Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

XU HƯỚNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG TNCs MNCs TẠI VIỆT NAM 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.58 KB, 62 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

Chuyên đề thảo luận:

XU HƯỚNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG TNCs TẠI VIỆT NAM

GV hướng dẫn: PGS.TS Kim Ngọc
Thành viên nhóm 12:
1 Đặng Thị Ngọc Anh
2 Lưu Văn Anh
3 Nguyễn Thị Kim Chi
4 Hoàng Thị Oanh
5 Nguyễn Anh Thiết
6 Vương Hải Trầm

Hà NỘI 12/2015


MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ Viết tắt
Nguyên Nghĩa Tiếng Anh
Nguyên nghĩa Tiếng Việt

2


1


ASEAN
Association of Southeast
Hiệp hội các quốc gia Đông

Asians Nations
Nam Á

2
ADB

The Asian Development

Bank
Ngân hàng Phát triển châu Á
3
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài

4
FPI
Foreign Portfolio Investment
Đầu tư gián tiếp nước ngoài
3


5
GC
Global Corporation
Công ty toàn cầu


6
GE
Global Enterprise
Công ty toàn cầu

7
NIES

Newly Industrialized Economy
Các nền kinh tế mới công nghiệp hóa

8
MNC
4


Multinational Corporation
Công ty đa quốc gia

9
R&D
Research and Development
Nghiên cứu và Triển khai

10
SGD
Singapore Dollar
Đô la Singapore

11

TNC
Transnational Corporation
Công ty xuyên quốc gia

12
UNCTAD
United Nations Conference on
Diễn đàn Thương mại và Phát
5


Trade and Development
triển Liên Hợp Quốc

13
USD
United States Dollar
Đô la Mỹ

14
WIR
World Investment Report
Báo cáo đầu tư thế giới

6


DANH MỤC HÌNH
S
TT


Hình

1

1.2

2
3
4

1.3
2.1
2.2

5

3.1

Nội dung

Trang

Diễn biến kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hóa và cán cân thương mại giai đoạn 2004 – 2014
Số lượng nhà nghiên cứu trên 1000 dân
Số lượng các TNCs tại Việt Nam
Thu hút FDI 6 tháng đầu năm 2014 theo địa phương
TỈ LỆ TĂNG TRƯỞNG GDP GIAI ĐOẠN 200420014


11
19
24
30

DANH MỤC BẢNG
S
TT
1

Bảng
1.1

Nội dung

Trang

Vốn đầu tư của các TNCs và FDI qua các
năm

7

8


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghê,
xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa phát triển sâu rộng trên thế giới thì sự bành
trướng của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) đã và đang là xu thế phát triển của thời
đại, có vai trò ngày càng quan trong trong nên kinh tế thế giới, đặc biệt đối với quá

trình công nghiệp hóa của các nước đang phát triển. TNC đã thâm nhập vào hầu hết
các quốc gia, là lực lượng chính phân phối các nguồn lực, chuyển gia công nghệ và lưu
chuyển hàng hóa từ khu vực này đến khu vực khác trên toàn cầu. Hoạt động kinh tế
quốc tế chủ yêu do TNC tiến hành – lực lượng chi phối toàn cầu hóa.
Trong xu thế toàn cầu hóa không một quốc gia nào có thể tách rời nền kinh tế thế
giới. Do vậy sự phát triển của các quốc gia luôn chịu sự chi phối ở các mức độ khác
nhau bởi TNC. Việt Nam để hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, thực hiện thành công
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước thì vai trò của TNC càng trở nên có ý nghĩa quan

