Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận dạy học vật lí THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.39 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA VẬT LÍ
--------

TIỂU LUẬN
Môn: DẠY HỌC VẬT LÍ THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC
Đề tài: NĂNG LỰC THỰC HÀNH TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ

Giảng viên hướng dẫn:

Học viên thực hiện: NHÓM 6:

PGS. TS. Lê Văn Giáo

1. Lê Thị Minh Phương
2. Hoàng Thơ Thơ
3. Đặng Thị Thu Thủy
4. Nguyễn Thị Minh Trâm
5. Nguyễn Thị Bảo Trang
6. Võ Văn Tú
Lớp: LL&PPDHBM Vật lí k24

Huế, tháng 04 năm 2017


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước sự phát triển không ngừng của nền kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế ngày
càng mở rộng đánh dấu thế kỷ XXI là thế kỷ của sự cạnh tranh về mặt trình độ của nguồn


nhân lực. Sự phát triển đó như một đơn đặt hàng hoàn toàn mới cho nền giáo dục nước ta
hiện nay, yêu cầu nền giáo dục nước ta phải không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung
cũng như phương pháp nhằm tạo ra những thế hệ mới phù hợp với thế giới và các quốc
gia trong khu vực. Những thế hệ này, không những phải được trang bị đầy đủ về mặt kiến
thức, phẩm chất nghề nghiệp mà còn được phát triển những năng lực cần thiết và đặc biệt
năng lực thực hành là rất quan trọng.
Sự quan trọng đó đã được thể hiện trong Nghị quyết số 29-NQ/TW - Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, do
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kí ngày 04/11/2013, xác định rõ: “Đối với giáo dục
phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công
dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức,
lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực
tiễn…”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X nêu rõ: "Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo... nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi
trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống,
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã
hội”.
Tuy nhiên, chương trình giảng dạy ở trường phổ thông hiện nay chưa phát triển
được năng lực cũng như kỹ năng cần thiết cho học sinh. Tại hội nghị Tổng kết, đánh
giá Chương trình, Sách giáo khoa Giáo dục Phổ thông hiện hành của Việt Nam, Bộ
trưởng GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ chia sẻ: “ Những gì bất cập trong chương trình hiện
hành thì cần điều chỉnh. Bất cập không phải là thừa, mà là chưa hợp lý, phải điều
chỉnh. Chương trình hiện hành vẫn nặng về kiến thức, nhẹ kỹ năng, đặc biệt là chưa
tiếp cận theo hướng phát triễn phẩm chất, năng lực của người học.


Cũng như theo đánh giá ghi trong Chiến lược giáo dục 2011 – 2020 ban hành kèm theo

quyết định số 711/QĐ/TTg ngày 13/06/2012 của Thủ tướng Chính phủ thì sau hơn 20
năm đổi mới, mặc dù đã có những chuyển biến tích cực, song ngành Giáo dục nước ta
vẫn đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, đó là “Nội dung chương trình còn nặng về lí
thuyết, phương pháp dạy học còn lạc hậu, chưa chú trọng giáo dục kỹ năng sống, phát
huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh…”. Một trong những hình thức phát
huy được tính tích cực, tự lực, năng lực thực hành của học sinh là tổ chức hoạt động theo
nhóm. Trong hoạt động nhóm, học sinh có thể trao đổi ý kiến cho nhau, mạnh dạng nói
lên ý kiến của mình, hợp tác ,giúp đỡ nhau trong quá trình thực hành. Tuy nhiên hiện nay,
phần lớn ý kiến đều cho rằng tổ chức dạy học theo nhóm gặp một số khó khăn, chẳng hạn
như dễ mất thời gian, học sinh mất trật tự,giáo viên khó quản lý…
Nguyên nhân của thực trạng trên là do việc tiếp cận với các phương pháp dạy học tích
cực đối với một bộ phận giáo viên còn là vấn đề chưa được giải quyết. Bên cạnh đó, một
phần do giáo viên chưa chú trọng đến việc phát triển năng lực, rèn luyện kỹ năng thực
hành cho học sinh, dẫn đến việc học sinh không có thói quen vận dụng kiến thức vào
thực tiễn.
Đối với bộ môn Vật lý thì hầu hết các kiến thức vật lý đều được rút ra từ những quan
sát và thí nghiệm. Thí nghiệm có vai trò to lớn trong việc nâng cao hứng thú học tập bộ
môn, góp phần vào việc giáo dục năng lực thực hành cho học sinh trung học phổ thông.
Tuy nhiên, thực tế việc dạy học cho thấy rằng học sinh rất lúng túng khi sử dụng các
dụng cụ trong phòng thực hành - nghĩa là khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn của
các em vẫn còn nhiều hạn chế.
Có thể nói, việc tổ chức DH theo PP nhóm là một hướng đi tốt trong quá trình đổi mới
PPDH ở trường phổ thông, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học bô môn Vật lý, đáp
ứng những yêu cầu của xã hội. Bên cạnh đó, việc phát triển năng lực, đặc biệt là NLTH
đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy học. Người học có được NLTH nghĩa là
nền GD của chúng ta đã thực sự thành công trong việc tạo ra thế hệ mới đáp ứng được
nhu cầu xã hội hiện nay.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi chọn nghiên cứu về năng lực thực hành để
làm tiểu luận cho học phần này.



