Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Công nghệ phụ trợ cho da giầy ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.52 KB, 25 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam là nước xuất khẩu giày dép lớn thứ 4 và là 1 trong 10 nước sản xuất giày dép
lớn nhất thế giới. Tuy nhiên theo nhận xét của giới kinh doanh da giày, trên thị trường thế
giới khơng hề thấy bóng dáng một đơi giày mang nhãn hiệu Việt Nam. Một trong những
nguyên nhân cơ bản, theo các doanh nghiệp là do ngành da giày Việt Nam hiện chỉ làm
hàng gia công xuất khẩu chứ chưa trực tiếp xuất dưới thương hiệu của mình. Nhìn xa hơn
5, 10 năm nữa, nếu vẫn chỉ gia công và nhập ngun phụ liệu như hiện nay thì rất khó để
ngành da giày khẳng định thế đứng là một ngành xuất khẩu chủ lực
Chúng ta có thể nói rằng các ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam hiện nay đang được
thai nghén và bắt đầu phát triển. Nhận định này được đưa ra dựa trên ba bằng chứng, đó
là luồng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tăng lên; việc cải cách các doanh nghiệp nhà nước
đang được tiến hành nhanh chóng; và sự lên ngơi của các doanh nghiệp tư nhân.
Tuy nhiên, thúc đẩy sự phát triển của các ngành cơng nghiệp phụ trợ địi hỏi chính phủ và
chính quyền các cấp phải có khn khổ chính sách phù hợp, và sự hỗ trợ đúng mức cho
quá trình này. Nhưng điều quan trọng hơn cả chính sách của chính phủ và sự hỗ trợ của
chính quyền các cấp là sự sẵn sàng của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước
và tư nhân, trong việc nhận biết tầm quan trọng của các ngành công nghiệp phụ trợ nhằm
tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này, và trong việc xây dựng và
phát triển những ngành như thế từ nỗ lực của chính bản thân họ. Các biện pháp chính
sách và sự tích cực chủ động mang tính liên tục sẽ góp phần làm tăng nhận thức và sự sẵn
sàng của các doanh nghiệp Việt nam đối với mục tiêu này.
Mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của các ngành công nghiệp phụ trợ, nhưng hầu
hết các cơ quan chức năng của Nhà nước vẫn mơ hồ về khái niệm các ngành công
nghiệp phụ trợ. Một phần của nguyên nhân này là người ta đó quá quen với sản xuất tích
hợp theo chiều dọc của nhà nước - từng là trụ cột của nền kinh tế - là mọi linh phụ kiện
đều được sản xuất và chế tạo trong nội bộ doanh nghiệp đó. Một ngun nhân khác là do
khơng có đầy đủ khái niệm mang tính pháp lý đối với các ngành cơng nghiệp phụ trợ, và


vì thế mà việc thực thi có hiệu quả việc thúc đẩy các ngành này vẫn cũng hạn chế. Bản


thân chúng ta vẫn không biết làm thế nào để xác định đúng các ngành này.
Vì vậy, việc phát triển ngành Da giầy cần phải được sự hỗ trợ, gắn với sự phát triển một
số ngành công nghiệp phụ trợ như quy hoạch phát triển, định hướng phat triển các nhà
máy, xí nghiệp sản xuất da và các sản phẩm phụ liệu cho ngành Da giày như: chỉ may,
kim may, khóa kéo, cúc nhựa, keo dán... các loại hợp chất tẩy,thuéc để thay thế hàng
nhập khẩu, thiết bị phụ tùng, dịch vụ sửa chữa, bao bì...qua một thời gian tìm hiểu và
nghiên cứu em xin trình bày hiểu biết của em về “Công nghệ phụ trợ cho da giầy ở Việt
Nam” .
Em xin chân thành cảm ơn thầy TS.Trương Đức Lực đã giúp đỡ em hoàn thành đề án
này.


MỤC LỤC

Phần 1:Tông quan về ngành Da giày Viêt Nam và q trình hình thành cơng nghiệp phụ
trợ.
1.1 Lịch sử phát triển ngành Da giày Việt Nam.
1.2 Thực trạng phát triển của ngành Da giày Việt Nam.
1.3 Công nghiêp phụ trợ ở Việt Nam.
1.4 Vai trị của cơng nghiệp phụ trợ đối với ngành Da giày.
Phần 2:Thực trạng phát triển công nghiệp phụ trợ cho giày dép ở Việt Nam.
2.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến công nghiệp phụ trợ cho ngành Da giày.
2.2 Thực trạng phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành Da giày ở Việt Nam.
Phần 3: Điều kiện phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành Da giày.
3.1 Thuận lợi và khó khăn.
3.2 Cơ hội và thách thức khi Việt Nam ra nhập WTO trong nền kinh tế thị trường.
Phần 4:Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ ngành Da giày ở Việt
Nam.
4.1 Phương hướng phát triển công nghiệp phụ trợ ngàng Da giày.
4.2 Một số giải pháp và chính sách cụ thể.



Phần 1: Tổng quan về ngành Da giày Việt Nam và q trình hình thành cơng nghiệp phụ
trơ.
1.1 Lịch sử phát triển ngành Da giay Việt Nam.
1.1.1. Năm 1990 thành lập hiệp hội Da-Giầy Việt nam
Trên cơ sở kiến nghị của các DN, nịng cốt là Liên hiệp các xí nghiệp Da Giầy, ngày 9/6/1990 Bộ công nghiệp nhẹ đã có quyết định số: 297/CNn TCLD về việc thành lập Hiệp hội Da - Giầy VN với 52 DN hội viên. Hiệp
hội đã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ I và bầu Ban chấp hành nhằm lãnh đạo các
hoạt động của ngành giai đoạn 1990 - 1992. Tuy nhiên sau đó khơng lâu,
Liên xơ và các nước Đơng Âu tan rã đã tác động sâu sắc đến ngành Da - Giầy
VN vốn đang rất non trẻ và mới bắt đầu khởi sắc.
1.1.2. Năm 1992 Đại hội nhiệm kỳ II Hiệp hội Da - Giầy VN được triệu
tập
Trong giai đoạn này, xu hướng chuyển dịch sản xuất giầy dép đồ da từ các
nước trong khu vực vào Việt nam để tranh thủ lợi thế giá nhân công rẻ và
môi trường đầu tư thuận lợi đã xuất hiện . Tháng 8/1992 Đại hội lần thứ 2 đã
được triệu tập để cũng cố lại Hiệp hội, quyết định chương trình hành động
của ngành công nghiệp Da - Giầy trước khi bước vào thời kỳ đổi mới.
1.1.3. Năm 1993 kỳ họp thứ 2 nhiệm kỳ II Hiệp hội Da - Giầy VN được
tiến hành
Để tranh thủ các lợi thế, phát huy tối đa tiềm năng trong sản xuất hàng xuất
khẩu ,Ban chấp hành Hiệp hội đã triệu tập hội nghị với 58 hội viên để triển
khai các mục tiêu cụ thể đến 1995. Các DN hội viên đã trao đổi, thảo luận dự
thảo chiến lược phát triển ngành Da - Giầy VN đến năm 2005.
1.1.4. Năm 1996, Đại hội nhiệm kỳ III Hiệp hội Da - Giầy VN
Từ năm 1993, ngành Da - Giầy VN có nhịp độ phát triển rất cao, vượt nhiều
mục tiêu chủ yếu của kế hoạch. Năm 1996, ngành có 100 DN sản xuất. Đại
hội nhiệm kỳ III của Hiệp hội được tổ chức với sự tham gia của 74 DN hội
viên. Dự báo lợi thế của ngành tiếp tục tới năm 2005. Các mục tiêu phát triển
ngành đã được đặt ra và ngành cần phải tự chủ hơn nữa để phát triển với tốc



