằm giải tỏa cưỡng chế thuế của cơ quan hải quan) hoặc các hồ sơ hải quan (để hợp
thức hóa các lô hàng nhập lậu). Trong đó, các trường hợp phổ biến là gian lận thuế qua việc thực
hiện chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư; gian lận qua việc lợi dụng chính sách quản lý đối
với hàng gia công; gian lận thông qua việc lợi dụng hình thức tạm nhập tái xuất và tạm xuất tái
nhập...
Ngoài ra, nhiều chủ hàng lợi dụng quy định chuyển cửa khẩu để gian lận thuế; lợi dụng
chính sách ân hạn thuế để nợ thuế sau đó tẩu tán bán hàng và bỏ trốn khỏi trụ sở kinh doanh mà
không làm thủ tục giải thể DN để tránh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
IV. Đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về thuế nhập khẩu của pháp luật Việt Nam
1. Những hạn chế còn tổn tại trong chính sách về thuế nhập khẩu tại Việt Nam
Thứ nhất, gian lận thuế xuất nhập khẩu ngày càng phức tạp.
Theo đánh giá của Tổng cục Hải quan, trong vài năm trở lại đây, tình trạng gian lận thuế xuất
nhập khẩu ngày càng trở nên phức tạp. Ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính cho rằng
nguyên nhân nằm ở chỗ ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp chưa cao, trong khi đó cơ chế
chính sách trong lĩnh vực quản lý hải quan còn nhiều kẽ hở, thiếu tính đồng bộ.
Thứ hai, về thực tiễn áp dụng pháp luật về giá tính thuế nhập khẩu.
Một số thủ đoạn gian lận giá có tính phổ biến và điển hình trong quá trình áp dụng pháp luật
về giá tính thuế nhập khẩu như là khai báo không trung thực, khai thấp về chất lượng hàng hóa, khai
báo hàng không thanh toán, thủ đoạn đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm cấp thương
mại cao hơn…
Thứ ba, về thực tiễn áp dụng pháp luật về thuế suất thuế nhập khẩu.

Thuế suất thuế nhập khẩu là căn cứ quan trọng nhất để xác định số thuế nhập khẩu mà doanh
nghiệp phải nộp cho nhà nước. Trong quá trình hội nhập kinh tế chúng ta đã cam kết cắt giảm hàng
rào thuế quan theo lộ trình nhất định. Việc quy định thuế suất là rõ ràng trong các văn bản pháp luật
và các cam kết quốc tế, song việc áp dụng thuế suất trên thực tế lại vô cùng phức tạp. Các nhà nhập
khẩu có vô vàn cách biến hóa nhằm trốn thuế, hoặc hưởng thuế suất thấp hơn để thoát khỏi hoặc
giảm bớt một phần nghĩa vụ thuế đối với nhà nước.
Một trong số những ảo thuật mà nhà nhập khẩu sử dụng được coi là ngày càng tinh vi là việc
gian lận giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa ( C/O).
Thủ đoạn khai sai nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc ưu đãi về thuế, thủ
đoạn gian lận khác mà nhà nhập khẩu sử dụng là khai báo gian dối về tên hàng hóa nhập khẩu để
được áp mã và hưởng thuế suất thấp hơn. Ví dụ: Thép cán nguội nhưng được doanh nghiệp khai báo
là cán nóng để gian lận tiền thuế của Nhà nước với số lượng lớn. Qua thông tin phản ánh từ doanh
nghiệp và người dân, ngành Hải quan phát hiện một số doanh nghiệp đang lợi dụng khai báo mặt
hàng thép mạ kẽm, thép cán nguội thành thép cán nóng để hưởng mức thuế suất thấp, gây thất thoát
lớn cho ngân sách Nhà nước, ảnh hưởng đến thị trường kinh doanh thép trên toàn quốc.
Thứ tư, hạn chế trong quy trình hành thu thuế nhập khẩu.
10




Về khai thuế nhập khẩu.

