Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Phân tích thực trạng tài chính và đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của công ty cổ phần bia hà nội hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.96 KB, 96 trang )

DANH MỤC CÁC BẢNG
1. Bảng 1: Tình hình thực hiện các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh chủ yếu của
công ty cổ phần Bìa Hà Nội-Hải Phòng năm 2015.
2. Bảng 2: Phân tích cơ cấu tài sản của công ty cổ phần Bìa Hà Nội-Hải Phòng
năm 2015.
3. Bảng 3: Phân tích cơ cấu nguồn vốn của công ty cổ phần Bìa Hà Nội-Hải
Phòng năm 2015.
4. Bảng 4: Phân tích tình hình thanh toán của công ty cổ phần Bìa Hà Nội-Hải
Phòng năm 2015.
5. Bảng 5: Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần Bìa Hà
Nội-Hải Phòng năm 2015.
6. Bảng 6: Phân tích tình hình thực hiện chi phí yếu tố của công ty cổ phần Bìa
Hà Nội-Hải Phòng năm 2015.
7. Bảng 7: Phân tích tình hình lưu chuyển tiền tệ của công ty cổ phần Bìa Hà
Nội-Hải Phòng năm 2015.
8. Bảng 8: Phân tích các chỉ tiêu tài chính của công ty cổ phần Bìa Hà NộiHải Phòng năm 2015.

1


Lời Mở Đầu
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp
Việt Nam đang đứng vô vàn thách thức cần phải đối mặt và vượt qua. Trước bối
cảnh đó, để có thể duy trì sự phát triển bền vững với hiệu quả kinh tế cao thì các
nhà quản trị của doanh nghiệp cần tự trang bị cho mình những kiến thức về phân
tích hiệu quả hoạt động kinh tế, nhắm đánh giá kết quả và hiệu suất hoạt động,
phân tích một cách có hệ thống các nhân tố thuận lợi và khó khăn đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó đề xuất các giải pháp phát triển những
nhân tố tích cực, hạn chế và lọa bỏ các nhân tố ảnh hưởng xấu để nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh. Phân tích hoạt động kinh doanh là điều vô cùng quan
trọng và không thể thiếu trong quá trình quản lý điều hành doanh nghiệp, là cơ


sở để đưa ra quyết định cho các nhà quản trị doanh nghiệp. Trên cơ sở nhận
thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công việc phân tích và nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh là vấn đề bức thiết với sự tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp.
Xuất phát từ thực tế cùng với sự chỉ bảo tận tình của cô Lê Trang Nhung
em quyết định chọn đề tài: “ Phân tích thực trạng tài chính và đề xuất một số
giải pháp nhắm cải thiện tình hình tài chính của công ty cổ phần Bìa Hà Nội-Hải
Phòng” để làm luận văn tốt nghiệp của mình. Đề tài gồm 3 phần chính:
Chƣơng I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI CHÍNH VÀ TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP.
Chƣơng II: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN BIA HÀ NỘI-HẢI PHÒNG.
Chƣơng III: KẾT LUẬN-ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI
THIỆN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH.
Do còn thiếu sót trong kiến thức thực tế nên luận văn của em sẽ không
tránh được khỏi các thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các
thầy cô để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
2


Chƣơng I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
VÀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA DOANH
NGHIỆP.
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các mối quan hệ kinh tế biểu hiện
dưới hình thái tiền tệ giữa doanh nghiệp với môi trường xung quanh nó, những
mối quan hệ này sinh ra trong quá trình đào tạo ra và phân chia các quỹ tiền tệ
của doanh nghiệp.

Để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào thì nhà kinh doanh
cũng đều phải cần có một lượng vốn ban đầu nhất định được huy động từ các
nguồn khác nhau như: Tự có, liên doanh liên kết, cấp trên cấp, vay của các ngân
hàng hay phát hành chứng khoán… Số vốn ban đầu đó sẽ được đầu tư vào các
mục đích khác nhau của doanh nghiệp: Đầu tư mua sắm trang thiết bị máy móc,
nhà xưởng, vật tư, nhân công… Nhưu vậy, số vốn ban đầu mang phân phối cho
các mục đích khác nhau thì hình thái của chúng cũng sẽ không còn giữ nguyên
dưới dạng tiền tệ ban đầu nữa mà biến đổi thành hình thái vật chất khác như máy
móc thiết bị, nhà xưởng, đối tượng lao động… Quá trình biến đổi và phân chia
hình thái của vốn ban đầu như vậy là quá trình cung cấp hay còn được gọi là quá
trình lưu thống thứ nhất của quá trình sản xuất kinh doanh. Quá trình tiếp theo là
quá trình kết hợp của các yếu tố vật chất nói trên để tạo ra được một dạng vật
chất mới gọi là sản phẩm dở dang, khi kết thúc quá trình này thì thành phẩm mới
xuất hiện và quá trình đó gọi là quá trình sản xuất sản phẩm. Mỗi sản phẩm của
doanh nghiệp sẽ trải qua quá trình lưu thông thứ hai được gọi là quá trình tiêu
thụ, để vốn dưới dạng thành phẩm trở lại hình thái tiền tệ ban đầu thông qua các
3