độ cao hơn, bền vững hơn và hiệu quả hơn so với 5 năm trước.
1.1.5. Năm 1998, Đại hội giữa nhiệm kỳ III Hiệp hội Da - Giầy VN được
triệu tập
Trong hai năm 1996-1997, ngành Da - Giầy VN đã có được kết quả đáng
khích lệ, Tuy nhiên 6 tháng đầu năm 1998 tình hình trên khu vực và trên thế
giới có nhiều biến động khơng thuận lợi cho sự phát triển của ngành. Cuộc
khủng hoảng tài chính của các nước Châu Á làm cho ngành Da- Giầy VN
phải chịu sự cạnh tranh với các nước trong khu vực. Sản xuất và đầu tư bị
chững lại, đặc biệt là các DN hợp tác với đối tác Hàn quôc.
Với diễn biến như trên, Ban chấp hành Hiệp hội đã thấy cần thiết triệu tập
Đại hội giữa nhiệm kỳ của Hiệp hội để các DN cùng trao đổi, nhìn nhận,
đánh giá và tìm ra các giải pháp thiết thực nhằm tháo gỡ khó khăn, đảm bảo
ổn định sản xuất và phát triển bền vững trong thời gian tới.
1.16. Năm 2000 Đại hội nhiệm kỳ IV được tổ chức và năm bắt đầu của
thiên niên kỷ mới đối với Hiệp hội và ngành Da Giầy VN.
Bước vào năm 2000, các DN hội viên đã thực hiện vượt mức kế hoạch ngay
từ những tháng đầu năm. Hiệp hội đã tổ chức thành công lễ kỷ niệm 10 năm
ngày thành lập Hiệp hội (9/6/1990-9/6/2000) và Đại hội nhiệm kỳ IV Hiệp
hội Da-Giầy VN. Trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 của toàn ngành,
các DN cần tập trung đầu tư cho sản xuất, chú trọng đầu tư cho khoa học
công nghệ, thiết kế mẫu... Hiệp hội Da Giầy VN từng bước được củng cố
theo hướng tăng cường vai trị đại diện để có các kiến nghị kịp thời với Chính
phủ triển khai các hoạt động hỗ trợ các DN hội viên trong mở rộng thị
trường, xúc tiến thương mại, mở rộng quan hệ hợp tác và giao lưu Quốc tế và
tổ chức các khoá đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành và nâng cao trình độ quản
lý nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành.
1.17. Năm 2002, Đại hội giữa các nhiệm kỳ IV, Hiệp hội da giầy Việt
Nam

Được tổ chức tại Hà Nội, Hội nghị đã xác nhận những kết quả
ngành đạt được trong thời gian qua và những khó khăn tồn tại, đặc biệt
lưu ý đến các vấn đề về KHCN, đào tạo, phát triển nguyên phụ liệu, thâm
nhập thị trường tiềm năng, sự quyết tâm chuyển đổi phương thức sản xuất từ
gia công sang tự sản xuất.
1.1 8. Năm 2003
Các hoạt động của Hiệp Hội tách độc lập và từng bước được củng cố, mở
rộng theo hướng tăng cường các hoạt động đại diện và các hoạt động hỗ trợ
doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập quốc tế
và khu vực.
Hiệp hội chủ trì chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm giai đoạn 20032005.


1.1.9. Năm 2007, Đại hội nhiệm kỳ V Hiệp hội da giầy Việt Nam
Tháng 3/2007- Đại hội nhiệm kỳ V được tổ chức tại Hà Nội. Đại
hội đánh dấu bước phát triển mới của ngành. Các doanh nghiệp hội viên và
toàn ngành phấn đấu nỗ lực thực hiện mục tiêu phát triển ngành đến năm
2010. Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật vững chắc cho bước phát triển vào
những năm tiếp theo đến 2020.
1.2 Thực trạng phát triển của ngành Da giày Việt Nam.
Ơng Trần Đình Thăng, Giám đốc Cơng ty TNHH Nhật Việt, một trong số ít doanh
nghiệp giày dép sản xuất toàn bộ và trực tiếp xuất khẩu với thương hiệu Vento, khẳng
định: “Phần lớn các doanh nghiệp da giày của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu sản xuất
dưới hình thức gia cơng cho nước ngồi hoặc cho thuê nhà xưởng”. Báo Lao Động mới
đây cũng cho biết đến 70% các doanh nghiệp gia dày của Việt Nam hiện nay là gia công
thuần túy cho nước ngồi. Đây là thực trạng khơng lấy gì làm tự hào của ngành cơng
nghiệp đã có gần 20 năm “hội nhập và phát triển”.
Da giày là một trong những lĩnh vực đầu tiên đón nhận làn sóng đầu tư nước ngoài từ
đầu những năm 90 của thế kỷ trước với việc hình thành hàng loạt nhà máy gia cơng,
liên doanh, 100% vốn nước ngoài) trải dài trên cả nước. Thế nhưng đến nay, ngành xuất

khẩu đứng thứ 3 của Việt Nam với hơn 600.000 lao động vẫn bị đánh giá là lợi nhuận
thấp. “Mặc dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng giá trị gia tăng của ngành này
chỉ đạt 25%”- báo cáo của Hiệp hội da giày Việt Nam (Lefaso) cho hay. Giá trị gia tăng
nhỏ nhoi đó chủ yếu nằm ở sức lao động, yếu tố được xem là xem là “lợi thế cạnh
tranh” lớn nhất của da giày Việt Nam những năm qua. Song lợi thế về “giá nhân công
rẻ” và “nguồn lao động dồi dào” này đang mất dần đi khi người lao động không cịn
mặn mà với cơng việc hết sức vất vả, khắc nghiệt mà thu nhập thấp (da giày là một
trong những ngành có thu nhập thấp nhất). Bằng chứng là ngành da giày hay xảy đình
cơng và tình trạng khan hiếm lao động đã bắt đầu diễn ra ở nhiều doanh nghiệp da giày
của Hải Phòng trong năm nay.
Sở dĩ giày dép Việt Nam vẫn miệt mài gia công, giá trị gia tăng thấp bởi “80% nguyên
liệu phải nhập khẩu”, “ngành phụ liệu mới chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn
chế như nhãn, ren, dây giày... nhưng lại bỏ ngỏ những loại phụ kiện tinh xảo”; “năng
suất lao động của Việt Nam rất thấp, chỉ bằng 1/10 Indonesia, 1/20 Malaysia, 1/30 Thái
Lan”; “trình độ tay nghề ở mức trung bình và trung bình khá”- theo báo cáo của Lefaso
khẳng định.
Thật đáng buồn là sau gần 2 thập kỷ làm ăn với nước ngoài, được tiếp thu rất nhiều kinh
nghiệm, cơng nghệ, bí quyết tiên tiến của thế giới, những đơi giày, đơi dép Việt Nam
vẫn phải oằn mình “cõng” trên lưng những thương hiệu ngoại nếu như muốn có chỗ
đứng ở thị trường Âu - Mỹ. Việt Nam hiện có hơn 500 doanh nghiệp da giày nhưng