Nội dung kê khai thuế trong các tờ khai hải quan bao gồm kê khai về mặt hàng nhập khẩu, số
lượng hàng nhập khẩu và giá trị hải quan. Trên thực tế thì đều không được kê khai một cách trung
thực và khó có thể dựa trên ý thức tự giác của nhà nhập khẩu bởi việc kê khai thuế nhập khẩu do chủ
thể tiến hành hoạt động nhập khẩu tự thực hiện, điều này đòi hỏi nhà nhập khẩu phải thực hiện tự
giác, trụng thực và nghiệm chỉnh.
Về vấn đề hàng hóa, rất khó có thể phân biệt và mã hóa loại hàng hóa nhập khẩu một cách
chính xác, bởi lẽ hàng hóa nhập khẩu là vô cùng đa dạng về chủng

Về số lượng, nếu cán bộ hải quan không ra bãi kiểm tra một cách trực tiếp thì không thể hoàn
toàn tin tưởng vào số lượng mà nhà nhập khẩu khai báo. Phần lớn các lô hàng nhập khẩu đều có số
lượng lớn hơn nhiều so với số lượng khai báo, đặc biệt là đối với nguyên liệu dệt may, rất khó để
kiểm tra được chính xác số lượng mà doanh nghiệp khai báo và kèm theo trong lô hàng có hàng lậu
hay không.
Về trị giá hải quan, giá nhà nhập khẩu đưa ra bao giờ cũng là giá thấp nhất so với thực tế.
Công tắc xác định trị giá hải quan hàng nhập khẩu hiện nay vẫn còn rất nhiều khó khăn và chưa thể
giải quyết dứt điểm tình trạng này.


Về nộp thuế nhập khẩu:

Mặc dù điều 9 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2016 quy định khá rõ ràng về thời hạn nộp
thuế, nhưng trong thực tế đã xảy ra rất nhiều trường hợp lợi dụng chính sách ân hạn thuế gây thất
thu thuế cho Nhà nước.
Theo Cục điều tra chống buôn lậu tình trạng buôn lậu đang diễn ra hết sức phức tạp tại các
cảng biển. Tình hình càng nghiêm trọng hơn khi Việt nam phổ biến áp giá tính thuế theo những cam
kết với WTO, doanh nghiệp tự khai báo , tự xác định trị giá tính thuế trên tờ khai. Chính vì vậy, các
đối tượng đã sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, đặc biệt là thông đồng làm giả hợp đồng thương mại,
khai báo giá trị thấp so với thực thế, nhằm áp mã sai đối với những mặt hàng nhạy cảm để được
hưởng mức thuế suất thấp. Nhiều doanh nghiệp, cá nhân nhập khẩu đã lợi dụng chính sách thông
thoáng, miễn hoặc kiểm tra theo tỷ lệ để nhập hàng thừa so với hợp đồng, khai báo hải quan không
đúng, nhập nguyên liệu để sản xuất hàng suất khẩu nhưng lại đem tiêu thụ trái phép trong nước, giả
hợp đồng gia công…
Hiện nay, thủ đoạn trốn thuế ngày càng tinh vi hơn, giá trị trốn thuế ngày càng lớn, đòi hỏi
việc xây dựng pháp luật phải ngày càng chặt chẽ, nhưng đồng thời cũng phải đơn giản hóa các thủ
tục sao cho vừa có thể ngăn ngừa được tình trạng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trón thuế nhập
khẩu mà vẫn không rườm rà, ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu nói chung.
Thực tế trên cho thấy việc áp dụng Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016 trên thực tế vô
cùng phức tạp do số lượng cũng như tính chất các vụ trốn thuế nhập khẩu ngày càng tăng và tinh vi

hơn. Một phần do quy định của Luật còn có nhiều kẽ hở. Mặt khác do lực lượng hải quan của ta còn
thiếu và còn yếu, trong khi các đối tượng buôn lậu ngày càng liều lĩnh và tinh vi hơn. Điều này đòi
hỏi pháp luật thuế nhập khẩu phải không ngừng hoàn thiện để bám sát thực tế, tránh tình trạng nạn
buôn lậu hoành hành gây thất thoát thuế của Nhà nước.
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuế nhập khẩu
11


Hiện nay, đối với Việt Nam, Thuế Xuất nhập khẩu vẫn là một trong những biện pháp quan
trọng để bảo hộ sản xuất trong nước. Nhưng theo cam kết với WTO và AFTA thì thuế Nhập khẩu
của Việt Nam bắt buộc phải cắt giảm, theo đó mức độ bảo hộ sản xuất trong nước sẽ giảm. Để tận
dụng những lợi thế do hội nhập mang lại nhưng cũng hạn chế thấp nhất những tác động tiêu cực,
luật thuế Xuất nhập khẩu phải được tiếp tục hoàn thiện theo hướng sau:
2.1.