khoản thu bán hàng của doanh nghiệp. Số tiền mà doanh nghiệp thu về đó lại
tiếp tục tham gia vào quá trình vận động biến đổi hình thái như ban đầu và quá
trình vận động đó cứ lặp đi lặp lại có tính chu kỳ. Chính sự vận động biến đổi
như trên của vốn đã tạo ra quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quá
trình vận động của vốn diễn ra được là nhờ hệ thống của các mối quan hệ trong
doanh nghiệp với môi trường xung quanh của nó. Hệ thống các mối quan hệ đó
rất phức tạp và đan xen lẫn nhau, ta có thể tiến hành chia ra thành các nhóm cơ
bản sau:
Nhóm 1: Nhóm các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước. Đây là
mối quan hệ nộp và cấp. Nhà nước có thể cấp vốn hoặc góp vốn vào doanh
nghiệp còn doanh nghiệp có trách nhiệm nộp các khoản nghĩa vụ đối với ngân

sách nhà nước.
Nhóm 2: Nhóm các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức và
các cá nhân khác trong thị trường. Đây là các mối quan hệ trong việc mua bán,
trao đổi hàng hóa, sản phẩm trên thị trường hoặc là mua bán, trao đổi quyến sử
dụng sức lao động trên thị trường lao đồng, trao đổi mua bán quyền sử dụng đất
trên thị trường tài chính.
Nhóm 3: Nhóm các mối quan hệ phát sinh trong nội bộ của doanh nghiệp.
Đây là nhóm các mối quan hệ chuyển giao vốn, quan hệ trong việc thu chi hộ
giữa các bộ phận trong một doanh nghiệp với doanh nghiệp. Quan hệ giữa
doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên như là việc thanh toán lương, thưởng,
vay và tiền vốn, tiền lãi. Yêu cầu các cá nhân vi phạm hợp đồng và kỷ luật lao
động bồi thường thiệt hại hoặc nộp các khoản tiền phạt.
Từ những vấn đề trên ta có thể rút ra nhận xét:
- Tài chính của doanh nghiệp là quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng
các quỹ tiền tệ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Các hoạt
động trên thuộc nhóm các hoạt động tài chính.
- Các quan hệ kinh tế phát sinh gắn với việc tạo lập, phân phối và sử dụng
quỹ tiền tệ của doanh nghiệp hình thành các quan hệ kinh tế tài chính của doanh
4


nghiệp. Tiến hành tổ chức tốt các mối quan hệ tài chính trên cũng sẽ giúp đạt tới
mục tiêu hoạt động doanh nghiệp đề ra.
Tóm lại, tài chính doanh nghiệp là một hệ thống các mối quan hệ kinh tế
mà biểu hiện dưới hình thái tiền tệ giữa doanh nghiệp và môi trường xung
quanh. Các mối quan hệ này phát sinh trong quá trình tạo lập và phân chia các
quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Nếu chỉ một sự mất cân đối hoặc phá vợ của một
trong các mối quan hệ trên thì quá trình vận động biến đổi hình thái của vốn có
thể sẽ bị trì trệ. Quá trình sản xuất kinh doanh vì thế mà bị xáo trộn thậm chí là
dẫn đến việc phá sản. Hệ thống các mối quan hệ như vậy được gọi là tài chính

của doanh nghiệp.
2. Chức năng của tài chính doanh nghiệp
a. Chức năng phân phối
Chức năng phân phối là một khả năng khách quan vốn có của phạn trù tài
chính nói chung và tài chính doanh nghiệp nói riêng. Con người nhận thức và
vận dụng khả năng này để tiến hành phân phối nguồn tài chính của doanh
nghiệp để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp, nhằm thỏa mãn
các nhu cầu của doanh nghiệp. Đối tượng phân phối của tài chính doanh nghiệp
là các nguồn tài chính của doanh nghiệp, đó là những giá trị của cái mới sáng tạo
ra trong kỳ, những giá trị của cải doanh nghiệp đã tích lũy từ trước… Chủ thể
phân phối của tài chính doanh nghiệp là chủ doanh nghiệp và Nhà nước. Quá
trình phân phối diễn ra trước, trong và sau quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Cụ thể là phân phối về nguồn huy động vốn cho doanh nghiệp,
phân phối số vốn huy động được để đầu tư vào các loại tài sản và phân phối thu
nhập sau quá trình kinh doanh. Quá trình phân phối của tài chính doanh nghiệp
diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của doanh nghiệp.
Tuy vậy, việc phân phối phải dựa trên các tiêu chuẩn và định mức được
tính toán một cách khoa học trên nền tảng là hệ thống các mối quan hệ kinh tế
của doanh nghiệp với môi trường xung quanh. Phân phối hợp lý là mục đích mà
các chủ thể mong muốn. Để phân phối, chủ thể phải dựa trên cơ sơ quá trình
phân tích , tính toán khoa học. Việc phân tích không chi tiết, việc tính toán
5


không chính xác có thể gây ra sự mất cân đối các mối quan hệ giữa doanh
nghiệp và môi trường xung quanh làm cho quá trình sản xuất kinh doanh đạt
hiệu quả cao, thậm chí dẫn đến phá sản. Các tiêu chuẩn và định mức phân phối ở
mỗi quá trình sản xuất kinh doanh mặc dù được tính toán đầy đủ, chính xác thì
nó cũng không thể là bất di bất dịch mà thường xuyên thay đổi. Việc điều chỉnh
uốn nắn đó được thực hiện thông qua chức năng thứ hai của tài chính doanh