những thương hiệu được người tiêu dùng trong nước biết đến chỉ đếm trên đầu ngón tay
như Biti’s, Bita’s, Thượng Đình, Vento, Sholega… Cịn những thương hiệu Việt Nam
có mặt ở thị trường nước ngoại lại càng ít nữa. Dường như mới chỉ có Biti’s (cơng bố có
mặt ở hơn 40 nước), Vento (vươn tới Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Canada, Bắc Mỹ),
cịn Vina Giày mới đang tìm đường sang Mỹ.
Một vấn đề nữa là các doanh nghiệp da giày Việt Nam chỉ mải mê với thị trường xuất
khẩu mà l bỏ ngỏ thị trường trong nước. Hiện các doanh nghiệp da giày Việt Nam mới
“phủ sóng” được một nửa thị phần nội địa. Nửa còn lại là “sân chơi” của giày dép Trung

Quốc, Thái Lan và một số nước láng giềng.
Một ngành công nghiệp chủ yếu làm gia cơng, lợi nhuận thấp, khơng có thương hiệu,
chưa thống lĩnh được “sân nhà” thì khơng thể gọi là một ngành kinh tế mạnh cho dù số
lượng về doanh nghiệp, kim ngạch xuất khẩu, lao động có thể là “hồnh tráng”.
1.3 Công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam.
Khái niệm: Theo định nghĩa của Cục phát triển CNPT (BSID) Thái Lan: CNPT là các
ngành công nghiệp cung cấp các linh phụ kiện máy móc và các dịch vụ kiểm tra, đóng
gói kiểm tra cho các ngành công nghiệp cơ bản. Ở Việt Nam, cho đến nay vẫn thiếu một
định nghĩa pháp lý về CNPT. Khái niệm CNPT được hiểu khác nhau giữa các cơ quan
chính phủ. Tuy vậy, nhìn chung, CNPT là khái niệm chỉ tồn bộ những sản phẩm cơng
nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh
kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v… và cũng có
thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Sản phẩm CNPT
thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV).
Công nghiệp phụ trợ Việt vẫn như bộ phim dài tập.
Là chìa khóa thúc đẩy công nghiệp phát triển nhưng ngành công nghiệp phụ trợ Việt bị
nhiều chuyên gia "chê" yếu và thiếu. Câu chuyện này được bàn đi bàn lại hơn 10 năm
qua như một bộ phim dài tập chưa đến hồi kết.
>Doanh nghiệp Nhật hối thúc VN về công nghiệp phụ trợ
Công nghiệp phụ trợ tạo giá trị gia tăng cho ngành sản xuất cơng nghiệp, góp phần phát
triển năng lực sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, hiện nay 7080% sản phẩm phụ trợ của các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp vẫn phải nhập khẩu.
Trong buổi hội thảo quốc tế Phát triển công nghiệp hỗ trợ kinh nghiệm của Nhật Bản và
một số nước châu Á diễn ra chiều 30/10, nhiều chuyên gia nhận định, ngành cơng
nghiệp phụ trợ Việt Nam đang bị rỗng hóa, vừa thiếu vừa yếu về nhiều mặt.


Câu chuyện về ngành công nghiệp phụ trợ trong nước đã được đưa ra bàn bạc, tìm cách
tháo gỡ trong hơn chục năm nhưng đến nay vẫn chỉ là bộ phim dài tập chưa đến hồi kết.
Đại sứ Nhật Bản Mitsuo Sakaba bắt đầu quan tâm đến công nghiệp phụ trợ khi nhậm

chức vào đầu năm 2008. Ông Sakaba đã “sốc mạnh” khi biết thực trạng ngành công
nghiệp phụ trợ nội địa đã cản trở doanh nghiệp Nhật đầu tư vào đất nước ông sắp làm
đại sứ. "Tôi đã sốc khi phát hiện tỷ lệ cung ứng hàng hóa tại Việt Nam cho các doanh
nghiệp Nhật trong quy trình chế tạo còn rất thấp, phần lớn các linh kiện đều phải nhập
ngoại. Vấn đề phát triển công nghiệp phụ trợ của Việt Nam có q nhiều việc phải
làm”, ơng Sakaba chia sẻ.
Tiến sĩ Nguyễn Đắc Hưng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho rằng, các mặt hàng
công nghiệp phụ trợ do doanh nghiệp nội địa sản xuất có giá trị thấp, sản phẩm chủ yếu
là bao bì đóng gói, phụ tùng và linh kiện đơn giản. Ông Hưng đưa ra minh họa, một
doanh nghiệp Nhật sản xuất rượu tại Việt Nam đã dở khóc dở cười bởi trong số các sản
phẩm do doanh nghiệp Việt sản xuất, phía cơng ty chỉ dùng được thùng carton. Tất cả
các sản phẩm khác, thậm chí đến vỏ chai rượu cũng phải nhập do sản phẩm nội địa
không đáp ứng được yêu cầu chất lượng lẫn độ phối màu cần thiết.
Việt Nam được biết đến với lợi thế so sánh là nguồn nhân lực có chi phí thấp. Tuy
nhiên, vấn đề nổi cộm là khi nào Việt Nam có được nguồn nhân lực chất lượng? Cơng
nghiệp hóa Việt Nam cịn thiếu và yếu ở nguồn nhân lực, trình độ tay nghề cũng như
chun mơn. Ơng Hưng đưa ra ví dụ, trước đó, Tập đồn Intel của Mỹ đầu tư cơ sở sản
xuất nên cần nguồn nhân lực rất lớn. Đến thị trường Việt Nam, tập đồn này đã phải ngã
ngửa vì thất vọng khi hàng nghìn người thi tuyển, chỉ lấy được vài chục người. Đây là
một điều chưa từng xảy ra đối với tập đồn Intel ở các nước Đơng Nam Á.
Phía doanh nghiệp Nhật cho rằng, các cơng ty Việt vẫn cịn thụ động trong q trình
làm việc. Ơng Sachio Kageyama, Giám đốc Canon Việt Nam bộc bạch, hãng Canon
thâm nhập vào thị trường Việt Nam từ năm 2001 với 7 công ty Việt đối tác. Đến nay,
hãng đã có mối quan hệ làm ăn với khoảng 100 doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên tất
cả các mối làm ăn đều do phía công ty Canon phải chủ động đi lùng từ... danh bạ điện
thoại. "Canon Việt Nam đã phải lật tìm từng địa chỉ trong danh bạ điện thoại để đặt
quan hệ với các doanh nghiệp nội địa. Từ năm 2001 đến nay, chưa có một nhà cung cấp
Việt nào chủ động đến đặt quan hệ làm ăn với chúng tôi", ông Sachio Kageyama nói.
Ơng Trần Quang Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Điện tử Việt Nam, cho rằng, doanh
nghiệp điện tử trong nước chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và rất khó tiếp cận được với

cơng ty ngoại. Khi đã tiếp cận được, đơn đặt hàng của đối tác Nhật lại địi hỏi q nhiều
sản phẩm khơng chun biệt khiến các doanh nghiệp Việt lúng túng. “Nếu được các
doanh nghiệp Nhật Bản hỗ trợ cơng nghệ, đầu ra cũng như có đơn đặt hàng cụ thể,
chuyên biệt thì sự hợp tác làm ăn sẽ thuận lợi hơn rất nhiều”, ông Hùng chia sẻ.