NỘI DUNG
NĂNG LỰC THỰC HÀNH
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm thực hành
Thực hành là hành động để áp dụng lý thuyết vào thực tế.
1.2. Khái niệm năng lực thực hành
Năng lực thực hành là một trong những năng lực chuyên biệt của môn Vật lí, là
khả năng hành động, vận dụng, phối hợp kiến thức, kĩ năng trong điều kiện ngoại cảnh
(khách quan) cụ thể với yêu cầu về thái độ tích cực để bố trí và tiến hành thí nghiệm cũng
như hoàn thành tốt nhiệm vụ đặt ra hay giải quyết các vấn đề thực tiễn một cách hiệu quả.
2. Các năng lực thành tố của năng lực thực hành
Đối với HS cấp THPT, các năng lực thành tố của năng lực thực hành trong vật lí bao
gồm:
2.1. Năng lực đề xuất phương án thí nghiệm
Lập kế hoạch TN là bước đầu tiên, có vai trò quan trọng, góp phần quyết định sự
thành công của bài TN. Nếu bước này hoàn thành tốt sẽ giúp HS tiến hành TN một cách
chủ động, không lúng túng trong các thao tác, theo đúng phương pháp và thu được kết
quả TN tương đối chính xác. Kỹ năng lập kế hạch TN thể hiện qua các khả năng: xác
định vấn đề, mục đích TN; đề xuất và lựa chọn phương án TN; xây dựng tiến trình làm
TN và lập các bảng biểu, đồ thị cần thiết.
2.2. Năng lực gia công và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm
Đối với kỹ năng này, HS phải có hiểu biết nhất định về dụng cụ TN như công
dụng, nguyên tắc hoạt động hay sử dụng kết hợp một số dụng cụ với nhau. Tuy nhiên,
trong quá trình tiến hành TN, có một số dụng cụ HS được tiếp xúc lần đầu, chính vì vậy
để thực hiện tốt bước này HS phải: có sự quan sát hình dạng bên ngoài của dụng cụ đặc
biệt là các dụng cụ tiếp xúc lần đầu tiên nhằm giúp HS nhận dạng và gọi tên dụng cụ
trong những lần sau; khâu quan trọng nhất là chọn dụng cụ, tìm hiểu cấu tạo, công dụng,



nguyên tắc hoạt động và cách thức sử dụng để có thể sử dụng dụng cụ một cách thành
thạo; bên cạnh đó, việc đọc, hiểu các kí hiệu, số liệu kỹ thuật và giới hạn sử dụng cũng là
một việc rất quan trọng, giúp HS sử dụng dụng cụ đúng thang đo, tránh làm hư hỏng và
đảm bảo được an toàn trong quá trình làm TN; cuối cùng để TN được tiến hành cần
chuẩn bị những dụng cụ cần thiết cho quá trình TN, sản phẩm của mình làm ra.
2.3. Năng lực bố trí thí nghiệm
Việc bố trí TN có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình TN. Nếu các
dụng cụ TN được lắp ráp một cách trật tự, hợp lý thì việc đo đạc diễn ra đúng quy trình
và bảo đảm an toàn khi tiến hành TN. Để kỹ năng này được rèn luyện, GV cần hướng dẫn
HS thực hiện những nhiệm vụ chính sau: bố trí, tháo lắp các dụng cụ TN một cách thành
thạo, đúng quy trình, đặc biệt với những TN phức tạp GV cần cung cấp tài liệu hướng
dẫn để HS nghiên cứu.
2.4. Năng lực thu thập số liệu, kết quả thí nghiệm
Việc thu thập số liệu, kết quả TN cũng là khâu hết sức quan trọng. Kết quả thu
được là căn cứ, cơ sở để phân tích và đưa ra những đánh giá, kết luận cuối cùng của bài
TN. Để thu được các số liệu cần thiết HS phải đo đạc và thao tác với dụng cụ TN, quan
sát TN, đọc kết quả TN.
2.5. Năng lực xử lí số liệu, nhận xét, đánh giá, rút ra kết luận
Kỹ năng xử lí số liệu bao gồm việc rút ra những mối liên hệ, quy luật phụ thuộc
lẫn nhau giữa các đại lượng, tính sai số phép đo và cách viết kết quả TN, vẽ đồ thị. Kế
đến cần có sự nhận xét về kết quả phép đo và sai sốthu được, so sánh kết quả thu được
với kết quả mong đợi về mặt lý thuyết, rút ra những nguyên nhân dẫn đến sai số. Cuối
cùng, cần đánh giá lại toàn bộ tiến trình làm TN, đề xuất phương án làm giảm sai số cho
phép để hoàn thiện bài TN.
3. Các biện pháp phát triển năng lực thực hành cho học sinh
- Trang bị kiến thức vững chắc liên quan vấn đề thực hành
- Tăng cường cho học sinh đề xuất phương án thí nghiệm để phát huy tính sáng tạo
của học sinh