nghiệp đó là chức năng giám đốc.
b. Chức năng giám đốc
Đây cũng là một khả năng khách quan vốn có của phạm trù tài chính nói
chung và tài chính doanh nghiệp nói riêng. Giám đốc tài chính doanh nghiệp là
việc theo dõi, giám sát. Đối tượng của giám đốc tài chính là quá trình phân phối,
cụ thể là quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Chủ thể của
giám đốc tài chính doanh nghiệp là chủ thể phân phối tài chính doanh nghiệp, cụ
thể là chủ doanh nghiệp và Nhà nước. Mục đích của giám đốc tài chính doanh
nghiệp là kiểm tra tính hợp lý, tính đúng đắn và hiệu quả của quá trình phân
phối tài chính. Từ kết quả của việc giám đốc mà chủ thể có phương hướng, biện
pháp điều chỉnh quá trình phân phối tài chính doanh nghiệp cho hợp lý hơn và
đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Đặc điểm của giám đốc là phân tích tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu tài chính và bằng phương pháp
nghiên cứu khoa học, ta có thể thấy thực trạng tài chính cũng như tiềm năng
kinh tế của doanh nghiệp. Dựa vào những kết luận của việc phân tích, chủ doanh
nghiệp có thể đưa ra các biện pháp hữu hiệu hơn.
Khi nói đến chức năng giám đốc bằng tiền của tài chính doanh nghiệp, ta
có thể nhầm lẫn với công tác thanh tra, kiểm tra tài chính. Thực ra hai khái niệm
này khác nhau. Công tác kiểm tra, thanh tra là một hoạt động chủ quan của con
người trong việc thực hiện chức năng tài chính, nó có thể tồn tại hoặc không tồn
tại, có thể đúng đắn hoặc cũng có thể sai lệch. Công tác này thường chỉ được
thực hiện bởi nhân viên của các cơ quan chức năng quản lý của Nhà nước, của
ngành đối với doanh nghiệp vu phậm chế độ quản lý kinh tế, tài chính, ha bị
thua lỗ kéo dài hay nợ dây dưa, bị kiện cáo,… Nếu các nhân viên thanh tra có đủ
6


năng lực, trình độ chuyên môn, công minh chính trực thì kết quả thanh tra mới
phản ánh đúng tình hình kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, trường hợp ngược
lại thì kết quả thanh tra sẽ bị sai lệch. Còn chức năng kiểm tra hay giám đốc

bằng tiền của tài chính là thuộc tính vốn có của nó. Nó luôn luôn tồn tại và luôn
luôn đúng bởi vì khi đã có quá trình sản xuất kinh doanh thì nhất định có hệ
thống chỉ tiêu tài chính cho dù nhà kinh doanh có ghi chép nó vào sổ sách hay
không.
Hai chức năng trên của tài chính có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chức
năng phân phối xảy ra trước, trong và sau mỗi quá trình sản xuất kinh doanh, nó
là tiền đề cho quá trình sản xuất kinh doanh, không có nó sẽ không thể có quá
trình sản xuất kinh doanh. Chức năng giám đốc bằng tiền luôn theo sát quá trình
phân phối, có tác dụng điều chính và uốn nắn tiêu chuẩn và định mức phân phối
để đảm bảo cho nó luôn luôn phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế của sản
xuất kinh doanh.
3. Nhiệm vụ của công tác quản trị tài chính doanh nghiệp
Quản trị tài chính có một vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh hiện
nay của doanh nghiệp thì tài chính doanh nghiệp giữ vai trò:
- Huy động để đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường
hay nảy sinh các nhu cầu về vốn ngắn hạn và dài hạn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp. Tiếp đó phải đề xuất và lựa chọn
các phương pháp thích hợp để huy động các nguồn vốn từ bên trong và bên
ngoài để đáp ứng được kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Ngày nay nhờ sự phát triển và hội nhập kinh tế của
nước ta đã cho phép các doanh nghiệp huy động được nhiều nguồn vốn từ bên
ngoài. Do vậy, tài chính doanh nghiệp ngày càng giữ vai trò quan trọng hơn
trong việc chủ động lựa chọn các hình thức và phương pháp phát huy vốn để
7


đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động một cách bình thường, nhịp nhàng với chi

phí huy động vốn ở mức thấp.
- Tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả:
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc
rất nhiều vào việc sử dụng vốn. Tài chính doanh nghiệp đóng một vai trò vô
cùng quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn ra dự án đầu tư trên cơ sở phân
tích khả năng sinh lời, mức độ rủi ro của dự án từ đó góp phần giúp lựa chọn ra
dự án tối ưu nhất. Việc huy động kịp thời các nguồn vốn có một ý nghĩa rất lớn
để giúp doanh nghiệp có thể nắm bắt thời cơ kinh doanh, giảm bớt và tránh được
các thiệt hại mà do ứ động vốn mang lại, bên cạnh đó cũng giảm được nhu cầu
về vốn vay từ đó giảm được các khoản chi phí lãi vay. Việc hình thành và sử
dụng các quỹ của doanh nghiệp cùng với việc áp dụng một chế độ thưởng phạt
hợp lý sẽ góp phần thúc đẩy các cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp nâng
cao hiệu quả.
- Giám sát và kiểm tra chặt chẽ các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp:
Thông qua các hình thức chi tiền hàng ngày, tình hình tài chính và chỉ tiêu
tài chính, người lãnh đạo và các nhà quản lý có thể đánh giá khái quát và kiểm
soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Phát hiện kịp thời được các
vướng mắc trong doanh nghiệp để từ đó đưa ra các quyết định phù hợp với hoạt
động sản xuất kinh doanh thực tế của doanh nghiệp.
Để thực hiện tốt các chức năng của tài chính thì các bộ phận quản lý có
liên quan của doanh nghiệp phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Thiết lập những mối quan hệ khăng khít với thị trường vốn để luôn chủ
động về vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Xác định mục đích phân phối vốn đúng đắn, rõ ràng.
- Tính toán chính xác các tiêu chuẩn phân phối vốn đúng với mục đích
đã xác định.
- Tổ chức thực hiện công tác bảo toàn vốn một cách khoa học.
8