Nhiều chuyên gia nhận định, công nghiệp phụ trợ đi lên chậm chạp do nguyên nhân cơ
bản thiếu vốn. Ông Hưng phân tích, để phát triển ngành cơng nghiệp phụ trợ, doanh
nghiệp cần vốn trung và dài hạn trong khi đó, ngân hàng chỉ cho doanh nghiệp vay ngắn
hạn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ khơng có tài sản thế chấp nên càng tiếp cận vốn vay hơn.
Ngồi ra, tính từ đầu năm đến nay, tỷ giá VND/USD đã tăng 9,02 lần so với cùng kỳ
năm 2008. Theo ông Hưng, tỷ giá ngoại tệ giữa VND/USD biến động mạnh gây khơng
ít khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phụ trợ bởi các doanh
nghiệp này phải nhập nguyên liệu cho đầu vào sản xuất.
Thiếu vốn, yếu nhân lực, ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam vẫn chỉ ở dạng sản
xuất giản đơn dưới sự hướng dẫn của người nước ngồi. Ơng Keinichi Ono, Viện
nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản cho rằng, khi Việt Nam tham gia AFTA,
WTO, FTAs, các luồng sản phẩm của các nước ASEAN tràn vào có thể phá hủy nền
tảng cơng nghiệp của Việt Nam. "Trong khi các ngành phụ trợ còn đang yếu, doanh
nghiệp Việt Nam có nguy cơ mất các cơ sở chế tạo và chỉ giữ lại các đại lý bán hàng",
ơng Keinichi Ono lo ngại.
1.4 Vai trị của công nghiệp phụ trợ đối với ngành Da giày Viêt Nam.
Thứ nhất, CNPT đóng vai trị rất quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm cơng nghiệp chính và đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố theo hướng
vừa mở rộng vừa thâm sâu. CNPT không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp
và những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều
vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước
ngoài nhưng vì chủng loại q nhiều, phí tổn chun chở, bảo hiểm sẽ làm tăng
phí tổn đầu vào. Đó là chưa nói đến sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập
khẩu. Vì lý do này, CNPT khơng phát triển thì các ngành cơng nghiệp chính sẽ

thiếu sức cạnh tranh và phạm vi cũng giới hạn trong một số ít các ngành.
Thứ hai, CNPT có vai trị rất quan trọng trong việc thu hút dòng vốn FDI vào lĩnh
vực cơng nghiệp, đồng thời, kích thích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
nước. Muốn thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài FDI, CNPT phải đi trước một
bước, tạo nên cơ sở hạ tầng để cung cấp sản phẩm đầu vào cần thiết cho các
ngành công nghiệp lắp ráp bởi lẽ bản thân các tập đoàn và các công ty lớn về lắp
ráp hiện cũng chỉ giữ lại trong quy trình của mình các khâu nghiên cứu, phát triển
sản phẩm và lắp ráp thay vì tất cả gói gọn trong một công ty hay nhà máy. Điều
này đặc biệt đúng trong các ngành sản xuất các loại máy móc, là những ngành
đang phát triển mạnh tại Đơng Á và là những lĩnh vực Việt Nam có lợi thế so
sánh động. Các mặt hàng này thường có hàng trăm hoặc hàng ngàn bộ phận, linh
kiện ở nhiều tầng lớp, từ những loại thông thường đơn giản đến những loại có
cơng nghệ rất cao. Đối với các cơng ty nước ngoài đầu tư vào ngành sản xuất này,
tỷ lệ nội địa hố càng cao càng có lợi. Trên thực tế, phí tổn về linh kiện, bộ
phận và các sản phẩm trung gian trong những sản phẩm thuộc các ngành sản xuất


máy móc chiếm tới hơn 80% giá thành, lao động chỉ chiếm từ 5-10%, do đó khả
năng nội địa hố có tính chất quyết định đến thành quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Nói cách khác, tỷ lệ của chi phí về CNPT cao hơn nhiều so với chi phí lao
động nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng CNPT không phát triển sẽ
làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Chừng nào các ngành phụ trợ sẵn có
chưa được cải thiện đồng loạt, nhiều DNNVV của nước ngồi chưa đến đầu tư ồ
ạt thì FDI của các công ty lớn không thể tăng hơn.
Thứ ba, CNPT cịn góp phần thúc đẩy việc chuyển giao cơng nghệ, áp dụng các
kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Bởi lẽ, dưới áp lực cạnh tranh, các công ty CNPT
phải tỏ ra có tiềm năng cung cấp linh kiện, phụ liệu với chất lượng và giá thành
cạnh tranh được với hàng nhập. Tiềm năng đó sẽ thành hiện thực nhờ chuyển giao
cơng nghệ từ doanh nghiệp FDI.
Thứ tư, CNPT cịn góp phần tạo cơng ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa trên

các địa bàn sản xuất của doanh nghiệp và khu vực lân cận.
Phần 2: Thực trạng phát triển công nghiệp phụ trợ cho giày dép ở Việt Nam.
2.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến công nghiệp phụ trợ cho ngành Da giày.
2.1.1Thị trường sản phẩm nguồn.
Nhu cầu sản phẩm nguồn phải tạo ra thị trường ổn định để phát triển hiệu quả các ngành
phụ trợ. Nếu sản phẩm nguồn có quy mơ nhỏ và chủng loại đa dạng thì số lượng sản
xuất của các ngành phụ trợ sẽ nhỏ, giá thành sản xuất cao. Nếu tiêu thụ sản phẩm nguồn
nội địa không lớn các nhà sản xuất nguồn sẽ không tham gia thị trường và ngành sản
xuất sản phẩm phụ trợ gặp khó khăn.
2.1.2Nguồn lực tài chính: Đầu tư vào các ngành sản xuất phụ trợ bất lợi hơn so với đầu
tư vào sản xuất nguồn (thường là lắp ráp): Suất đầu tư lớn; công nghệ phức tạp; thời hạn
đầu tư và hoàn vốn dài; độ rủi ro trong đầu tư cao. Nguồn lực tài chính cho đầu tư phát
triển cơng nghiệp và chính sách huy động nguồn lực đóng vai trị quan trọng trong việc
bảo đảm các ngành công nghiệp phụ trợ phát triển bền vững.
2.1.3.Tiến bộ khoa học và công nghệ: Do yêu cầu cải tiến liên tục để nâng cao năng lực
cạnh tranh, việc thiết kế và chế tạo mới sản phẩm nguồn yêu cầu công nghiệp phụ trợ
phải thường xuyên đổi mới, nghiên cứu và sản xuất phụ liệu, phụ tùng hay chi tiết phù
hợp.
2.1.4.Bảo đảm yêu cầu nghiêm ngặt về (QCD) chất lượng, chi phí và thời hạn cung ứng
(các sản phẩm phụ trợ) nhằm đáp ứng những cam kết với khách hàng của sản xuất
nguồn. Nguồn linh kiện, phụ kiện sản xuất trong nước phong phú, chất lượng cao sẽ tích