8


trọng, cần thiết. Chính vì vậy, Việt Nam cần phải có những chính sách và giải pháp để
thu hút và sử dụng các TNC một các hiệu quả để đưa đất nước đi lên phát triển.
Để tìm hiểu rõ về các xu hướng thu hút và sử dụng các TNC tại Việt Nam, nhóm
tiến hành nghiên cứu chuyên đề theo ba chương:
Chương 1: Tổng quan về công ty toàn cầu. Ở chương này, nhóm sẽ đưa ra khái
niệm của TNCs, đặc điểm và vai trò của các TNCs tại Việt Nam để từ đó thấy được vì
sao Việt Nam cần phải thu hút các TNCs. Trong chương này, nhóm cũng đưa ra một số
bài học trong việc thu hút và sử dụng TNCs của NIEs châu Á.
Chương 2: Xu hướng thu hút và sử dụng TNCs tại Việt Nam. Trong chương 2,
nhóm sẽ nêu lên thực trạng thu hút và sử dụng các TNCs tại Việt Nam, từ đó đưa ra
những vấn đề đặt ra trong quá trình thu hút và sử dụng TNCs tại Việt Nam. Nội dung
chính trong chương này là các xu hướng thu hút và sử dụng TNCs của Việt Nam.
Nhóm cũng nêu ra các chính sách Việt Nam dùng để thực hiện xu hướng này.
Chương 3. Đánh giá chung và giải pháp thu hút TNCs. Dựa vào thực trạng và
các xu hướng, nhóm đưa ra những thuận lợi và khó khắn trong việc thu hút và sử dụng
các TNC tại Việt Nam từ đó đưa ra các giải pháp nhằm thu hút TNC cho Việt Nam.

CHƯƠNG 1. Tổng quan về công ty toàn cầu

1.1 Một số lý luận chung về TNCs
1.1.2 Khái niệm
Trong các tài liệu về các công ty xuyên quốc gia, có rất nhiều thuật ngữ khác nhau
được sử dụng như “công ty quốc tế, “công ty đa quốc gia” (MNC hay MNE), “công ty
xuyên quốc gia” (TNC) và “công ty toàn cầu”. Tuy nhiên, độ phổ biến của các thuật
ngữ này là khác nhau và nội dung của chúng cũng có phần khác nhau.
- Công ty đa quốc gia (MNC): Theo các chuyên gia UNCTAD (Hội nghị của
Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển) thì MNCs được định nghĩa như
sau:”MNCs là các công ty có chủ sở hữu vốn thuộc công ty mẹ của nhiều quốc gia”.
9


Như vậy MNCs cũng xuất phát từ các công ty tư bản độc quyền với hoạt động
sản xuất kinh doanh vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia. Nhưng điểm nổi bật là tư bản
thuộc sở hữu của công ty mẹ là của hai hoặc nhiều nước.
- Công ty xuyên quốc gia (International Corporations -TNC). Định nghĩa về TNC
có một số quan điểm sau:
+ Theo kinh tế chính trị: TNCs là những công ty tư bản độc quyền, chủ sở hữu tư
bản là của một nước nhất định. Theo quan điểm này,người ta chú ý đến tính chất sở
hữu quốc tế của tư bản: vốn đầu tư kinh doanh là của ai,ở đâu...
+ Trong Báo cáo Đầu tư thế giới 1998, Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương
mại và phát triển đã nêu một định nghĩa về TNCs cụ thể hơn: “TNCs là những công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc vô hạn bao gồm các công ty mẹ là công ty kiểm soát toàn bộ
tài sản của chúng ở nước sở hữu và các công ty con của chúng ở nhiều nước trên thế
giới”.
- Công ty toàn cầu (Global - Corporation/Enterprise/Firm): là loại công ty có các
chiến lược kinh doanh và những tư duy hành động của nó đều hướng ra toàn Thế Giới
(World-Orientation). Đây là một xu thế và là mục tiêu của các công ty lớn hiện nay
trong điều kiện quá trình quốc tế hóa kinh tế diễn ra ngày càng sâu sắc, Thế giới đang
tiến tới hình thành "một thị trường toàn cầu”.