- Tổ chức công tác theo dõi, ghi chép phản ánh đầy đủ, liên tục, có hệ
thống các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp.
- Tổ chức công tác phân tích, đánh giá toàn diện tình hình thực hiện các
định mức và tiêu chuẩn phân phối, tình hình thực hiện hiện thống các
chỉ tiêu tài chính để kịp thời phát hiện những bất hợp lý trong quá trình
thực hiện các mối quan hệ của doanh nghiệp với môi trường xunh
quanh, từ đó có quyết định điểu chỉnh hợp lý.
Cùng với các công tác quản lý bộ phận quản lý trong doanh nghiệp, công
tác quản lý tài chính góp phần duy trì và phát triển mối quan hệ với bạn hàng,
khách hàng và các mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp đồng thời luôn đảm
bảo thực hiện tốt các quy định, chế độ quản lý của Nhà nước.
Chức năng của tài chính có thể được thực hiện tốt hay không, hiệu quả
công tác quản trị tài chính có cao hay không phụ thuộc vào công sức và trí tuệ
của toàn thể cán bộ công nhân viên doanh nghiệp mà quan trọng nhất là kiến
thức về quản trị tài chính và năng lực lãnh đạo của người đứng đầu doanh
nghiệp.
4. Tổ chức bộ máy quản lý tài chính trong doanh nghiệp
Các bộ phận liên quan trực tiếp đến quản lý tài chính là:
- Hội đồng quản trị, đứng đầu là chủ tịch hội đồng quản trị. Có nhiệm vụ
ra các quyết định điều chỉnh có tính chất chiến lược của doanh nghiệp. Quyết
định mọi chính sách về phân phối, chính sách tích lũy và tiêu dùng cũng như cac
quyết định quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ doanh nghiệp.
- Tổng giám đốc, người chịu trách nhiệm điều hành mọi hoạt động của
doanh nghiệp. Chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về mọi kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích tình hình thực hiện các
chỉ tiêu tài chính, tình hình thực hiện các mối quan hệ tài chính của doanh
nghiệp, điều chỉnh các mối quan hệ trong phạm vi quyền hành cho phép. Điều
chỉnh các quan hệ tài chính trong phạm vi cho phép, báo cáo tình hình tài chính
của doanh nghiệp lên cấp trên và đề xuất các biện pháp điều chỉnh đối với những

mối quan hệ vượt quá phạm vi quyền hạn cho phép.
9


Giám đốc tài chính chịu trách nhiệm trực tiếp về công tác quản lý tài
chính doanh nghiệp. Có trách nhiệm phân tích và điều chỉnh các mối quan hệ tài
chính trong phạm vi cho phép, báo cáo tình hình tài chính và đề xuất các biện
pháp điều chỉnh các quan hệ tài chính vượt quá khả năng, phạm vi quyền hạn
của mình cho cấp trên.
Bộ phận kế toán, bao gồm kế toán trưởng và các nhân viên kế toán, thực
hiện các nhiệm vụ theo dõi, phản ánh chính xác kịp thời đầy đủ các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chịu
trách nhiệm trực tiếp trong việc quản lý các tài sản, khai thác và sử dụng các
nguồn theo đúng chế độ, thể lệ quy định. Cung cấp các số liệu liên quan đến các
hoạt động kinh tế tài chính, phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế tài
chính làm cơ sở tham khảo cho cấp trên trong việc ra các quyết định quản lý.
Bộ phận kiểm toán nội bộ là bộ phận trực thuộc lãnh đạo cao nhất của đơn
vị có nhiệm vụ trong việc giúp giám đốc doanh nghiệp kiểm tra sự tuân thủ quy
chế nội bộ cũng như chế độ quản lý của nhà nước đối với các vấn đề kinh tế, tài
chính cũng như hệ thống kế toán của doanh nghiệp.
5. Hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp
a. Mục đích của việc lập báo cáo
Tổng hợp và trình bày một cách tổng quát, toàn diện tình hình tài sản,
công nợ, nguồn vốn, tình hình và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
trong kỳ.
Cung cấp các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu cho việc đánh giá tình
hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá thực trạng tài chính của
doanh nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua và những dự đoán trong tương lai.
Thông tin của báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng trong việc đề ra các quyết
định quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc đầu tư vào doanh

nghiệp của chủ doanh nghiệp, chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại,
tương lai của doanh nghiệp.
b. Nội dung cơ bản của hệ thống báo cáo tài chính
Hệ thống báo cáo tài chính theo quy định cho các doanh nghiệp bao gồm:
10


- Bảng cân đối kế toán

Mẫu số B01-DN

- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh

Mẫu số B02-DN

- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ

Mẫu số B03-DN

- Thuyết minh báo cáo tài chính

Mẫu số B04-DN

1. Bảng cân đối kế toán.
 Bản chất của bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng quát
toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp
tại một thời điểm nhất định. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả
tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm. Đây là một báo cáo
tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu,

quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp.
Thông thường, bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân
đối số dư các tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản va một bên phản ánh
nguồn vốn của doanh nghiệp.
 Kết cấu
Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có tại doanh nghiệp ở
đầu và cuối kỳ hạch toán đang tồn tại dưới các hình thức và trong tất cả các giai
đoạn, các khâu của quá trình kinh doanh. Tài sản gồm 2 loại:
- Loại A: Tài sản ngắn hạn bao gồm:
I. Tiền và các khoản tương đương tiền
II. Các khoản phải thu ngắn hạn
III. Hàng tồn kho
IV: Tài sản ngắn hạn khác
- Loại B: Tài sản dài hạn
I. Các khoản phải thu dài hạn
II. Tài sản cố định
1. Tài sản cố định hữu hình
- Nguyên giá
11


- Giá trị trị hao mòn
2. Tài sản cố định thuê tài chính
- Nguyên giá
- Giá trị hao mòn lũy kế
3.Tài sản cố định vô hình
- Nguyên giá
- Giá trị hao mòn lũy kế
IV. Tài sản dở dang dài hạn
2.


