Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chát và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Phân tích quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần của nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.5 KB, 23 trang )


Đề tài : Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chát và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Phân tích quá trình phát triển kinh tế nhiều thành
phần của nước ta.

I. MỞ ĐẦU
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất luôn là quy luật cơ bản nhất không chỉ trong kinh tế mà cả lịch sử xã hội
Kinh tế Việt Nam thời kỳ bao cấp, tư tưởng chủ quan nóng vội muốn tạo lập
quan hệ sản xuất tiến bộ, đi trước một bước vơí lực lương sản xuất.
Kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới, xâydựng kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần.
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Nội dung Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất
1.1. Lực lượng sản xuất
1.2. Quan hệ sản xuất
1.3. Quy luật về sự phụ thuộc của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất
- Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
- Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của Quan hệ
sản xuất
- Vai trò của Quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
- Quan niệm khoa học về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất
2. Vấn đề phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
2.1. Giai đoạn 1954 – 1975
2.2. Giai đoạn 1975 –1986
2.3. Cơ sở khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay
1




2.4. Tác động của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đến nền kinh tế Việt Nam.
Thành tựu 15 năm đổi mới.
2.5. Sự hoàn thiện lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất theo đường lối Đảng
Cộng Sản Việt Nam.
2.6. Điều kiện đảm bảo xây dựng và phát triển kinh tế theo định hướng XHCN
- Vai trò Đảng Cộng Sản Việt Nam
- Vai trò quản lý Nhà nước
2.7. Các thành phần kinh tế theo nghị quyết đại hội Đảng IX và sự đóng góp
của chúng trong nền kinh tế
III. KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP
- Khẳng định trong thời kỳ hiện nay xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ lực lượng sản xuất, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển nền kinh
tế, đồng thời phải tạo ra sức mạnh tổng hợp của nền sản xuất hàng hoá nhiều thành
phần đi lên CNXH.
- Một số giải pháp để cho các thành phần kinh tế phát huy một cách tốt nhất,
Nhà nước phải áp dụng các biện pháp tạo tiền đề pháp lý cần thiết đảm bảo tính
định hướng XHCN đối với các thành phần kinh tế ở nước ta.
LỜI NÓI ĐẦU
2



Đại hội Đảng lần IX kết thúc, mở ra nền kinh tế Việt Nam định hướng kinh
tế mới với những chỉ tiêu táo bạo của kế hoạch 5 năm (2001- 2005):
- GDP : 7,5%
- Tổng GDP năm 2005 gấp hai lần năm 1995
- Tỉ trọng nông- lâm- ngư nghiệp chiếm 20- 21% GDP
- Công nghiệp và xây dựng chiếm 38- 39%GDP
- Các ngành dịch vụ chiếm 41- 42% GDP

Đây không chỉ là những con số vô căn cứ, mà đó là kết quả quá trình nghiên
cứu lâu dài với tiềm năng, xu hướng phát triển kinh tế Việt Nam cùng với những
thành tựu đã đạt được cuả 15 năm đổi mới.
Ngày 10/12/2001 đã tạo bước ngoặt lớn, mở đầu cho thời kỳ kinh tế mới của
nước ta với hiệp định Thương Mại Việt- Mỹ. Đó không phải là một phép mầu
nhiệm thần tiên giành cho một đất nước thuộc thế giới thứ 3 như Việt Nam mà đó
là sự hợp tác lâu dài với chủ trương hai bên cùng có lợi đã được một nước siêu
cường quốc như Mỹ nghiên cứu đánh giá với tiềm năng phát triển của Việt Nam.
Vì sao khiến cho Mỹ có quyết định này?
Nhiều nhà khoa học đã phân tích, đưa ra luận điểm đầy “hào hùng” để
thuyết phục độc giả, nhưng có điều không thể phủ nhận được ở đây - yếu tố cơ
bản tiêu quyết đó là Đảng ta dựa trên quy luật “quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất với việc phân tích vấn đề phát triển
kinh tế nhiều thành phần”.
3



PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ trước đến nay, quy luật về sự phù hợp
của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất luôn là một
quy luật cơ bản nhất, quan trọng nhất trong cả lĩnh vực kinh tế và trong lịch sử phát
triển của xã hội loài người.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định rằng: Lực lượng sản xuất có vai trò
quyết định đối với Quan hệ sản xuất và ngược lại, Quan hệ sản xuất cũng có sự tác
động trở lại có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất và:
" Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp Quan hệ sản xuất lạc
hậu mà cả khi Quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá
xa so với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất " ( Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ).