cực hạ giá thành sản phẩm nguồn.
2.1.5.Sự phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử hiện nay tạo điều kiện
cung và cầu (sản phẩm phụ trợ và sản phẩm nguồn) gần nhau hơn, giảm thời gian giao
dịch, mở rộng phạm vi quan hệ giữa hai khu vực.
2.1.6.Quan hệ giữa sản phẩm phụ trợ và sản phẩm nguồn không chỉ giới hạn trong phạm
vi quốc gia, mà phải phát triển trong phạm vi khu vực và toàn cầu để nâng cao hiệu quả.
2.1.7.Hoạch định chiến lược phát triển các ngành cơng nghiệp phụ trợ là một phần của

chính sách phát triển kinh tế quốc gia, thu hút đầu tư nước ngồi và phân cơng lao động
hiệu quả giữa sản xuất trong nước và các tập đoàn đa quốc gia.
2.1.8.Cơ chế chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển công nghiệp phụ

2.2 Thực trạng phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành Da giày ở Việt Nam.
Ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn sơ khai và còn yếu kém,
chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp, đặc biệt là cung cấp
cho các doanh nghiệp, các tập đồn có vốn đầu tư nước ngồi. Hơn nữa, số lượng doanh
nghiệp chun về cơng nghiệp phụ trợ cịn ít, trình độ chỉ ở mức trung bình, thậm chí
cịn có thể nói là thấp và lạc hậu so với khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới. Ngành
công nghiệp phụ trợ đã và đang là một vấn đề rất đáng lo ngại cho sự phát triển ổn định,
bền vững của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng.
Nền kinh tế phát triển, quá trình đầu tư cho sản xuất kinh doanh ngày càng tăng, đặc
biệt là đầu tư FDI hiện nay đang đổ mạnh vào Việt Nam. Quá trình đầu tư này khơng
những cần thiết bị, máy móc hiện đại (hiện nay phần lớn là phải nhập từ bên ngồi), mà
cịn địi hỏi nguyên liệu, các chi tiết, các phụ kiện cung ứng cho việc chế tạo ra sản
phẩm của các doanh nghiệp đó ngày càng lớn. Nhưng sản phẩm phụ trợ của nước ta lại
rất nghèo nàn, khiến các doanh nghiệp đầu tư vào lại rất khó tìm được đối tác hỗ trợ có
hiệu quả thiết thực. Ngành dệt may hiện nay là ngành đạt kim ngạch tới 9 tỷ USD, lớn
nhất ở nước ta trong năm 2007 nhưng khơng có cơng nghiệp phụ trợ thích đáng, nên đã
phải nhập tới 80% tỷ lệ nguyên phụ liệu sản xuất. Ngành sản xuất ơ tơ đang là ngành có
nhu cầu tiêu thụ ngày càng lớn, nhưng tỷ lệ nội địa hoá chỉ đạt 3-7% giá thành, cung cấp
được vài loại sản phẩm đơn giản, giá trị thấp như ghế ngồi, khung xe, một số chi tiết
phụ bằng nhựa, kim loại…
Gần đây chi phí cho giá thành nguyên vật liệu trên thế giới tăng vọt nên các doanh
nghiệp FDI đều mong muốn tăng tỷ lệ nội địa hố để giảm chi phí và tăng khả năng


cạnh tranh về giá. Theo điều tra của Tổ chức thương mại Nhật Bản (Jetro) thì có tới
72% các nhà sản xuất nước ngồi đầu tư vào Việt Nam nói rằng họ có kế hoạch tăng tỷ

lệ nội địa hố nguyên, phụ liệu, linh kiện. Tỷ lệ nội địa hoá của các nhà sản xuất Nhật
Bản vào Việt Nam mới đạt 22,6% về giá trị, thấp hơn nhiều so với các nước ASEAN
như Thái Lan đạt 50%; Malaisia 45% và Indonesia là 39%. Điều tra này cũng chỉ rõ
rằng, chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam cung ứng chưa đáp ứng
được u cầu, có q ít doanh nghiệp làm cơng nghiệp phụ trợ. Nếu có thì cũng chủ yếu
là tham gia ở khâu đóng gói, bao bì, khâu cung ứng linh, phụ kiện cho việc sản xuất
không có mấy. Thường các doanh nghiệp phải nhập từ nước thứ ba như Thái Lan, Hàn
Quốc, Trung Quốc, như vậy chắc chắn giá thành sản phẩm phải bị đẩy lên cao hơn so
với chính các doanh nghiệp Việt Nam trực tiếp cung cấp nguyên, phụ kiện. Một doanh
nghiệp Hàn Quốc cũng cho biết họ đã phải đến thăm khoảng 100 doanh nghiệp Việt
Nam mới tìm được một nhà cung ứng linh kiện phù hợp. Công nghiệp phụ trợ ở Việt
Nam chưa phát triển còn do các nhà sản xuất và lắp ráp nước ngồi thiếu thơng tin về
các cơng ty cung cấp linh kiện. Thông tin từ các danh bạ doanh nghiệp rất hạn chế, quá
bao quát, không tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể, những thông tin này là chưa đủ để
các doanh nghiệp rút ngắn thời gian tìm kiếm đối tác cung ứng linh kiện tiềm năng.
Phần 3:Điều kiện phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành Da giày.
3.1 Thuận lợi và khó khăn.

Thuận lợi:
- Việt Nam đã gia nhập ASEAN, APEC, WTO, đã là thành viên không thường trực Hội
Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
- Đổi mới và cải cách mạnh mẽ: giảm tiêu cực trong quản lý hành chánh, hứa hẹn nhiều
thuận lợi cho nhà đầu tư trong hoạt động sản xuất và kinh doanh.
- Chính trị ổn định: tạo tâm lý an tồn để nhà đầu tư hoạch định lâu dài, sản xuất kinh
doanh dài hạn.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế: đảm bảo
quyền lợi nhà đầu tư, hạn chế các khó khăn do khác biệt về luật lệ, quy định.
- Tạo cơ hội cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trong cơ chế thị trường.
- Chủ động và tích cực hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về tự do hóa,
thuận lợi hóa đầu tư, tạo thị trường mới cho nhà đầu tư.