Chi phí xây dựng cơ bản dở dang

V. Đầu tư tài chính dài hạn
2.

Đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết

4.

Dự phòng đầu tư tài chính dài hạn

VI. Tài sản dài hạn khác
1.

Chi phí trả trước dài hạn

Xét về mặt kinh tế: Số liệu các chỉ tiêu phản ánh ở phần tài sản thể hiện số
vốn của doanh nghiệp hiện có tại 2 thời điểm, đang tồn tại dưới hình thái vật
chất, tiền tê, các khoản đầu tư tài chính hoặc dưới hình thức nợ phải thu ở tất cả
các khoản, các giai doạn trong quá trình kinh doanh.
Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành nên các loại tài sản, các
loại vốn của doanh nghiệp ở 2 thời điểm. Các chỉ tiêu được sắp xếp, phân chia
theo nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp. Nguồn hình thành nên tài sản
của doanh nghiệp bao gồm:
- Loại C: Nợ phải trả
I. Nợ ngắn hạn
II. Nợ dài hạn
- Loại D: Vốn chủ sở hữu
I.


Vốn chủ sở hữu

II. Nguồn kinh phí, quỹ khác

12


Xét về mặt kinh tế: Số liệu của các chỉ tiêu ở phần vốn trong Bảng cân đối
kế toán thể hiện quy mô, nội dung của các nguốn hình thành nên tài sản mà
doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng.
Xét về mặt pháp lý: Đây là chỉ tiêu phản ánh trách nhiệm pháp lý và vật
chất của doanh nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn cho doanh nghiệp( Cổ
đông, Ngân hàng, Người cung cấp…)
 Cơ sở để lập bảng cân đối kế toán.
- Căn cứ vào sổ kế toán tổng hợp và chi tiết, căn cứ vào số dư của các tài
sản phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào bảng cân đối kế toán kỳ trước
 Phương pháp lập bảng cân đối kế toán.
- Sử dụng mẫu biểu theo quy định của Bộ tài chính
- Số đầu năm lấy từ sổ cuối kỳ báo cáo năm trước
- Số cuối kỳ phần tài sản lấy dư Nợ cuối kỳ các tài khoản tương ứng.
Một số khoản mục nắm trong phần tài sản nhưng quy luật vận động của
chúng có thể không hoàn toàn giống với các loại tài sản khác. Điều này gây ra
hiện tượng số dư tài sản phản ánh các khoản mục tài sản đố có thể nằm bên Có,
trái ngược với các khoản tài sản khác. Với những khoản mục đó ta phải đưa vào
bảng cân đối kế toán duới hình thức dấu âm mà thông thường được viết trong
ngoặc đơn. Những khoản mục này bao gồm: Hao mồn tài sản cố định, các khoản
trích lập dự phòng…
Số cuối kỳ phần nguồn vốn lấy số dư có cuối kỳ các khoản tương ứng.

Đối với các khoản nguồn vốn vận động trai quy luật, khi thì có số dư Có, khi lại
có số dư Nợ trên tài khoản phản ánh chung. Khi một khoản nào đó có số dư Nợ
thì giá trị đó đưa vào bảng cân đôi kế toán dưới dạng số âm và được ghi trong
ngoặc đơn. Những khoản này thường là: Lợi nhuận chưa phân phối, chênh lệch
tỷ giá hối đoái…
2. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh

13


 Bản chất của báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh và mục đích lập báo
cáo.
Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả
kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ
khi bán hàng hóa, dịch vụ, so sánh doanh thu với số tiền thực xuất quỹ để vận
hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí có thể xác định kết quả kinh
doanh: lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh
nghiệp trong một kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin thích hợp về tài
chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp nhưng thông
tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ
thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp,
phản ánh tổng quát tình hình và kết quả trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp,
chi tiết theo hoạt động kinh doanh chính và hoạt động khác.
Thông qua các chỉ tiêu báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể kiểm
tra phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, thực hiện dự toán chi phí sản
xuất, thực hiện kế hoạch thu nhập và kết quả kinh doanh sau một thời kỳ kế
toán. Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh mà đánh giá xu hướng

của doanh nghiệp qua các thời kỳ khác nhau.
 Kết cấu báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Phần này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau
một kỳ hoạt động lãi hay lỗ, các chỉ tiêu này liên quan đến doanh thu, chi phí
của các hoạt động kinh doanh thông thường và các chỉ tiêu liên quan doanh thu,
chi phí của hoạt động tài chính và các nghiệp vụ bất thường. Xác định kết quả
kinh doanh của từng loại hoạt động cũng như toàn bộ kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Tất cả các chỉ tiêu được trình bày theo biểu mẫu sau:
14


Chỉ tiêu

Mã số

Thuyết minh

Năm nay

Năm trước

Các chỉ tiêu bao gồm:
1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
2. Các khoản giảm trừ doanh thu
3. Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ
4. Giá vốn hàng bán
5. Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ
6. Doanh thu hoạt động tài chính
7. Chi phí tài chính