- Tăng cường sử dụng thí nghiệm học sinh trong dạy học
- Thường xuyên sử dụng phương pháp thực nghiệm trong dạy học
Trên đây là các biện pháp chính mang tính chiến lược lâu dài và quan trọng trong việc
đổi mới giáo dục nhằm phát triển NLTH cho HS. Vì Vật lí là môn khoa học thực nghiệm,
việc sử dụng phương pháp thực nghiệm trong dạy học vật lí sẽ góp phần làm tăng niềm
tin của HS đối với khoa học, đồng thời giúp HS làm quen với PP thực nghiệm.
Các kết quả thực nghiệm do HS thu được có thể có những sai lệch nhỏ so với các định
luật, công thức mà các nhà khoa học đã tìm ra trước đó, nhưng điều quan trọng là GV cần
hướng dẫn HS cách xử lí các số liệu và nhận xét các kết quả thu được, rút ra được nguyên
nhân sai số, đánh giá được quy trình làm TN để từ đó rút ra những kết luận và đi đến kiến
thức mới một cách phù hợp và không phải gượng ép.
-Tăng cuờng sử dụng thí nghiệm trong dạy học
Tăng cường sử dụng TN trong dạy học thể hiện ở việc GV khai thác, sử dụng nhiều
TN biễu diễn có liên quan đến nội dung bài học và thường xuyên tổ chức cho HS làm các
TN thực tập trong quá trình dạy học. Vì TN vật lí có vai trí quan trọng trong việc hình
thành và phát triển các NLTH cho HS, là phương tiện để vận dụng tri thức vào thực tiễn,
là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn. Mục đích của việc tăng cường sử dụng TN trong
DH nhằm giúp HS có sự quan sát, tiếp xúc với dụng cụ TN, từ đó có thể thực hiện các
thao tác đơn giản là bắt chước, làm TN theo hướng dẫn và có phương án cho trước đến
việc tự đề xuất phương án TN, tự chế tạo dụng cụ và tiến hành TN độc lập.
- Tổ chức cho HS chế tạo dụng cụ hoạt động dựa trên các nguyên tắc vật lí và tăng
cường phát động các cuộc thi sáng tạo khoa học công nghệ
Các kĩ năng mà HS có được nếu vận dụng vào đời sống thông qua việc chế tạo dụng
cụ thì sẽ càng bền vững hơn. Bên cạnh đó, thời lượng của môn học trên lớp khá hạn chế,
nên HS không có điều kiện được thực hiện các thao tác để rèn luyện tất cả các kĩ năng.
Bởi thế, việc đưa ra một hình thức nhằm giúp HS rèn luyện, vận dụng các kĩ năng thực
hành ở nhà với thời gian không hạn chế là điều rất cần thiết.
Một trong các hình thức đó là tổ chức cho HS chế tạo các dụng cụ có ứng dụng các
nguyên tắc vật lí. Hoạt động này có thể được tổ chức trong lớp học giữa các nhóm HS



hay tổ chức thành một cuộc thi giữa các lớp cùng khối, hoặc cấp trường, cấp tỉnh, cấp
quốc gia,...
Tuy nhiên, việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS cần chú ý đến nguyên tắc vừa sức.
Không nên đặt ra nhiệm chế tạo các dụng cụ quá khó với HS, bởi điều này sẽ dễ làm cho
HS chán nản do không hoàn thành được nhiệm vụ. Còn nếu các nhiệm vụ quá dễ sẽ gây
tâm lí nhàm chán, không phát huy được khả năng sáng tạo của HS.
- Tăng cường tổ chức dạy học theo phương pháp nhóm
Hiện nay, có rất nhiều vào phương pháp dạy học được giáo viên lựa chọn, cùng một
nội dung nhưng tùy thuộc vào phương pháp sử dụng thì sẽ có những hiệu quả khác nhau.
Làm việc theo nhóm là một trong những PPDH được áp dụng trong đổi mới PPDH nhằm
phát huy được tính tích cực của người học. Bên cạnh đó, PP này có những ưu điểm như:
- Các thành viên trong nhóm biết được sự phụ thuộc lẫn nhau, vì vậy mỗi thành viên
trong nhóm tự ý thức được phải cố gắng hết mình không phải chỉ vì thành tích cá nhân
mà còn vì nhiệm vụ của cả nhóm;
- Làm việc theo nhóm nâng cao được tính trách nhiệm của từng thành viên trong nhóm.
Do mỗi thành viên trong nhóm được phân công thực hiện một nhiệm vụ nhất định và
trách nhiệm cụ thể. Các thành viên trong nhóm không thể trốn tránh trách nhiệm hoặc
dựa vào công việc của người khác.
Chính vì những ưu điểm cơ bản trên nên việc sử dụng PPDH theo nhóm là một trong
những biện pháp góp phần phát triển NLTH cho HS.
- Đổi mới cách thức kiểm tra đánh giá theo hướng chú trọng NLTH
Đổi mới cách thức kiểm tra đánh giá theo hướng chú trọng NLTH thể hiện ở việc tăng
cường các câu hỏi mà HS phải vận dụng các kĩ năng thực hành mới giải quyết được hay
sử dụng nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá để đánh giá kĩ năng thực hành của HS.
Vật lí là bộ môn khoa học thực nghiệm nên trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của HS, ngoài việc kiểm tra đánh giá mức độ nắm vững các khái niệm, định luật, hiện
tượng vật lí; còn phải kiểm tra đánh giá năng lực vận dụng kiến thức đặc biệt là kĩ năng
thực hành của HS. Một phần do việc kiểm tra, đánh giá không chú trọng đến NLTH làm