Đối với giá tính thuế

Nhanh chóng hiện đại hóa ngành hải quan, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, nối
mạng toàn ngành trong nước, yêu cầu Hải quan các địa phương nhanh chóng cập nhật thông tin dữ
liệu về giá đối với những lô hàng đã thông quan ở địa phương vào ngân hàng dữ liệu giá để Hải
quan trong cả nước có thể tham vấn.
Xây dựng chiến lược mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lình vực hải quan, tranh thủ tối
đa sự giúp đỡ của hải quan thế giới và tiến đến nối mạng quốc tế để xây dựng và hòa thiện ngân
hàng dữ liệu về giá của ngành hải quan.
Nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ làm công tác giá vì theo ông vụ trưởng Hỏa Ngọc
Tâm thì toàn ngành Hải quan chỉ mới có khoảng 300 cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách làm
công tác giá, trong đó chỉ hơn 10% được đào tạo qua các trường lớp thuộc khối kinh tế.
Kết hợp chặt chẽ giữa bộ phận kiểm tra giá nhập khẩu và bộ phận kiểm tra sau thông quan để
giảm bớt phiền hà về thủ tục khai báo. Theo đó, bộ phận kiểm tra giá nhập khẩu nếu có nghi ngờ về
giá nhập khẩu nhưng chưa đủ cơ sở để bác bỏ thì vẫn tiến hành làm thủ tục thông quan lô hàng đó,

nhưng đồng thời chuyển những hồ sơ này cho bộ phận kiểm tra sau thông quan để bộ phận kiểm
tra sau thông quan lên kế hoạch kiểm tra.
2.2.

Đối với Danh mục biểu thuế

Mỗi loại hàng hóa được sản xuất ra đều có tên gọi nhất định. Ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ
tuy cùng một mặt hàng nhưng có thể có những tên gọi khác nhau. Việc thống nhất tên gọi một loại
hàng hóa khi nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trong trong việc xác định đúng mã hàng hóa nhập khẩu
để áp dụng đúng mức thuế suất thuế nhập khẩu. Việt Nam đã xây dựng danh mục hàng hóa nhập
khẩu dựa trên cơ sở Hệ thống điều hóa mô tả và mã hóa hàng hóa của tổ chức Hải quan thế giới (gọi
tắt là HS) và việc nhận diện đúng tên hàng, đúng mã số trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi là yêu cầu
cơ bản của việc ban hành Danh mục HS.
Tuy nhiên biểu thuế nhập khẩu hiện hành đã không theo kịp sự đa dang về hàng hóa trong
hoạt động nhập khẩu, mã số giữa biểu thuế nhập khẩu so với mã số theo danh mục HS ngày càng
bộc lộ được nhiều điểm chưa thống nhất. Chỉ một sản phẩm nhưng có thể các cơ quan chức năng lại
xác định khác nhau. Để hạn chế tình trạng cùng một loại hàng hóa nhập khẩu nhưng lại có nhiều
cách áp mã khác nhau thì biểu thuế nhập khẩu cần được cập nhật bổ sung chi tiết, cụ thể phù hợp
với danh mục HS trong điều kiện hàng hóa nhập khẩu ngày càng nhiều.
2.3.