-Nguồn nhân công dồi dào giá rẻ thu hút vốn đầu tư nước ngồi lớn.
Khó khăn:
- Chưa có sự triển khai các chính sách phù hợp và sự hỗ trợ kịp thời, đúng mức.
- Cần có chương trình hành động cụ thể, kế hoạch chi tiết để triển khai đảm bảo mục
tiêu, tiến độ.
- Hỗ trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp phụ trợ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến.
- Các ngành công nghiệp phụ trợ chưa nhận biết tầm quan trọng của việc tăng cường
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
- Hình thức sản xuất tích hợp theo chiều dọc, khơng chun mơn hố.
- Quy mơ thị trường trong nước còn hạn chế:do chất lượng của các sản phảm da giày
nên thu hút khách hàng trong nước ít.
- Thơng tin phối hợp giữa FDI và SME cịn hạn chế.
3.2 Cơ hội và thách thức khi Việt Nam ra nhập WTO trong nền kinh tế thị trường.
Cơ hội: Sau khi gia nhập WTO, ngành dệt may Việt Nam sẽ nhận được những đối xử
tương tự như các nước thành viên WTO khác dành cho nhau.
Thứ nhất, hàng dệt may của Việt Nam khi xuất khẩu vào một nước thành viên WTO sẽ
nhận được đối xử tối huệ quốc mà nước thành viên ấy dành cho các thành viên WTO
khác. Điều này có nghĩa là về số lượng xuất khẩu: Hạn ngạch vào các thị trường được
dỡ bỏ, doanh nghiệp dệt may có thể tự do xuất khẩu theo nhu cầu thị trường;
Thứ hai, khi đã thâm nhập được thị trường một nước thành viên WTO, hàng dệt may
của Việt Nam sẽ khơng cịn bị phân biệt với sản phẩm bản xứ nữa mà thay vào đó sẽ
được đối xử bình đẳng về thuế, phí, lệ phí, các qui định liên quan đến việc bán hàng,
cạnh tranh...
Thứ ba, khi gặp tranh chấp thương mại, hàng dệt may của Việt Nam có thể nhận được
bảo vệ từ cơ chế xử lý tranh chấp trong khung khổ WTO.
Thứ tư, trong những trường hợp khó khăn, ngành dệt may Việt Nam có thể nhận được
bảo hộ tạm thời từ cơ chế tự vệ.



Thứ năm, sau khi gia nhập WTO, hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam sẽ khơng cịn
chịu hạn ngạch khi xuất khẩu vào các nước thành viên khác nữa.
Thứ sáu, ngành dệt may Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi từ đầu tư nước ngồi, đi kèm
với trình độ quản lý và kỹ thuật công nghệ mới.
Cuối cùng, việc trở thành thành viên WTO cho thấy những nỗ lực cải cách và phát triển
kinh tế của Việt Nam đã được quốc tế công nhận, và đây là cơ sở để Việt Nam tham gia
đàm phán và thực thi các cam kết tự do hóa thương mại ngày một sâu rộng hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển ngành da giày, việc
chuyển giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù hợp với yêu cầu khắt khe của thị
trường. Việc gia nhập tổ chức mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) tạo điều kiện việc giao
lưu hàng hố thơng suốt, ít cản trở, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, ưu đãi về thuế quan
tạo điều kiện cho ngành hàng da giày thâm nhập vào thị trường khu vực.
Ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết năm 2007, toàn
ngành đã thu hút 600.000 lao động (chưa kể số lao động sản xuất trong lĩnh vực nguyên
phụ liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia đình và các làng nghề có thể lên tới
hơn 1 triệu lao động) chiếm 9% lực lượng lao động cơng nghiệp. Đây có thể được coi là
lợi thế so sánh với mức chi phí nhân cơng thấp.
Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú trọng.
Tồn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền và quảng bá
hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và xuất khẩu da giày
tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị trường, phòng ngừa
các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các vụ tranh chấp thương
mại. Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có nhiều đổi mới, hình thành nhiều
mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh phân phối của các tập đoàn xuyên
quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện tử.
Với dân số trên 80 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng cho thị trường nội địa. Mặt
khác, với đời sống ngày càng được nâng cao, khả năng mua sắm của xã hội ngày càng
được cải thiện, đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới làm cho ngành du
lịch phát triển là những cơ hội để ngành da giày phát triển theo hướng xuất khẩu trực

tiếp ngay trên sân nhà.
Chế độ xã hội ổn định và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển
thông qua cơ chế chính sách phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế.


Về năng lực sản xuất. Đến hết năm 2007, năng lực sản xuất của toàn ngành đạt:
Giày dép các loại: 680 triệu đôi
Cặp túi xách các loại: 88 triệu chiếc
Da thuộc thành phẩm: 150 triệu sqft.
Năng lực sản xuất của ngành đã đạt trên 90% mức năng lực được đầu tư, có mức tăng
trưởng mạnh trong 7 năm liên tiếp với mức tăng trung bình đạt 10%/năm trên 2 loại sản
phẩm chính là giày dép và túi cặp các loại. Riêng sản phẩm da thuộc đạt mức tăng
trưởng trung bình khoảng 20%/năm. Mặt hàng chủ lực của ngành vẫn tập trung chủ yếu
vào giày thể thao, chiếm khoảng 51% năng lực sản xuất các sản phẩm giày dép của
ngành, phù hợp với xu thế tiêu dùng của thị trường xuất khẩu.
Về thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu da giày Việt Nam ngày càng được mở
rộng và ổn định cụ thể:
Thị trường EU:
Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng nhanh về
khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm 2007, EU vẫn là thị trường lớn nhất tiêu
thụ giày dép của Việt Nam với doanh thu 2,6 tỉ USD, tăng 33,9% so với năm 2006 và
chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam.
Thị trường Mỹ:
Năm 2004, Việt Nam đã vượt Italia và trở thành nhà cung cấp lớn thứ tư sau Trung
Quốc, Brazil, Indonesia. Trong năm 2007, xuất khẩu vào Mỹ đạt 995 triệu USD, tăng
30% so với năm 2006. Tháng 1/2008, xuất khẩu giày dép vào Mỹ tăng 25% so với năm
2007, đạt 93,8 triệu USD, đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của toàn ngành. Hiện
nay và trong những năm tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với sản phẩm
giày dép của Việt Nam và các sản phẩm xuất khẩu chính sẽ là giày thể thao, giày da
nam nữ.

Thị trường các nước Đông Á:
Đây là khu vực thị trường có những phong tục tập quán tương đối giống Việt Nam,
cùng nằm ở khu vực châu Á. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu từ Việt Nam sang các thị
trường này là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà. Năm 2006, xuất khẩu vào
Nhật Bản đạt 113 triệu USD, tăng 21% so với năm 2005.