cho GV lơ là, xem nhẹ việc phát triển NLTH cho các em; HS không nhận thấy tầm quan
trọng và không có ý thức trong việc tự phát triển NLTH cho bản thân. Do đó, việc đổi
mới cách thức kiểm tra đánh giá là một biện pháp góp phần phát triển NLTH cho HS.
* Một số lưu ý trong tổ chức dạy học theo hướng phát triển NLTH cho HS.
Trong DH vật lí, để có thể tổ chức DH theo hướng phát triển NLTH cho học sinh một
cách có hiệu quả, nhằm góp phần nâng cao chất lượng DH cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Cải tiến phương pháp dạy học truyền thống
Thuyết trình, đàm thoại, luyện lập luôn là những PPDH quan trọng. Đổi mới PPDH
không có nghĩa là loại bỏ các PPDH truyền thống quen thuộc. Để nâng cao hiệu quả các
phương pháp này, giáo viên trước hết cần nắm vững yêu cầu, sử dụng thành thạo kỹ
thuật trong chuẩn bị cũng như tiến hành bài trên lớp, như kỹ thuật mở bài, kỹ thuật trình
bày, giải thích trong khi thuyết trình, kỹ thuật đặt các câu hỏi, xử lý câu trả lời trong đàm
thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập…
- Kết hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học
Không có một PPDH toàn năng, phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi
phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng.
Vì vậy, cần phối hợp linh hoạt, đa dạng các PPDH để phát huy tính tích cực, chủ động
cho HS và nâng cao chất lượng dạy học.
- Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học
Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng việc đổi mới PPDH, nhằm tăng cường tính
trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Tuy nhiên, việc sử dụng các phƣơng
tiện dạy học cần phải phù hợp với mối quan hệ giữa phương tiện dạy học và phương
pháp dạy học.
Hiện nay, việc trang bị phương tiện dạy học mới cho các trường phổ thông từng bước
được tăng cường. Tuy nhiên, các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên luôn có ý
nghĩa quan trọng, cần được phát huy.
Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện
dạy học trong dạy học hiện đại. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương



tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương
pháp dạy học sử dụng mạng điện tử e-leaming.
Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương pháp dạy học
mới. Webquest là một ví dụ về phương pháp dạy học mới với phương tiện mới là dạy học
sử dụng mạng điện tử, trong đó học sinh khám phá tri thức trên internet một cách có định
hướng.
- Sử dụng kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo
Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong các
tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật
dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học. Có những kỹ thuật dạy học
chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương pháp dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu
hỏi trong đàm thoại.
Ngày nay, người ta chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính
tích cực, sáng tạo của người học như "động não", "tia chớp", "bể cá", …
- Tăng cường các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn
Bên cạnh những phương pháp chung, có thể sử dụng cho nhiều bộ môn khác nhau,
việc sử dụng các phương pháp dạy học đặc thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ
môn. Các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn được xây dựng trên cơ sở lý luận dạy
học bộ môn. Ví dụ: Thí nghiệm là một phương pháp dạy học đặc thù quan trọng của một
số môn.
Các phương pháp dạy học như trình diễn vật phẩm kỹ thuật, làm mẫu thao tác, phân
tích sản phẩm kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật, lắp ráp mô hình, các dự án là những phương
pháp chủ lực trong dạy học kỹ thuật. Phương pháp "Bàn tay nặn bột" đem lại hiệu cao
trong việc dạy học các môn khoa học ...
- Đổi mới kiểm tra đánh giá
Trong đánh giá thành tích học tập của HS, không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý đến cả
quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực không



giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong
việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.
Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết
hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết và bài tập thực hành. Kết hợp giữa trắc nghiệm tự
luận và trắc nghiệm khách quan. Hiện nay, ở Việt Nam có xu hướng chọn hình thức trắc
nghiệm khách quan cho các kỳ thi tốt nghiệp hay tuyển đại học. Trắc nghiệm khách quan
có những ưu điểm riêng cho các kỳ thi này. Tuy nhiên, trong đào tạo thì không được lạm
dụng hình thức này. Vì nhược điểm cơ bản của trắc nghiệm khách quan là khó đánh giá
được khả năng sáng tạo cũng như năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Trong DH vật lí, mỗi khâu của quá trình có những đặc điểm riêng về việc tổ chức, sử
dụng các PP và hình thức DH. Vì thế, cần phối hợp linh hoạt các phương pháp DH đồng
thời tăng cường vai trò của các TN một cách phù hợp với các khâu khác nhau của quá
trình DH thì mới góp phần rèn luyện các kĩ năng, phát triển NLTH cho HS.
Ngoài ra, việc tổ chức DH theo hướng phát triển năng lực không những phải bám sát
các nội dung cơ bản của chương, bài, phần, đơn vị kiến thức… mà còn phải phù hợp với
khả năng của người học. Hơn nữa, việc tổ chức DH theo hướng phát triển năng lực cho
HS phải phù hợp với thời gian tổ chức các hoạt động học tập và điều kiện cụ thể của từng
loại hình trường, lớp, vùng, miền...
4. Bộ tiêu chí đánh giá kĩ năng thực hành
4.1. Cơ sở xây dựng bộ tiêu chí đánh giá kĩ năng thực hành
Tiêu chí là tính chất, là dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một
khái niệm. Để xây dựng bộ tiêu chí đánh giá kĩ năng thực hành của học sinh cần dựa vào
mục tiêu kĩ năng mà HS cần đạt được. Hai loại bảng phân loại mục tiêu giáo dục của
Harrow và Dave cho lĩnh vực kĩ năng trong đào tạo theo năng lực, thường được sử dụng.
Harrow phân loại mục tiêu kĩ năng gồm có 5 mức độ
Mức độ

Định nghĩa

Sự thực hiện


1. Bắt chước

Quan sát và sao chép rập khuôn

Làm được so với mẫu
nhưng còn nhiều sai lệch,
sai sót


2. Làm được

Quan sát thực hiện được như hướng dẫn

Làm được cơ bản như mẫu,
vẫn còn sai sót nhỏ

3. Làm chính

Quan sát thực hiện được chính xác như

Làm được chính xác như

xác

hướng dẫn

mẫu

4. Làm biến


Thực hiện được các kĩ năng trong các

Làm được chính xác như

hóa

hoàn cảnh và tình huống khác nhau

mẫu trong các hoàn cảnh và
tình huống khác nhau

5 Làm thành

Đạt trình độ cao về tốc độ và sự chính

Làm được chính xác như

thục

xác, ít cần sự can thiệp về ý thức

mẫu, kĩ năng như bản năng

Phân loại mục tiêu theo kĩ năng của Dave
Mức độ

Sự thể hiện

Mức 1


Bắt chước có quan sát, là sự thực hiện các thao tác, động tác qua việc quan sát
hành vi của người khác để làm theo, có thể hoàn thành với chất lượng thấp

Mức 2

Bắt chước có quan sát, là sự thực hiện các thao tác, động tác qua việc quan sát
hành vi của người khác để làm theo, hoàn thành

Mức 3

Chính xác hóa các hoạt động, là khả năng tự thực hiện một nhiệm vụ mà chỉ
mắc phải một vài sai sót nhỏ. Mức độ này thể hiện sự hình thành các khả năng
liên kết, phối hợp các kĩ năng trong quy trình thực hiện một công việc hoặc
một sản phẩm nhất định

Mức 4

Thành thạo là khả năng phối hợp thành thạo một loạt các hành động bằng cách
kết hợp hai hay nhiều kĩ năng. Ở mức độ này, các hoạt động được phối hợp với
nhau một cách nhuần nhuyễn, hình thành kĩ xảo

Mức 5

Tự động hóa các hoạt động là khả năng thực hiện theo bản năng, không cần
suy nghĩ

4.2. Bộ tiêu chí đánh giá năng lực thực hành
Trên cơ sở bảng phân loại mục tiêu của Harrow và Dave, để đánh giá NLTH của
HS trong dạy học bộ môn Vật lí chúng tôi đã xây dựng một bộ 6 tiêu chí. Mỗi tiêu chí đề

cập đến một kĩ năng xác định, được chia theo 5 mức độ tương ứng với các mức năng lực
từ thấp đến cao:
• Tiêu chí 1: Lập được bảng kế hoạch thí nghiệm hợp lí