8. Chi phí lãi vay
9. Chi phí bán hàng
10. Chi phí quản lý doanh nghiệp
11. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
12. Thu nhập khác
13. Chi phí khác
14. Lợi nhuận khác
15. Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế
16. Chi phí thuế TNDN hiện hành
17. Chi phí thuế TNDN hoãn lại
18. Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp
19. Lãi cơ bản trên cổ phiếu
 Cơ sở số liệu để lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
- Căn cứ vào báo cáo kết quả kinh doanh kỳ trước
- Căn cứ vào sổ kế toán: Số phát sinh các tài khoản từ đầu 5 đến đầu 9.
 Phương pháp lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh được lập theo mẫu
quy định của Bộ tài chính.
15


3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
 Bản chất và ý nghĩa
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc
hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
Dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ, người sử dụng có thể đánh giá được khả
năng tạo ra tiền, sự biến động tài sản thuần của doanh nghiệp, khả năng thanh
toán của doanh nghiệp và dự đoán lượng tiền tiếp theo.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thực chất là một báo cáo cung cấp thông tin về
những sự kiện và nghiệp vụ kinh tế phát sinh có ảnh hưởng đến tình hình tiền

của doanh nghiệp, cụ thể là những thông tin về các khoản tiền doanh nghiệp
nhận được trong kỳ và các khoản tiền doanh nghiệp chỉ ra trong kỳ.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhận quỹ,
bao gồm: dòng tiền quỹ xuất từ hoạt động kinh doanh, dòng tiện nhập quỹ từ
hoạt động đầu tư tài chính, dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ
bao gồm: dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ
thực hiện hoạt động đầu tư tài chính, dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất
thường.
Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích thực
hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân sách
quỹ cuối kỳ. Từ đó, có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh
nghiệp nhằn mục tiêu đảm bảo chi trả.
 Kết quả của báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ gồm 3 phần phản ánh dòng tiền vào doanh
nghiệp và từ doanh nghiệp ra trên 3 mặt hoạt động chủ yếu:
Hoạt động kinh doanh: Là hoạt động chủ yếu gắn với chức năng của
doanh nghiệp, bao gồm các dòng thu và chi liên quan đến quá trình hoạt động
kinh doanh trong kỳ hạc toán của doanh nghiệp. Gồm:
1. Lợi nhuận trước thuế
16


2. Điều chỉnh cho các khoản
- Khấu hao TSCĐ
- Các khoản dự phòng
- Lãi, lỗ chênh lệch tỷ giá hối đoái chưa thực hiện
- Lãi, lỗ từ hoạt động đầu tư
- Chi phí lãi vay
3. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trước thay đổi vốn lưu động

- Tăng, giảm các khoản phải thu
- Tăng, giảm hàng tồn kho
- Tăng, giảm các khoản phải trả
- Tăng, giảm chi phí trả trước
- Tiền lãi vay đã trả
- Thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp
- Thuế thu khác cho hoạt động kinh doanh
- Tiền thu khác cho hoạt động kinh doanh
- Tiền chi khác cho hoạt động kinh doanh
Hoạt động đầu tư: Bao gồm các nghiệp vụ luên quan đến việc mua sắm và
bán tài sản cố định dài hạn. Gồm:
1. Tiền chi để mua sắm, xây dựng TSCĐ
2. Tiền thu từ thanh lý, nhượng bán TSCĐ
3. Tiền chi cho vay, mua các công cụ nợ
4. Tiền thu hồi cho vay, bán lại các công cụ nợ
7. Tiền thu lãi cho vay, cổ tức và lợi nhuận được chia
Hoạt động tài chính: Bao gồm các hoạt động liên quan đến vốn chủ sở
hữu của doanh nghiệp. Gồm:
3. Tiền thu từ đi vay
4. Tiền trả nợ gốc vay
6. Cổ tức, lợi nhuận đã chi trả cho chủ sở hữu
17


Quá trình lưu chuyển tiền tệ ở một doanh nghiệp có thể tóm lược được
qua các công thức:
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh = Tổng dòng tiền
vào từ hoạt động sản xuất kinh doanh – Tổng dòng tiền ra cho hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư = Tổng dòng tiền vào từ hoạt

động đầu tư – Tổng dòng tiền ra cho hoạt động đầu tư.
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính = Tổng dòng tiền vào từ
hoạt động tài chính – Tổng dòng tiền ra cho hoạt động tài chính.
Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ = Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản
xuất kinh doanh + Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư + Lưu chuyển tiền
thuần từ hoạt động tài chính.
Tiền tồn đầu năm + Lưu chuyển tiền thuần trong năm = Tiền tồn cuối kỳ.
 Cơ sở dữ liệu để báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Bảng cân đối kế toán
- Bảng báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh
- Các tài liệu khác có liên quan đến tiền ở doanh nghiệp như: Sổ theo
dõi thu, chi tiền
 Phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Phương pháp trực tiếp: Nhằm xác định trực tiếp dòng thu hoặc chi một
cách riêng biệt từng dòng tiền phát sinh của hoạt động sản xuất kinh doanh, sau
đó lấy tổng dòng thu trừ đi tổng dòng chi ta được dòng tiền thuần.
Phương pháp gián tiếp: Không cung cấp thông tin trực tiếp của từng dòng
tiền riêng biệt cho hoạt động kinh doanh, mà bắt đầu từ thu nhập thuần rồi điều
chỉnh các khoản thực chi hoặc thực thu để xác định dòng tiền lưu chuyển từ
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hai phương pháp trên được lập chỉ khác nhau ở hoạt động sản xuất kinh
doanh, còn hoạt động đầu tư và tài chính giống nhau.
4.Thuyết minh báo cáo tài chính
18


 Bản chất và ý nghĩa
Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo
tài chính của doanh nghiệp, được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong

kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết
được.
 Kết cấu và nội dung
Thuyết minh báo cáo tài chính bao gồm những nội dung cơ bản sau:
I.

Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp

II.

Kỳ kế toán, đơn vị tiền tệ sử dụng trong kế toán

III.

Chuẩn mực và Chế độ kế toán áp dụng

IV.

Các chính sách kế toán

V.

Thông tin bổ sung cho các khoản mục trình bày trong bảng cân
đối kế toán

VI.

Thông tin bổ sung cho các khoản mục trình bày trong Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh


VII. Thông tin bổ sung cho các khoản mục trình bày trong báo cáo
lưu chuyển tiền tệ.
 Cơ sở lập thuyết minh báo cáo tài chính
- Cơ sở kế toán kỳ báo cáo
- Bảng cân đối kế toán kỳ báo cáo
- Báo cáo kết quả kinh doanh kỳ báo cáo
- Thuyết minh báo cáo kỳ trước, năm trước
Ngoài danh mục và mẫu biểu báo cáo tài chính hàng quý doanh nghiệp
phải nộp và nộp báo cáo tài chính và sử dụng nội dung giống như báo cáo năm,
nhưng có thêm số liệu cộng dồn từ đầu năm đến cuối quý báo cáo.

19


II: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và
công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý
nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức
độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
2. Mục tiêu
Những người phân tích tài chính ở những cương vị khác nhau nhằm các
mục tiêu khác nhau.
Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, nhằm xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ
sở định hướng các quyết định của Ban Giám Đốc, dự báo tài chính: kế hoạch
đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các hoạt động quản lý.
Nhà đầu tư cần biết tình hình thu nhập của chủ sở hữu- lợi tức cổ phần và
giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm tới phân tích tài chính để nhận

biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp họ
ra quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không.
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của
khách hàng. Ví dụ để quyết định cho vay thì một trong những vấn đề đặt ra là
người cho vay cần xem xét doanh nghiệp có nhu cầu vay hay không? Khả năng
trả nợ của doanh nghiệp như thế nào?
Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng lương
trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế. luật sư… Dù
họ công tác ở lĩnh vực khác nhau, nhưng họ đều muốn hiểu biết về hoạt động
của doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ.
20


Như vậy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh
giá khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện
của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối, khả năng hoạt động và khả
năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp
tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức
doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai.
3. Nguyên tắc phân tích tài chính
Phân tích hoạt động kinh tế dù ở phạm vi nào cũng phải tuân theo những
nguyên tắc sau:
- Phân tích bao giờ cũng phải xuất phát từ việc đánh giá chung, sau đó
mới phân tích chi tiết từng khía cạnh của hiện tượng kinh tế.
- Phân tích phải thực hiện trong mối quan hệ qua lại giữa các hiện tượng
kinh tế.
- Phân tích phải đảm bảo tính toàn diện, khách quan, triệt để.
- Phân tích trong sự vận động của hiện tượng kinh tế.
- Phải sử dụng phương pháp phân tích thích hợp để thực hiện các mục
đích phân tích.

4. Trình tự và các bƣớc tiến hành phân tích
a. Xây dựng kế hoạch phân tích
Kế hoạc phân tích tài chính cần nêu những vấn đề:
- Nội dung phân tích: Đó là toàn bộ tình hình tài chính của doanh nghiệp
hay chỉ một khía cạnh nào?
- Phạm vi phân tích là của đơn vị nào hay của toàn bộ doanh nghiệp, toàn
bộ ngành?
- Khoảng thời gian cần phân tích. Đó là khoảng thời gian mà các chỉ tiêu
phát sinh

21


- Thời hạn thực hiện kế hoạch này kể từ thời điểm nào và bao giờ hoàn
thành.
- Người thực hiện: Nếu là một nhóm người thì cần kèm theo sự phân công
công việc cụ thể: Ai thực hiện phần nào? Ai chủ trì?
b. Sưu tầm, kiểm tra, xử lý số liệu
Căn cứ vào mục đích, nội dung phân tích để xác định các số liệu, tài liệu
cần thiết. Từ đó tiến hành thu thập, số liệu phải được thu thập đủ, không nên
thừa hoặc thiếu. Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng
mọi nguồn thông tin: Từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông
tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những
thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra những nhận xét, kết luận
tinh tế và thích đáng.
Trong những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập những thông tin
chung(thông tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính
sách thuế, lãi suất), thông tin về ngành kinh doanh(thông tin liên quan đến vị trí
ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, các sản phẩm của ngành, tình trạng công
nghệ, thị phần…) và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp(các

thông tin mà doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình hình
quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp).
Tuy nhiên, để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh
nghiệp, có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như một
nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy
đủ trong các báo cáo tài chính.
Tài liệu thu thập từ nhiều nguồn khác nhau cho nên cần phải kiểm tra, xử
lý trước khi sử dụng. Cần kiểm tra các tài liệu về tính hợp pháp, tính chính xác
và tính thống nhất. Khi kiểm tra tài liệu, cần xử lý ngay: loại bỏ những số liệu
không đạt yêu cầu(không hợp pháp, không chính xác hay mâu thuẫn với nhau).
22