- Công ty quốc tế (International Enterprise/Firm): là các công ty có hoạt động sản
xuất kinh doanh vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia. Công tác quản lí mang tính tập
trung cao, việc ra quyết định có khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa đồng thời các vị trí
then chốt tại các chi nhánh nước ngoài đều do người của công ty mẹ sang nắm giữ.
Như vậy, xét về bản chất các thuật ngữ trên là tương đương. Khi nói về công ty toàn
cầu chính là đang nói về công ty xuyên quốc gia hay ngược lại. Chúng đều có đặc
điểm chung:
+ Hoạt động vượt khỏi biên giới quốc gia.
+ Có nhiều chi nhánh ở nước ngoài (Theo trường phái Havard: số chi nhánh ở
nước ngoài của MNCs tối thiểu là 6 và doanh thu từ các chi nhánh nước ngoài phải
chiếm ít nhất 1/3 tổng doanh thu của công ty). Sự khác biệt chủ yếu chỉ là tên gọi và
vấn đề sở hữu vốn và các quá trình công nghệ.

10


+ Khi nhắc đến Công ty xuyên quốc gia, khái niệm này không bao hàm đến các
vấn đề về sở hữu vốn mà chỉ quan tâm đến các hoạt động kinh doanh như: sản xuất,
thương mại, đầu tư quốc tế của công ty.
+ Còn đối với các tên gọi còn lại, thì các quan niệm này hàm ý rằng sở hữu vốn và
các quá trình công nghệ thuộc nhiều quốc gia trên thế giới.
Như vậy theo định nghĩa, TNCs là doanh nghiệp có sở hữu và kiểm soát tài sản
như nhà máy, hầm mỏ, đồn điền và các cơ sở bán hàng ở hai hoặc nhiều nước. Định
nghĩa này cũng được đưa ra bởi nhiều học giả như Jenkins, Rasiah.... Như vậy, theo
các định nghĩa đã nêu, bản chất của TNCs và MNCs là giống nhau: chúng đều là
những công ty có quy mô lớn về tài sản, phạm vi hoạt động ở nhiều nước và tìm kiếm
lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Sự khác nhau về tên gọi chỉ là phản ánh đặc điểm
phát triển trong từng thời kỳ tăng trưởng của TNC hoặc thói quen sử dụng từ ngữ của
các học giả.
Gần đây, Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD)

đã đưa ra định nghĩa chung như sau:
TNCs bao gồm các công ty mẹ và công ty con của chúng ở các nước trên thế giới.
Công ty mẹ kiểm soát toàn bộ tài sản của chúng ở nước sở hữu hơn là ở nước ngoài.
Công ty con là công ty hoạt động ở nước ngoài dưới sự quản lý của công ty mẹ và
thường được gọi chung là chi nhánh ở nước ngoài.
Cũng theo định nghĩa này có những loại công ty con sau đây:
Công ty phụ thuộc hay còn gọi là công ty con: là công ty TNHH ở nước chủ nhà,
trong đó chủ đầu tư sở hữu hơn 50% tài sản của công ty. Họ có quyền chỉ định hoặc
bãi nhiệm các thành viên trong bộ máy tổ chức và quản lý điều hành của công ty.
Công ty liên kết là công ty TNHH ở nước chủ nhà, trong đó chủ đầu tư sở hữu ít
nhất là 10% nhưng không lớn hơn một nửa quyền biểu quyết của các cổ đông, quyền
hạn ít hơn công ty phụ thuộc.
Công ty chi nhánh: là công ty hoạt động ở nước ngoài với 100% tài sản thuộc sở
hữu của công ty mẹ. Từ các nhận xét trên, có thể thấy được rằng, về bản chất, các thuật
ngữ về công ty xuyên quốc gia không có sự khác biệt đáng kể. Chúng đều có đặc điểm
chung là quy mô lớn, sở hữu đa quốc gia và kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh
doanh ở nhiều nước. Sự khác biệt chủ yếu chỉ là ở tên gọi, phản ánh những đặc điểm
cụ thể về công ty xuyên quốc gia qua các thời kỳ, giai đoạn phát triển hoặc theo thói
11


quen sử dụng từ ngữ của các học giả. Chính vì vậy, trong khuôn khổ bài giới thiệu này,
thuật ngữ "Các công ty xuyên quốc gia" (TNCs) sẽ được sử dụng xuyên suốt.
1.1.2 Đặc điểm TNCs ở Việt Nam
 Các TNCs ở Việt Nam có nguồn gốc từ nhiều nước nhưng phổ biến là từ các nước