Mức 1: Chưa lập được kế hoạch thí nghiệm, giáo viên cần phải đưa ra phương án thí
nghiệm và mẫu kế hoạch thí nghiệm để học sinh bắt chước và sao chép rập khuôn các
bước lập kế hoạch của giáo viên.
Mức 2: Đã lập được bản kế hoạch nhưng còn sơ sài, phương án thí nghiệm thiếu tính khả
thi, vẫn cần sự định hướng và hướng dẫn của giáo viên
Mức 3: Biết lập bảng kế hoạch nhưng chưa đầy đủ, chi tiết, phương án thí nghiệm có tính
khả thi nhưng chưa tối ưu, cần sửa chữa, điều chỉnh, bổ sung ý kiến của giáo viên
Mức 4: Đã tự đề xuất được phương án thí nghiệm, lập được bảng kế hoạch chi tiết, đầy
đủ, đúng thời gian quy định mà không cần đến sự hỗ trợ, can thiệp của giáo viên
Mức 5: Tự đề xuất và tự lựa chọn được phương án thí nghiệm tối ưu, trình bày đầy đủ và
chi tiết bản kế hoạch trong thời gian ngắn
• Tiêu chí 2: Tìm hiểu đầy đủ về dụng cụ, biết cách sử dụng dụng cụ thí nghiệm
Mức 1: Chưa biết cách tìm hiểu dụng cụ và cách thức sử dụng dụng cụ thí nghiệm. Giáo
viên cần phải thực hiện mẫu các thao tác tìm hiểu dụng cụ và cách thức sử dụng dụng cụ
để học sinh làm theo và thực hiện rập khuôn các thao tác đó theo giáo viên.
Mức 2: Bước đầu biết tìm hiểu dụng cụ, thực hiện các thao tác sử dụng dụng cụ nhưng
cần sự hướng dẫn chi tiết, tỉ mỉ của giáo viên.
Mức 3: Biết tìm hiểu dụng cụ khi quan sát trực tiếp dụng cụ và đọc tài liệu hướng dẫn. Tự
thao tác được với dụng cụ mà không cần sự hỗ trợ nhiều của giáo viên.
Mức 4: Từ việc quan sát trực tiếp các dụng cụ và đọc bản hướng dẫn, học sinh tự tìm hiểu
được dụng cụ mới. Thao tác được với dụng cụ mà không cần sự hướng dẫn, trợ giúp của
giáo viên.
Mức 5: Tự tìm hiểu được một dụng cụ mới và thao tác được với dụng cụ đó.
• Tiêu chí 3: Lắp đặt, bố trí thí nghiệm đúng và hợp lí
Mức 1: Chưa tự tháo lắp dụng cụ theo sơ đồ, cần sự làm mẫu của giáo viên để bắt chước,

làm theo.


Mức 2: Đã tháo lắp được các dụng cụ dưới sự hướng dẫn tỉ mỉ của giáo viên, bố thí thí
nghiệm theo sơ đồ cho sẵn trong tìa liệu hướng dẫn nhưng thao tác còn lúng túng, vụng
về.
Mức 3: Tự tháo lắp, bố trí được các dụng cụ thí nghiệm theo sơ đồ những chưa đảm bảo
về mặt không gian và thời gian, giáo viên cần chỉnh sửa cho phù hợp.
Mức 4: Tự tháo lắp, bố trí được các dụng cụ thí nghiệm một cách chính xác mà không
cần đến sự chỉ dẫn của giáo viên.
Mức 5: Tháo lắp các dụng cụ một cách chính xác, thuần thục với tốc độ cao, sắp đặc
dụng cụ phù hợp với lí thuyết, đảm bảo hợp lí về mặt không gian.
• Tiêu chí 4: Thu thập nhanh chóng, chính xác các số liệu và kết quả thí nghiệm
Mức 1: Chưa biết cách lựa chọn thang đo, điều chỉnh dụng cụ để thu thập số liệu, cần sự
làm mẫu các thao tác đo đạc, thu thập số liệu của giáo viên để bắt chước theo.
Mức 2: Biết lựa chọn thang đo, điều chỉnh dụng cụ và thu thập số liệu dưới sự hướng dẫn
tỉ mỉ và chi tiết của giáo viên
Mưc 3: Biết lựa chọn thang đo, điều chỉnh dụng cụ hợp lí, thu thập được số liệu nhưng
còn chậm và phải thực hiện nhiều lần mới đạt kết quả.
Mức 4: Lựa chọn đúng thang đo, điều chỉnh dụng cụ chính xác, đọc đúng số liệu thu
được trên dụng cụ theo đúng sai số quy định.
Mức 5: Lựa chọn đúng thang đo, điều chỉnh dụng cụ một cách chính xác, nhanh chóng,
thu thập số liệu nhanh, chính xác.
• Tiêu chí 5: Xử lí nhanh các số liệu, rút ra được các nhận xét về kết quả thí nghiệm
và đánh giá được quá trình làm thí nghiệm
Mức 1: Không tự tính toán được các sai số, cần các công thức tính sai số cho sẵn và còn
nhận xét kết quả theo mẫu cho trước.
Mức 2: Biết tính sai số nhưng còn nhầm lẫn trong việc tính toán sai số và các giá trị trung
bình. Kết quả còn sai lệch với thực tế.Cần sự chỉ dẫn chi tiết của giáo viên khi xử lí số
liệu và rút nhận xét.