Lựa chọn lấy những số liệu cần thiết cho nội dung phân tích và từ những số liệu
thu thập được ta tính toán những số liệu theo nội dung của đề tài.
Công việc sưu tầm và kiểm tra số liệu, tài liệu rất quan trọng. Nó là cơ sở
của các bước phân tích tiếp theo. Nếu thu thập thừa nhiều tài liệu trước hết lãng
phí công sức và tốn kém chi phí, mất nhiều công sức cho xử lý và có thể làm
mất phương hướng phân tích. Ngược lại, nếu thu thập số liệu không đầy đủ thì
không thể tiến hành phân tích hoặc phân tích không toàn diện, triệt để. Tài liệu
không chính xác dẫn đến kết quả phân tích sai lệch. Như vậy, việc phân tích
không những không có tác dụng tốt mà lại còn có hại cho những quyết định và
hành động của người quản lý.
c.Tiến hành phân tích
Căn cứ vào nội dung phân tích đã xác định, tiến hành theo trình tự các nội
dung đó. Nội dung phân tích được giải quyết theo nguyên tắc: Từ tổng quát đến
chi tiết. Giữa các vấn đề có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Đó là khâu cơ bản
quyết định chất lượng của công tác phân tích. Có thể tóm tắ nội dung các bước
phân tích một vần đề như sau:
- Đánh giá chung: Khái quát sự biến động của chỉ tiêu phân tích và các

nhân tố giữa kỳ nghiên cứu và kỳ gốc bằng trị số biến động, sơ bộ nhận xét
chung. Qua đó có phương hướng để phân tích chi tiết.
- Phân tích:
+ Xác định mối liên hệ giữa chỉ tiêu nghiên cứu và các nhân tố bằng
phương trình kinh tế.
+ Xác định đối tượng phân tích cụ thể. Đó chính là trị số biến động của
chỉ tiêu phân tích.
+ Bằng phương pháp thích hợp, tính mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
đến chỉ tiêu phân tích.
23


+ Lập biểu trình bày các số liệu phân tích.
+ Phân loại các nhân tố( tích cực, tiêu cực, chủ yếu, thứ yếu). Nghiên cứu
từng nhân tố. Nên bắt đầu và tập trung phân tích ở những nhân tố trọng điểm(
những nhân tố có tỷ trọng lớn, những nhân tố biến động nhiều, những nhân tố có
nội dung phức tạp).
Khi nghiên cứu mỗi nhân tố phải tìm ra được các nguyên nhân gây ra sự
biến động của các nhân tố đó. Bằng cách thu hẹp dần, tìm đến nguyên nhân
chính. Đánh giá nguyên nhân tìm ra là khách quan hay chủ quan. Khả năng xuất
hiện và tác động của các nguyên nhân trong tương lai.
- Kết luận- kiến nghị
+ Tổng hợp các nguyên nhân, nêu những nguyên nhân chủ yếu chủ quan.
+ Trên cơ sở những nguyên nhân với khả năng xuất hiện và tác động của
nó đã phân tích cần đề xuất biện pháp cụ thể để khai thác những tiềm năng của
doanh nghiệp. Trong đó, cần chú ý đến những biện pháp có thể thực hiện được
trong điều kiện nhất định của doanh nghiệp.
- Lập báo cáo phân tích
Toàn bộ kết quả phân tích được trình bày bằng một bản thuyết minh và
những bảng biểu được trình bày trong hội nghị phân tích để thu thập ý kiến đóng

góp. Qua đó, bổ sung hoàn chỉnh báo cáo.
5. Nội dung và phƣơng pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
a. Nội dung:
Nội dung phân tích tài chính bao gồm các yếu tố kinh tế vĩ mô, đặc điểm
của ngành của công ty. Trong đó chủ yếu tập trung vào phân tích báo cáo tài
chính.
Nội dung chủ yếu của phân tích báo cáo tài chính bao gồm:
24


- Đánh giá tính trung thực, chính xác, đầy đủ của thông tin trên báo cáo tài
chính. Vấn đề này thường được gắn liền với việc xem xét tình hình thực hiện các
chính sách, quy định tài chính áp dụng để lập báo cáo tài chính.
- Đánh giá thực trạng, xu hướng và năng lực, tiềm năng kinh tế của tài
sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí, lợi nhuận.
- Đánh giá nội dung, thực trạng, mức độ đặc trưng của một số chỉ tiêu tài
chính như cơ cấu nợ, các hệ số thanh toán, các hệ số luân chuyển vốn, các
tỷ suất sinh lời theo số liệu trên báo cáo tài chính.
b. Phương pháp phân tích
 Phân tích so sánh về lượng trên cùng một chỉ tiêu(còn gọi là phân tích ngang)
Phương pháp này đơn giản nhưng không thể hiện được mối quan hệ giữa
các chỉ tiêu. Các ví dụ về phân tích ngang bao gồm:
- So sánh số liệu kỳ này với kỳ trước hoặc giữa các kỳ với nhau.
- So sánh số liệu thực tế với số liệu trong kế hoạch sản xuất- kỹ thuật- tài
chính, trong dự toán chi phí.
- So sánh số liệu giữa các đơn vị cùng ngành, cùng loại hình kinh doanh,
cùng lãnh thổ và có quy mô tương đương. Hoặc so sánh giữa các chỉ tiêu của
đơn vị với các chỉ tiêu bình quân trong ngành.
 Phân tích tỷ suất(còn gọi là phân tích dọc)
Phương pháp này được thực hiện bằng cách so sánh, xác định tỷ lệ tương

quan giữa các chỉ tiêu, các khoản mục khác nhau.

25


×