đang phát triển
Thực tiễn hoạt động của các TNCs trên thế giới đã cho thấy 90% số công ty có
nguồn gốc từ một nước. Do đó căn cứ vào danh sách tên các quốc gia lãnh thổ có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam chúng ta có thể nhận diện một cách

đầy đủ nguồn gốc của các TNCs. Từ năm 1988-1997 phần đầu tư của các TNCs
Đông Á chiếm tới 64,8% trong số 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Năm
1998 kinh tế Đông Á lâm vào khủng hoảng tài chính tiền tệ thì mức này vẫn chiếm
tới 44,9% và năm 1999 sau sự phục hồi của các nền kinh tế Đông Á, mức này đã
tăng trở lại với mức 60,4%. Trong số các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
thì các nhà đầu tư thuộc ASEAN chiếm 24,56%.
Như vậy vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam có nguồn gốc
chủ yếu là các nền kinh tế Châu Á. Các TNCs Châu Á với phần lớn là các nền kinh
tế đang phát triển và hầu hết các nước này đều chịu sự tác dộng của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Sự khó khăn của các TNCs này đã kéo theo sự
thu hẹp các khoản đầu tư mới cũng như sự trì trệ trong việc thực hiện số vốn đầu tư
đã cam kết, cũng vì thế tuy tổng mức vốn cam kết đầu tư của các TNCs ở Châu Á
là rất lớn song mức vốn thực hiện lại rất thấp thường chỉ đạt bình quân 20% trong
khi mức thực hiện này từ các TNCs Âu-Mỹ thường đạt từ 38-70% thậm chí có
công ty đạt trên mức vốn đã cam kết. Có nhiều lí do liên quan đến vấn đề này trong
đó năng lực tài chính chưa mạnh và công nghệ kỹ thuật luôn là những vấn đề nổi
cộm từ các TNCs thuộc các nước đang phát triển hoặc các công ty không xuất phát
từ công ty mẹ là từ các công ty thuộc thế hệ thứ 2 đầu tư vào nước thứ 3, phản ánh
một thực tế mới của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động toàn cầu
trong nội bộ TNCs hiện nay, do qui mô không lớn và trình độ công nghệ không cao
những công ty này thâm nhập thị trường Việt Nam theo một chiến lược kinh doanh
đa dạng hóa do công ty mẹ điều chỉnh hoặc nhằm để chuyển một phần năng lực sản
12


xuất sang khu vực lãnh thổ khác để phân tán rủi ro, giảm bớt tổn thất kinh doanh
hoặc thực hành cắm nhánh theo hiệu ứng làn sóng trong chuyển dịch cơ cấu để tận
dụng các lợi thế so sánh ở các nước đối tác nhằm đảm bảo chắc chắn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh. Một lí do khác, các TNCs châu Á luôn coi thị trường Đông
Nam Á trong đó có Việt Nam là thị trường truyền thống của họ, do sự phổ biến của

các TNCs châu Á, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong xử
lí các quan hệ lợi ích khi hai bên đều rất hiểu nhau do gần gũi về địa lí, các nét
tương đồng về văn hóa, chính trị.
 Các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam phần lớn là các công ty vừa và nhỏ