Mức 3: Xử lí được các số liệu và rút ra nhận xét nhưng kết quả còn sai lệch so với thực
tế, sai số lớn, nhận xét đánh giá chưa cụ thể, chi tiết.
Mức 4: Xử lí được các số liệu và đưa ra được các nhận xét về quá trình làm thí nghiệm.
Kết quả thí nghiệm phù hợp với thực tế, sai số không vượt quá phạm vi cho chép, tìm ra
được nguyên nhân dẫn đến sai số nhưng chưa có biện pháp khắc phục cải tiến.
Mức 5: Nhanh chóng xử lí được số liệu, rút ra được các nhận xét về quá trình làm thí
nghiệm. Kết quả thí nghiệm phù hợp với thực tế, sai số không vượt quá phạm vi cho
chép, tìm ra được nguyên nhân dẫn đến sai số đồng thời đề xuất được biện pháp khắc
phục.
• Tiêu chí 6: Sửa chữa, chế tạo dụng cụ thí nghiệm
Mức 1: Chưa tự sửa chữa được các thiết bị thí nghiệm hư hỏng kể cả những hư hỏng nhẹ.
Chưa chế tạo được dụng cụ thí nghiệm theo phương án đã đề xuất.
Mức 2: Bước đầu sửa chữa được một số hư hỏng đơn giản. Chế tạo được dụng cụ thí
nghiệm đơn giản nhưng cần sự hướng dẫn chi tiết của giáo viên.
Mức 3: Biết sửa chữa một số thiết bị hư hỏng mà ít cần sự hướng dẫn của giáo viên, tuy
nhiên hiệu quả chưa cao. Đã chế tạo được một số dụng cụ thí nghiệm nhưng tính thẩm mĩ
và kĩ thuật chưa cao.
Mức 4: Tự sửa chữa được các thiết bị hư hỏng. Chế tạo được dụng cụ thí nghiệm phù hợp
với phương án lựa chọn mà không cần sự bổ sung góp ý của giáo viên.
Mức 5: Sửa chữa các hư hỏng với tốc độ cao và hiệu quả. Chế tạo được thiết bị thí
nghiệm phù hợp với phương án đã đề xuất đảm bào tính thẩm mĩ và kĩ thuật cao, hoàn
thành trong thời gian ngắn.
5. Ví dụ
Ví dụ: Bài thực hành “Nghiệm lại lực đẩy Acsimet”, Vật lí lớp 8 THCS, thí nghiệm được
sử dụng trong bài là TN của HS phải được thực hiện trên phòng TN sau khi HS đã tìm
hiểu kiến thức về lực đẩy Acsimet. Năng lực thực hành (NLTH) của HS được biểu hiện
qua các yếu tố sau:



- Về kiến thức:
+ HS cần phải có kiến thức về trọng lực (P) của vật, có khả năng phân tích, tổng học lực,
nắm chắc được kiến thức về lực đẩy Acsimet, công thức tính toán, ý nghĩa các đại lượng
vật lí có liên quan… Bên cạnh đó, HS cần phải được trang bị kiến thức về cách sử dụng
lực kế, bình chia độ, cũng như cách đọc số liệu chính xác, xử lí số liệu, tính toán sai số.
Xác định mục đích TN, thiết kế phương án TN, chế tạo dụng cụ TN, lựa chọn dụng cụ
TN, lắp ráp dụng cụ TN. Thay đổi các đại lượng, sử dụng dụng cụ đo, hiệu chỉnh dụng cụ
đo, đọc số liệu, sửa chữa các sai hỏng thông thường. Quan sát diễn biến hiện tượng, ghi
lại kết quả, biểu diễn bằng bảng biểu, đồ thị, tính toán sai số. Biện luận, trình bày kết quả.
Kiến thức vật lí liên quan đến vấn đề cần khảo sát, kiến thức về thiết bị, về an toàn, kiến
thức về xử lí số liệu, kiến thức về sai số, kiến thức về biểu diễn số liệu dưới bảng biểu, đồ
thị.
- Về kĩ năng
Bên cạnh việc trang bị các kiến thức liên quan về lực đẩy Acsimet, HS cần phải có
một số kĩ năng thực hành cơ bản như:
+ Xác định mục đích TN đó là kiểm chứng lại độ lớn của lực đẩy Acsimet, đo được lực
đẩy Acsimet từ TN và đo được trọng lượng của phần chất lỏng có thể tích bằng thể tích
của vật;
+ Chọn dụng cụ TN phù hợp như lực kế, vật làm TN, bình chia độ… và bản mẫu báo cáo
kết quả TN;
+ Phải biết lắp ráp TN theo sơ đồ và tiến hành TN theo các bước;
+ Cuối cùng là xử lí kết quả TN đo được bằng các phép tính giá trị trung bình… Quan
trọng là HS phải biết mục đích mình làm gì, xác định đại lượng nào cần đo trong TN mới
kiểm nghiệm được lực đẩy Acsimet như lí thuyết đã được học.
- Về thái độ
Đây là bài thực hành trên phòng TN, HS phải làm việc theo nhóm nhỏ (2 đến 3
HS) nên bắt buộc HS cần phải có thái độ hợp tác như biết chia sẻ thông tin và lắng nghe
ý kiến của người khác trong khi làm việc theo nhóm. Ngoài ra, HS cần phải nghiêm túc,



trung thực, tỉ mỉ, kiên nhẫn trong quá trình làm TN vì thực hành đo lực trong bài rất dễ bị
sai số và đôi lúc kết quả TN cũng không phải như mong muốn.