Trước đây, chúng ta đã có lúc phạm phải sai lầm là xây dựng " Quan hệ sản
xuất đi trước Lực lượng sản xuất", chỉ cho phép các hình thức sở hữu Nhà nước và
sở hữu Tập thể tồn tại, trong khi các hình thức sở hữu khác đang còn có tác dụng
mạnh mẽ đối với Lực lượng sản xuất thì lại bị ngăn cấm, không cho phép phát triển.
Việc đó đã dẫn đến tình trạng sản xuất bị đình đốn, không phát triển. Sau khi nhận
thức được sai lầm này, chúng ta đã đổi mới đường lối chiến lược trong lĩnh vực
kinh tế, đó là xác lập lại các hình thức sở hữu, cho phép nhiều kiểu Quan hệ sản
xuất cùng tồn tại để mở đường cho Lực lượng sản xuất phát triển.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã xác định rõ con đường
để đi lên Xã hội chủ nghĩa là: " Tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy
mọi nguồn lực để phát triển Lực lượng sản xuất, đẩy mạnh CNH - HĐH" .
Hiện nay , việc chúng ta duy trì và phát triển 6 thành phần kinh tế là đã vận
dụng đúng đắn quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với Lực lượng sản xuất. Để phân
tích rõ hơn về vấn đề này, tôi đã chọn đề tài: " Quy luật Quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất với
việc phân tích vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt
Nam hiện nay." làm đề tài cho tiểu luận môn Triết học. Bài tiểu luận này được
hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo: Phạm Văn Sinh
Em xin chân thành cảm ơn!
4



PHẦN II
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Nội dung Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
Lực lượng sản xuất.
Sản xuất vật chất là điều kiện trước tiên đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Ăngghen chỉ ra rằng: CácMác là người đầu tiên đã phát hiện ra

quy luật phát triển của lịch sử loài người, nghĩa là tìm ra sự thật giản đơn . . . là
trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc trước khi có thể lo đến chuyện
làm chính trị, nghệ thuật, tôn giáo, . . . . Những thứ bảo đảm cho mọi người, nhu
cầu này không có săn trong giới tự nhiên. Để có nó con người phải sản xuất, Các
Mác viết “ đứa trẻ con nào cũng biết là một nước sẽ chết đói nếu ngừng lao động,
tôi khồng nói trong một năm mà ngay trong một tuần.”
Để hoạt động sản xuất vật chất diễn ra cần phải có những điều kiện khách
quan, mà trong đó phương thức sản xuất là yếu tố tiên quyết và cơ bản nhất.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ
sản xuất.
1.1 Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất. Lực lượng sản xuất gồm có Tư liệu sản xuất và Quan hệ sản
xuất.
1.1.1 Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai bộ phận: Đối tượng lao động và Tư
liệu lao động.
Đối tượng lao động xét về phương diện cấu tạo thì gồm 3 phần:
Thứ nhất: Là toàn bộ những vùng của bản thân giới tự nhiên được con
người trực tiếp sử dụng và đưa vào sản xuất. Đó là những hầm mỏ, khoáng sản,
hải sản. . .
Thứ hai: Đó là những sản phẩm không có sẵn trong giới tự nhiên mà do
con người bằng lao động của mình tạo ra như các loại hợp chất, sợi tổng hợp, . . .
5



Thứ ba: Là những vùng tự nhiên không thuộc về giới hạn của đối tượng
lao động trực tiếp, những vùng hoàn toàn chưa mang dấu ấn của con người nhưng
lao động của con người sẽ hướng tới. Chẳng hạn, 97 % tài nguyên dưới đáy biển,
các hành tinh xung quanh chúng ta, . . . . Chính việc tìm kiếm ra những đối tượng
lao động mới sẽ trở thành động lực cuốn hút mọi hoạt động của con người.