Trong 500 tập đoàn lớn nhất được bình chọn trong năm, ở Việt Nam cho đến
nay mới chỉ có 10% trong số đó có dự án đầu tư và thiết lập các quan hệ giao
thương hàng hóa dịch vụ và công nghệ. Hiện trạng này còn nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan.
Thứ nhất là lợi thế so sánh chủ yếu của Việt Nam hiện tại chủ yếu là lao
động rẻ, nguyên liệu rẻ và thị trường rộng lớn. Những ngành sản xuất tận dụng lợi
thế này là những ngành sử dụng nhiều lao động và công nghệ chuyển giao còn chưa
tiên tiến. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hóa, khi lợi thế cạnh tranh trên thị
trường quốc tế đã chuyển trọng tâm sang cho các ngành đòi hỏi có trình độ cao về
công nghệ và tri thức thì theo logic của sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế toàn cầu,
phần xâm nhập chủ yếu vào thị trường Việt Nam thuộc về các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Thứ hai, như trên đã phân tích đầu tư và chu chuyển thương mại ở Việt Nam
được thực hiện chủ yếu bởi các TNCs châu Á.
Thứ ba, điều kiện cơ sở hạ tầng, môi trường đầu tư, năng lực thẩm định dự án
của Việt Nam còn chưa cao, còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng được so với yêu
cầu đòi hỏi từ các phía đối tác nước ngoài là các tập đoàn xuyên quốc gia lớn.

13


Thứ tư, cho đến nay Việt Nam vẫn đang ở những bước đi đầu tiên trên con
đường hội nhập quốc tế.
Việt Nam đã thu hút hầu hết các lĩnh vực kinh tế xã hội trong đó lĩnh vực công
nghệ khai thác và lĩnh vực khách sạn du lịch được coi là địa bàn hấp dẫn và thu hút

nhiều nhất các nhà đầu tư trực tếp nước ngoài.
Đầu năm 1999 Việt Nam đã cấp 33 giấy phép cho các tập đoàn dầu khí lớn nhất
thế giới của cả châu lục Bắc Mỹ ,Châu Âu, Châu Úc và châu Á theo các hợp đồng
phân chia các sản phẩm để thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Vệt Nam.
Vì các lĩnh vực này đầu tư vốn ít và thu hồi nhanh lợi nhuận cao đặc biệt phù hợp
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do vậy đến cuối năm 1998 Việt Nam đã có 273
dự án đầu tư xây dựng khách sạn , đây là lĩnh vực hoạt động dịch vụ dễ sinh lời nên
Việt Nam đang cố gắng phát triển tu hút các nhà đầu tư lớn vào lĩnh vực này . Việt
Nam cũng đang chú trọng phát triển và thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực bưu
chính viễn thông , đây là lĩnh vực dịch vụ cao cấp của nền kinh tế hiện đại, đây có
thể còn là một lĩnh vực mà Việt Nam có thể đi tắt đón đầu để thu hút những công
nghệ tiên tiến nhất .
 Các TNCs đang có sự chuyển đổi rõ rệt về hình thức đầu tư

Ở Việt Nam, giai đoạn đầu hợp tác đầu tư với nước ngài có một thực tế là: sự
thiếu hụt về thông tin. Số lượng doanh nghiệp trong nền kinh tế còn rất ít, trong đó
chủ yếu lại là doanh nghiệp nhà nước. Để hạn chế rủi ro các công ty nước ngoài
thường chọn đối tác Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước hợp tác liên doanh. Vì
vậy trong thời gian đầu, hình thức này đã trở thành hình thức chủ yếu thu hút các
TNCs. Trong 10 năm (1988- 1998), hình thức liên doanh này chiếm 60% số dự án
và 70% tổng số vốn cam kết đầu tư. Trong các liên doanh này, tỷ lệ vốn pháp định
do phía Việt Nam đóng góp thường không quá 30%, chủ yếu là tiền sử dụng đất và
nhà xưởng sẵn có. Phía nước ngoài đóng góp bằng tiền mặt và trang thiết bị nhập
khẩu. Do vậy, trong thời kì xây dựng cơ bản, gần như liên doanh đã phụ thuộc toàn
bộ vào tiến độ góp vốn của TNCs và cũng tương tự như vậy, trên thực tế gần như
14


công việc điều hành quá trình xây dựng công trình cho dự án và thực hiện dự án
sau này do nước ngoài quyết định. Hiện tượng này, ngoài các lý do về vốn, công