Thách thức:Trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của Trung Quốc, một đất
nước có thế mạnh về mặt hàng giày dép. Gần đây Trung Quốc là có thêm lợi thế với
việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Mặt hàng giày dép xuất khẩu của
Trung Quốc có ưu thế hơn giày dép xuất khẩu của Việt Nam do trình độ cơng nghệ của
Trung Quốc tiên tiến hơn, mẫu mã của họ đẹp và đa dạng hơn.
Tuy sức mua của thị trường truyền thống (EU) vẫn giữ ở mức ổn định nhưng Việt Nam
bị chịu nhiều sức ép hơn về thuế và các rào cản so với một số nước như Brazil,
Indonesia... đặc biệt từ ngày 6 tháng 10 năm 2006, EU áp thuế chống bán phá giá giày
mũ da sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu sang EU là 10%.
Xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh trong những năm gần đây nhưng thị phần của
Việt Nam cũng mới chỉ chiếm 2,1% về số lượng so với 83,5% của Trung Quốc.
Đối với các thị trường xuất khẩu khác như Liên bang Nga, các nước Đông Âu, Trung
Đông, châu Phi, tuy không yêu cầu cao về mẫu mã và chất lượng nhưng hàng Việt Nam
vẫn không thể thâm nhập mạnh vào thị trường các nước này.
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị của sản phẩm trong
đó ngành sản xuất da đóng vai trị quan trọng nhất. Theo LEFASO, nhu cầu da thuộc
năm 2007 của toàn ngành khoảng 350 triệu feet vng, trong khi đó các nhà máy thuộc
da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản xuất và đáp ứng được
khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80% còn lại phải nhập khẩu.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ sản
xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày... nhưng lại “bỏ ngỏ”
những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như khoen, móc, cườm, các
vật trang trí trên giày, đặc biệt là giày nữ và giày trẻ em.

Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và có yếu tố nước
ngồi, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành, chứng tỏ năng lực ngành phụ thuộc hồn
tồn vào làn sóng đầu tư của tư bản tư nhân trong nước và quốc tế.
Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do dân số trẻ, nhưng
năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây chuyền 450 lao
động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của người
Nhật, 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của Indonesia.
Hiện nay trình độ cơng nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở mức trung bình và
trung bình khá, song khá lệ thuộc vào nước ngồi về trang bị máy móc. Khả năng đầu tư
và chuyển giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp, đội ngũ chuyên
gia hiểu biết sâu và cập nhật cơng nghệ cịn q ít và chưa đáp ứng được nhu cầu phát


triển của doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng về cơng
nghệ cịn hạn chế...Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng suất lao
động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành trong thời gian trước mắt cũng như lâu
dài. Điều này cịn dẫn đến việc ngành có nguy cơ mất khả năng cạnh tranh trên thị
trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
Phần 4:Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ ngành Da giày ở Việt
Nam.
4.1 Phương hướng phát triển công nghiệp phụ trợ ngành Da giày ở Việt Nam:
-Có thể nói, ưu tiên đẩy mạnh phát triển các ngành CNPT là mũi đột phá chiến lược để
trong thời gian ngắn khắc phục các mặt yếu cơ bản của công nghiệp Việt Nam, phát
triển nhanh và bền vững các ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam như Da - giày, …
trong quá trình CNH - HĐH đất nước từ nay đến năm 2020.
-Về mặt cơ chế chính sách, ngày 31/7/2007, Bộ Cơng Thương đã có Quyết định phê
duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020
dựa theo xu thế hội nhập phải gắn với phân công hợp tác quốc tế và phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Phát triển CNPT trên cơ sở chọn lọc, dựa trên tiềm năng lợi thế so
sánh của Việt Nam với công nghệ tiên tiến có tính cạnh tranh quốc tế cao gằn liền với

mục tiêu nâng cao giá trị gia tăng trong nước đối với sản phẩm công nghiệp xuất khẩu
và phấn đấu trở thành một bộ phận trong dây chuyền sản xuất quốc tế. Mục tiêu phần
đấu đến năm 2010 đáp ứng 30% nhu cầu nội địa đối với ngành dệt may, nâng tỉ
lệ sử dụng nguyên liệu phụ trong nước đạt 40% đối với ngành da giày, tỷ trọng cho phí
nguyên vật liệu trong nước trong giá thành sản phẩm ước đạt 22-25% đối với ngành
điện tử, tin học…
-Về mặt lợi thế so sánh, về cơ bản, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh
mẽ ngành CNPT như nguồn nguyên - nhiên liệu, về trình độ nhân công cho những sản
phẩm tinh xảo và đặc biệt là đang có hàng trăm các doanh nghiệp hoạt động trong
ngành cơ khí - chế tạo máy, đó là chưa kể đến lực lượng hùng hậu các xưởng, cơ sở cơ kim khí, làng nghề trên tồn quốc.
Hơn nữa, việc nhà nước dồn hết nỗ lực tập trung phát triển ngành này tự nó gây được
niềm tin của các doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường đầu tư ở Việt Nam. Sau một
thời gian đầu tư ồ ạt ở Trung Quốc, hiện nay nhiều công ty đa quốc gia muốn phân tán
sang sang các nước khác và đang trong giai đoạn chọn thị trường mới. Các nhà sản xuất
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... đang có xu hướng chuyển dần cơng nghệ và nhà máy
vào Việt Nam. Do đó Việt Nam cần phát tín hiệu càng sớm càng tốt để chớp thời cơ.


-Hình thành chính sách thúc đẩy: tính pháp lý về các ngành cơng nghiệp phụ trợ, chính
sách thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ, bao gồm ưu đãi về thuế, các biện pháp hỗ
trợ kinh doanh.
- Cần phải có một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, triển khai một cách tổng thể hoạt
động công nghiệp phụ trợ bởi vì cơ chế hiện nay khó phối hợp các cơ quan nhà nước có
liên quan .
- Doanh nghiệp nhà nước (SOE) hoạt động có hiệu quả cần được khuyến khích chuyển
hố sản xuất từ phương thức tích hợp theo chiều dọc sang chun mơn hố.
- Thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân (đóng vai trị quan trọng hàng đầu đối
với sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ) tiếp cận nguồn tài chính và cơng
nghệ. Việt Nam rất thiếu trang thiết bị, bí quyết cơng nghệ để sản xuất các linh kiện, đặc
biệt chưa có sự chuyển giao công nghệ sản xuất phụ tùng linh kiện từ nước ngoài.