Tư liệu lao động là những vật hay phức hợp các vật có thể nối con người với
đối tượng lao động và dẫn truyền tích cực sự tác động của con người vào đối tượng
lao động. Thông thường trong quá trình sản xuất, Tư liệu lao động còn được gọi là
cơ sở hạ tầng của một nền kinh tế. Theo ứac, trong bất kỳ một nền sản xuất nào,
công cụ sản xuất bao giờ cũng là hệ thống xương cốt và là chỉ tiêu quan trọng nhất.
Công cụ sản xuất được con người không ngừng cải tiến và hoàn thiện, do đó công
cụ sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất của Lực lượng sản xuất.
1.1.2 Người lao động
Theo Lênin viết chính là " Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại.
Với tư cách là một bộ phận của Lực lượng sản xuất xã hội, người lao động phải là
người có thể lực, trí lực, văn hoá, chuyên môn kinh nghiệm cao, phẩm chất và tư
cách lành mạnh . . . . Công cụ sản xuất và người lao động là những bộ phận quan
trọng nhất không thể tách rời của Lực lượng sản xuất.
Trước đây, đã có lúc chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của công cụ sản xuất, bất
chấp giới hạn của nhân tố lao động. Đồng thời lại có lúc ta muốn tiến nhanh, mạnh,
vững chắc lên Xã hội chủ nghĩa, lại nhấn mạnh vai trò thuần tuý của nhân tố lao
động, bất chấp khả năng hiện có của công cụ sản xuất.
1.2 - Xét về mặt xã hội, thì để có sản xuất vật chất thì cần phải có quan hệ
giữa con người với nhau, hệ thống các mối quan hệ ấy tạo nên Quan hệ sản
xuất.
Quan hệ sản xuất bao gồm: +) Quan hệ sở hữu đối với Tư liệu sản xuất.
+) Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất.
+) Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
6



Ba mối quan hệ trên là một thể thống nhất hữu cơ, trong đó Quan hệ sở
hữu có ý nghĩa quyết định đối với các mặt quan hệ khác.
1.2.1 - Quan hệ sở hữu đối với Tư liệu sản xuất quyết định bản chất của Quan hệ

sản xuất. Lịch sử xã hội loài người đã có hai loại hình sở hữu cơ bản đối với Tư
liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.
-) Sở hữu xã hội là sở hữu mà trong đó những Tư liệu sản xuất chủ yếu
thuộc về mọi thành viên trong xã hội. Trên cơ sở đó, họ có vị trí bình đẳng nhau
trong tổ chức lao động xã hội và phân phối sản phẩm.
Sở hữu xã hội thực hiện điển hình ở hai hình thức cơ bản:
+) Sở hữu của bộ tộc , thị lạc trong phương thức sản xuất cộng sản nguyên
thuỷ.
+) Sở hữu tập thể ( Sở hữu hợp tác xã ) và sở hữu toàn dân ( Sở hữu quốc
doanh ) trong phương thức sản xuất Công sản Chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Xã
hội Chủ nghĩa.
-) Sở hữu Tư nhân tức quyền sở hữu đối với những Tư liệu sản xuất chủ yếu
thuộc cá nhân riêng biệt trong xã hội.
Lịch sử đã có ba loại sở hữu tư nhân điển hình: +) Sở hữu Chiếm hữu
+) Sở hữu Phong kiến.
+) Sở hữu Tư bản Chủ nghĩa.
Tương ứng với ba hình thức sở hữu trên là ba chế độ người bóc lột người,
nguồn gốc sản sinh ra mọi bất bình đẳng trong xã hội.
1.2.2 - Quan hệ sản xuất trong tổ chức và quản lý sản xuất:
Thích ứng với một kiểu sở hữu là một chế độ tổ chức và quản lý sản xuất
nhất định . Mặc dù phụ thuộc vào Quan hệ sản xuất nhưng tổ chức và quản lý sản
xuất có tác động lớn đối với quá trình sản xuất. Chính nó là nhân tố tham gia quyết
định trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả của nền kinh tế.
7