THỰC HÀNH:
NGHIỆM LẠI LỰC ĐẨY ÁC-SI-MÉT
* Mục đích:Nghiệm lại xem độ lớn của lực đẩy Ác-si-mét có bằng trọng lượng phần chất
lỏng bị vật chiếm chỗ hay không.
- Dụng cụ thực hành:
1. Một lực kế.
2. Một vật nặng.
3. Cốc đựng nước.
4. Một giá đo.
5. Một bút lông để đánh dấu.
- Công thức lực đẩy Ác-si-mét:
FA = d.V
trong đó:
d: Trọng lượng riêng của chất lỏng (N/m3).
V: Thể tích phần chất lỏng bị vật chiếm chỗ (m3).
FA : Lực đẩy Acsimet (N).
* Muốn kiểm chứng độ lớn của lực đẩy Acsimet cần phải đo những đại lượng:
+ Đo độ lớn lực đẩy Acsimet (FA).
+ Đo trọng lượng phần chất lỏng (nước) bị vật chiếm chỗ (P) (có thể tích bằng thể tích
vật ).
1. Đo lực đẩy Ác-si-mét


Bước1: Đo trọng lượng P của vât đặt trong không khí.





c
Bước 2: Đo hợp lực F của trọng lực và lực đẩy FA tác dụng lên vật khi vật được



nhúng chìm trong nước.
Lưu ý: Không để vật chạm thành cốc, đáy cốc.



Bước 3: Tính độ lớn của lực đẩy FA tác dụng lên vật khi vật được nhúng chìm
trong nước:
FA= P - F
Lưu ý : Đo lực đẩy Ác-si-mét ba lần, sau đó tính giá trị trung bình.

2. Đo trọng lượng của phần nước có thể tích bằng thể tích của vật:


Bước 1: Đánh dấu mực nước trong bình trước khi nhúng vật vào – Vạch 1 (V1)




Bước 2: Đánh dấu mực nước trong bình khi nhúng chìm vật vào trong nước –
Vạch 2 (V2)

Thể tích (V) của vật được tính:
V = V 2 - V1




Bước 3: Dùng lực kế đo trọng lượng của bình nước khi nước ở mức 1 (P1 )
Bước 4: Đổ thêm nước vào bình đến mức 2, đo trọng lượng của bình nước khi
nước ở mức 2 (P2 )
Trọng lượng phần nước bị vật chiếm chỗ PN được tính:
PN = P2 - P1

3. So sánh kết quả đo PN và FA
Nhận xét và rút ra kết luận.
- Lưu ý khi thực hiện thí nghiệm đo lực đẩy Ácsimét
+ Điều chỉnh lực kế chỉ đúng vạch số 0;
+ Đổ nước vào 2/3 cốc thủy tinh;
+ Vật nặng nhúng ngập vào cốc, không được chạm vào đáy hay thành cốc.
- Lưu ý khi thực hiện thí nghiệm đo trọng lượng P
+ Điều chỉnh lực kế chỉ đúng vạch số 0;
+ Đổ nước đến vòi miệng bình tràn, cho nước tràn ra một ít, đổ bỏ phần tràn ra;
+ Vật nặng nhúng ngập vào bình tràn, không được chạm vào đáy hay thành bình;
+ Đổ nước từ cốc hứng vào cốc có móc treo phải cẩn thận, không để nước đổ ra ngoài.
KẾT LUẬN
Bài tiểu luận đã giải quyết được những nhiệm vụ sau:
1. Xây dựng được khái niệm thực hành và khái niệm năng lực thực hành, từ đó đã đưa ra
được các năng lực thành tố của năng lực thực hành.
2. Đề xuất được các biện pháp phát triển năng lực thực hành cho học sinh như là:
- Trang bị kiến thức vững chắc liên quan vấn đề thực hành


- Tăng cường cho học sinh đề xuất phương án thí nghiệm để phát huy tính sáng tạo của
học sinh

- Tăng cường sử dụng thí nghiệm học sinh trong dạy học
- Thường xuyên sử dụng phương pháp thực nghiệm trong dạy học
- Tăng cuờng sử dụng thí nghiệm trong dạy học
- Tổ chức cho HS chế tạo dụng cụ hoạt động dựa trên các nguyên tắc vật lí và tăng cường
phát động các cuộc thi sáng tạo khoa học công nghệ
- Tăng cường tổ chức dạy học theo phương pháp nhóm
- Đổi mới cách thức kiểm tra đánh giá theo hướng chú trọng NLTH
3. Xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá kĩ năng thực hành đồng thời cũng đưa ra được ví
dụ về việc phát triển năng lực thực hành cho học sinh thông qua bài thực hành “Nghiệm
lại lực đẩy Acsimet”
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nhóm chúng em cũng không thể tránh được
những sai sót, rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của thầy.
Nhóm chúng em cũng xin gởi lời cảm ơn chân thành đến thầy đã tận tình chỉ bảo
và chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu để chúng em
có thể hoàn thành tốt được bài tiểu luận này.



×