- Nguồn vốn ODA cho phát triển: Chính phủ Nhật Bản đã cho Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam vay khoản tín dụng 2 bước (Two Step Loan) làm 2 lần với tổng số tiền lên tới
100 tỷ yên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện tại, đang xem xét khả năng cho vay
lần thứ ba.
- Đầu tư cơng nghệ cao: Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ ngành
công nghiệp phụ trợ như nguồn ngun-nhiên liệu, về trình độ nhân cơng cho những sản
phẩm tinh xảo và đặc biệt là đang có hàng trăm các doanh nghiệp hoạt động trong
ngành cơ khí-chế tạo máy, đó là chưa kể đến lực lượng hùng hậu các xưởng, cơ sở cơkim khí, làng nghề trên toàn quốc. Hiện tại các doanh nghiệp VN hiện chỉ có thể tập
trung đầu tư và phát triển sản xuất các loại phụ tùng linh kiện có kích cỡ cồng kềnh với
công nghệ sản xuất không phức tạp và với mục tiêu đáp ứng nhu cầu của các doanh
nghiệp FDI.
- Phát triển nguồn nhân lực: thiếu lực lượng kỹ thuật từ trung cấp đến cao cấp có trình
độ về quản lý, kinh nghiệm thực tế. Sự mất cân đối trong tỉ lệ đào tạo giữa thực hành và
lý thuyết, quản lý và công nhân. Thiếu sự thâm nhập các ngành kỹ thuật trong quá trình
đào tạo.
- Cải cách triệt để đào tạo đại học theo cả hai hướng: phần cứng (bằng trang thiết bị) và
phần mềm (chương trình đào tạo và phương thức giảng dạy), cần điều chỉnh chế độ đào
tạo thực hành ở xưởng sản xuất thực tế, nghiên cứu về việc xây dựng cơ chế “Hợp tác
đào tạo giữa trường đại học và doanh nghiệp.
- Đào tạo và nâng cao trình độ ngoại ngữ: Chất lượng ngoại ngữ đóng vai trị quan trọng


trong việc diễn giải chính xác thơng tin và nâng cao sự hiểu biết của hai bên.
-Phổ biến thông tin doanh nghiệp: nỗ lực tìm kiếm khách hàng mới, thiết lập một hệ
thống phổ biến thông tin, xây dựng một cơ sở dữ liệu về công nghiệp phụ trợ và xây
dựng các mạng lưới thông tin nội bộ doanh nghiệp.
- Tổ chức diễn đàn doanh nghiệp trao đổi yêu cầu giữa SME và FDI. Có một đầu mối
chính thức để các DN gặp nhau.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc quản lý tốt chất lượng, chi phí và thời gian
giao hàng đạt yêu cầu xuất khẩu.

- Cải thiện hệ thống kiểm soát chất lượng: Việc quản lý và kiểm tra chất lượng sản
phẩm là một trong nhiều chức năng quan trọng của chính phủ trong việc phát triển các
ngành công nghiệp phụ trợ và tăng cường khả năng cạnh tranh.
- Cải tiến năng lực của các nhà cung ứng. Các doanh nghiệp nội địa có trình độ cơng
nghệ lạc hậu, trung bình, năng lực tổ chức sản xuất và quản lý chưa đáp ứng được đòi
hỏi của các nhà đầu tư FDI. Một trong những điểm yếu nhất là khả năng nghiên cứu,
phát triển (R&D).
-Tận dụng vốn và cơng nghệ nước ngồi: một lượng vốn FDI cho -Hình thành chính
sách thúc đẩy: tính pháp lý về các ngành cơng nghiệp phụ trợ, chính sách thúc đẩy các
ngành cơng nghiệp phụ trợ, bao gồm ưu đãi về thuế, các biện pháp hỗ trợ kinh doanh.
- Cần phải có một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, triển khai một cách tổng thể hoạt
động cơng nghiệp phụ trợ bởi vì cơ chế hiện nay khó phối hợp các cơ quan nhà nước có
liên quan .
- Doanh nghiệp nhà nước (SOE) hoạt động có hiệu quả cần được khuyến khích chuyển
hố sản xuất từ phương thức tích hợp theo chiều dọc sang chun mơn hố.
- Thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân (đóng vai trị quan trọng hàng đầu đối
với sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ) tiếp cận nguồn tài chính và cơng
nghệ. Việt Nam rất thiếu trang thiết bị, bí quyết cơng nghệ để sản xuất các linh kiện, đặc
biệt chưa có sự chuyển giao công nghệ sản xuất phụ tùng linh kiện từ nước ngồi.
- Nguồn vốn ODA cho phát triển: Chính phủ Nhật Bản đã cho Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam vay khoản tín dụng 2 bước (Two Step Loan) làm 2 lần với tổng số tiền lên tới
100 tỷ yên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện tại, đang xem xét khả năng cho vay
lần thứ ba.


- Đầu tư cơng nghệ cao: Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ ngành
công nghiệp phụ trợ như nguồn nguyên-nhiên liệu, về trình độ nhân công cho những sản
phẩm tinh xảo và đặc biệt là đang có hàng trăm các doanh nghiệp hoạt động trong
ngành cơ khí-chế tạo máy, đó là chưa kể đến lực lượng hùng hậu các xưởng, cơ sở cơkim khí, làng nghề trên toàn quốc. Hiện tại các doanh nghiệp VN hiện chỉ có thể tập
trung đầu tư và phát triển sản xuất các loại phụ tùng linh kiện có kích cỡ cồng kềnh với

công nghệ sản xuất không phức tạp và với mục tiêu đáp ứng nhu cầu của các doanh
nghiệp FDI.
- Phát triển nguồn nhân lực: thiếu lực lượng kỹ thuật từ trung cấp đến cao cấp có trình
độ về quản lý, kinh nghiệm thực tế. Sự mất cân đối trong tỉ lệ đào tạo giữa thực hành và
lý thuyết, quản lý và công nhân. Thiếu sự thâm nhập các ngành kỹ thuật trong quá trình
đào tạo.
- Cải cách triệt để đào tạo đại học theo cả hai hướng: phần cứng (bằng trang thiết bị) và
phần mềm (chương trình đào tạo và phương thức giảng dạy), cần điều chỉnh chế độ đào
tạo thực hành ở xưởng sản xuất thực tế, nghiên cứu về việc xây dựng cơ chế “Hợp tác
đào tạo giữa trường đại học và doanh nghiệp.
- Đào tạo và nâng cao trình độ ngoại ngữ: Chất lượng ngoại ngữ đóng vai trị quan trọng
trong việc diễn giải chính xác thơng tin và nâng cao sự hiểu biết của hai bên.
-Phổ biến thông tin doanh nghiệp: nỗ lực tìm kiếm khách hàng mới, thiết lập một hệ
thống phổ biến thông tin, xây dựng một cơ sở dữ liệu về công nghiệp phụ trợ và xây
dựng các mạng lưới thông tin nội bộ doanh nghiệp.
- Tổ chức diễn đàn doanh nghiệp trao đổi yêu cầu giữa SME và FDI. Có một đầu mối
chính thức để các DN gặp nhau.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc quản lý tốt chất lượng, chi phí và thời gian
giao hàng đạt yêu cầu xuất khẩu.
- Cải thiện hệ thống kiểm soát chất lượng: Việc quản lý và kiểm tra chất lượng sản
phẩm là một trong nhiều chức năng quan trọng của chính phủ trong việc phát triển các
ngành cơng nghiệp phụ trợ và tăng cường khả năng cạnh tranh.
- Cải tiến năng lực của các nhà cung ứng. Các doanh nghiệp nội địa có trình độ cơng
nghệ lạc hậu, trung bình, năng lực tổ chức sản xuất và quản lý chưa đáp ứng được đòi
hỏi của các nhà đầu tư FDI. Một trong những điểm yếu nhất là khả năng nghiên cứu,
phát triển (R&D).
-Tận dụng vốn và cơng nghệ nước ngồi: một lượng vốn FDI cho sản xuất linh kiện và




×