1.2.3 - Đối với quan hệ về phân phối sản phẩm lao động, phụ thuộc vào trên
nhưng thông qua tổ chức và quản lý, nó là chất xúc tác quan trọng đặc biệt trong
sự tăng trưởng kinh tế. Vì vậy trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần cần

có cơ chế phân phối sản phẩm hợp lý.
Nhận thức được các loại hình sở hữu trên là 1 vấn đề cần thiết, từ đó không
được tuyệt đối hoá bất kỳ một quan hệ nào mà phải chú ý đến tính đồng bộ của cả
ba mặt trong Quan hệ sản xuất.
1.3 - Quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của Lực lượng sản xuất.
Sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ phát triển của lực lương sản xuất là một trong những quy luật cơ bản nhất
của đời sống xã hội. Quy luật này chỉ rõ động lực và xu thế phát triển của lịch sử.
1.3.1 - Tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất.
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của Tư liệu sản xuất và sức lao
động. Khi công cụ sản xuất được sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để sản xuất
ra những sản phẩm cho xã hội không cần đến lao động của nhiều người thì Lực
lượng sản xuất có tính chất các thể. Khi công cụ sản xuất được nhiều người sử
dụng để sản xuất ra một sản phẩm thì Lực lượng sản xuất mang tính xã hội.
Trình độ sản xuất được thể hiện ở trình độ tinh xảo và hiện đại của công cụ
sản xuất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng - kỹ xảo của người lao động,
trình độ phân công lao động xã hội , tổ chức quản lý sản xuất và quy mô của nền
sản xuất.
Trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất càng cao thì chuyên môn hoá
và phân công lao động càng sâu. Trình độ phân công lao động và chuyên môn hoá
là thước đo trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất.
1.3.2 - Lực lượng sản xuất quy định sự hình thành, phát triển và biến đổi của
Quan hệ sản xuất. Lực lương sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, là
nội dung của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn
định, là hình thức xã hội. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội
8




dung là cái quyết định, nội dung thay đổi trước, hình thức thay đổi sau và phụ
thuộc vào nội dung.
Lực lượng sản xuất phát triển thì Quan hệ sản xuất thay đổi phù hợp với
tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho Lực lượng
sản xuất tiếp tục phát triển . Khi tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất phát
triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với Quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xoá bỏ
Quan hệ sản xuất cũ để hình thành Quan hệ sản xuất mới phù hợp với Lực lượng
sản xuất đang phát triển, phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất
mới ra đời.
Sự phát triển của Lực lượng sản xuất từ thấp tới cao qua các thời kỳ lịch sử
khác nhau đã quyết định sự thay thế Quan hệ sản xuất cũ bằng Quan hệ sản xuất
mới cao hơn đưa xã hội loài người qua nhiều hình thái xã hội khác nhau với những
kiểu Quan hệ sản xuất khác nhau.
Lịch sử đã chứng minh rằng, do sự phát triển của Lực lượng sản xuất,loài
người đã bốn lần thay đổi Quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã
hội. Như vậy, Lực lượng sản xuất nào thì Quan hệ sản xuất tương ứng như thế.
1.3.3 - Vai trò của Quan hệ sản xuất đối với Lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất,
sẽ tạo ra địa bàn rộng lớn cho Lực lượng sản xuất, trở thành động lực cơ bản thúc
đẩy, mở đường cho Lực lượng sản xuất phát triển.
Quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và trình
độ của Lực lượng sản xuất thì sẽ trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát
triển của Lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất có thể tác động ( thúc đẩy hoặc kìm hãm ) sự phát triển
của Lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất, ảnh hưởng quết định
đến trình độ người lao động của quảng đại quần chúng, kích thích hoặc hạn chế sự
cải tiến công cụ, sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác phân công lao
động.
9

×