Đối với hoạt động kê khai nộp thuế

Trong thời gian tới nên nâng cao hiệu quả cơ chế tự động khai nộp thuế. Theo kinh nghiệm
các nước tiên tiến, nếu thực hiện triệt để cơ chế tự khai, tự nộp thuế sẽ nâng cao ý thức tự giác, đề
cao trách nhiệm trước pháp luật của đối tượng nộp thuế, giảm bớt chi phí thông báo thuế, rút ngắn
thủ tục hành chính, tạo khung pháp lí minh bạch và thuận tiện đối với hoạt động nhập khẩu, bởi vì
một trong những yếu tố gây cản trở và làm giảm đi tính hấp dẫn là sự kém minh bạch trong chính
12



sách và việc mất quá nhiều thời gian trong việc giải quyết các vấn đề thủ tục hành chính. Đây là
nhóm vấn đề các rào cản vô hình và tạo ra những chi phí cơ hội, chi phí không đoán trước đối với
doanh nghiệp. Cùng với thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp đòi hỏi phải tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra việc chấp hành chính sách thuế để ngăn ngừa và phạt kịp thời các trường hợp lợi dụng cơ
chế tự khai, tự nộp để gian lận thuế.
Để khắc phục tình trạng gian lận đồng thời vẫn duy trì chính sách khuyến khích của Nhà
nước, thời gian ân hạn nộp thuế Nhập khẩu cần phải được sửa đổi theo hướng: đơn vị nhập khẩu
phải nộp thuế ngay trước khi hàng hóa được thông quan; nếu trường hợp doanh nghiệp không thể
nộp thuế Nhập khẩu ngay thì doanh nghiệp có thể ký quỹ, thế chấp, cầm cố với ngân hàng để ngân
hàng đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp về khoản tiền thuế Nhập khẩu phải nộp và sau khi đã được
ngân hàng bảo lãnh thì doanh nghiệp có thể được thông quan hàng hóa.
Sau đó, khi đến hạn nộp thuế Nhập khẩu nếu doanh nghiệp không nộp thuế nhập khẩu thì
ngân hàng sẽ thay doanh nghiệp nộp tiền thuế Nhập khẩu vào ngân sách nhà nước theo thông báo
của cơ quan hải quan mà không cần có sự đồng ý của doanh nghiệp. Khi áp dụng biện pháp này có
thể hạn chế được tình trạng nợ thuế, trốn lậu thuế diễn ra phổ biến như hiện nay và cũng đảm
bảo được lượng vốn lưu động cần thiết cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.

KẾT LUẬN
Thuế nhập khẩu là một công cụ rất mạnh mẽ để quản lí, điều tiết lượng hàng hóa nhập khẩu và bảo hộ nền
sản xuất trong nước. Hàng năm, chính sách thuế nhập khẩu đã có những hoạt động nhằm bảo vệ nền sản xuất
trong nước, thúc đẩy sự hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và nó tạo ra nguồn thu đáng kể cho ngân sahs
nhà nước. Tuy thời gian qua thuế nhập khẩu đã phát huy được tác dụng tích cực của nó nhưng trước những
yêu cầu và nhiệm vụ mới, đặc biệt là xu thế thương mại hóa toàn cầu, thì thuế suất của ta bộc lộ nhiều yếu
điểm còn tổn tại. cho nên phải có những chính sách, giải pháp về thuế quan thích hợp để khắc phục những
yếu kém còn tồn tại, nhằm thúc đẩy sự hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Trên đây là những tìm hiểu của em liên quan đến đề tài em thực hiện, bài viết nếu con có
những thiếu sót em mong được thầy cô góp ý để giúp em hoàn thiện thêm những hiểu biết của mình
liên quan đến đề tài thú vị này. Em xin chân thành cảm ơn!


13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016
2. Nghị định 122/2016/NĐ-CP quy định về biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh
mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan
3. Giáo trình Luật thuế Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2015.
4. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016: Những đổi mới quan trọng theo yêu cầu hội nhập
THS. HOÀNG THỊ THU HIỀN Bài đăng trên ấn phẩm Tạp chí Tài chính kỳ 1 số tháng 7/2016
5. Nhận diện các hành vi gian lận thuế, Lê Xuân Trường, Nguyễn Đình Chiến, Bài đăng trên Tạp chí
Tài Chính
6. Giải pháp hoàn thiện Thuế Xuất nhập khẩu, />7.
8.
9.
10.

14



×