nghệ, thị trường đầu ra do phía nước ngoài nắm, còn bị quyết định đáng kể bởi 3 lý
do:
- Phía Việt Nam góp vốn chủ yếu bằng quyền sử dụng đất, chỉ chiếm 10% vốn
đầu tư. Do đó, vai trò của các doanh nghiệp Việt trong các liên doanh đã nhỏ, lại có
xu hướng càng bị giảm thiểu hơn.
- Năng lực của đội ngũ cán bộ của Việt Nam tham gia vào quản lý, điều hành
kinh doanh còn quá yếu.
- Việc liên doanh giữa TNCs với đối tác Việt Nam lại chủ yếu là doanh nghiệp
Nhà nước thường xuyên có sự bất đồng về phương thức và mục tiêu kinh doanh đã
dẫn đến những xung đột thường xuyên trong tổ chức và điều hành giữa chúng. Do
đó, trong thời gian gần đây, các công ty liên doanh hiện có hoặc các đầu tư mới của
TNCs chuyển sang hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đang trở nên phổ biến
và có xu hướng gia tăng.
Bảng 1.1 : Vốn đầu tư của các TNCs và FDI qua các năm

Năm

199
1

Vốn đầu tư
(triệu USA)

199
5

428,
5

200

0

2.79

200
5

2.39

2,0

8,7

0
3.30

0,5

201

201
3

11.0
00,3

11.5
00,0

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

Không thu hút được nhiều dự án sẽ chậm đổi mới công nghệ, tạo khoảng cách
khá xa so với các ngành khác. Một số TNCs dựa vào ưu thế về vốn lớn, kỹ thuật để
thao túng và gây hậu quả xấu cho liên doanh thâm chí còn gây sức ép với các cơ
quan Nhà nước.
15


Các TNCs thuê lao động, mua nguyên liệu với giá rẻ, buộc chính phủ Việt Nam
phải chấp nhận điều kiện có lợi cho phía TNCs. Cũng còn không ít tình trạng lao
động Việt Nam làm việc trong các công ty của nước ngoài phải chịu áp lực lớn,
cường độ lao động cao, không đảm bảo sức khỏe.
Vì vậy đứng trước thực trạng trên, Việt Nam cần phải làm tốt công tác hoạch
định chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phải có sự thống nhất trong toàn xã
hội về quan điểm đối với các các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các
công ty xuyên quốc gia. Nền kinh tế đang trong thời kỳ hội nhập nên chúng ta phải
mở rộng cửa để đón các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bằng các ưu đãi trong
chính sách nhưng đồng thời phải có những điều kiện ràng buộc với các công ty về
bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, người lao động Việt Nam cũng phải không ngừng
nâng cao tay nghề để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc. Đó là một
trong những thách thức to lớn đối với Việt Nam trước thềm thế kỷ mới trên con
đường công nghiệp hóa, mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế.

1.1.3 Vai trò của TNCs đối với Việt Nam
 Các TNC cung cấp một nguồn vốn quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa của
đất nước
Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa trong điều kiện tích lũy trong nước còn thấp,
nhu cầu về vốn lớn đòi hỏi phải khai thác cả trong và ngoài nước dưới mọi hình thức.
Cùng với nguồn vốn ODA và vốn đi vay khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài của các
TNC đang trở thành nguồn vốn quan trọng nhất đối với các nước đi sau, xuất phất
điểm thấp hơn, rất cần vốn, công nghệ và kĩ năng quản lý. Nguồn vốn của các TNC sẽ

giảm bớt từ việc vay nợ nước ngoài với nhiều rủi ro, mạo hiểm, lãi suất cao và thời
hạn ngắn. Nhờ nguồn vốn này, nhiều nguồn lực bên trong được khai thác và phát huy
tác dụng. Nó còn giúp cho việc khơi gợi đầu tư từ các nguồn vốn khác đặc biệt là vốn
đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay và vốn nhàn rỗi trong dân cư theo dây
truyền. Do đó, Việt Nam đã rất coi trọng nguồn vốn nước ngoài đặc biệt là vốn đầu tư
của các TNC.
 Góp phần duy trì nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định
16


Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức đều có tốc độ
tăng trưởng cao kể cả thời kỳ nền kinh tế Việt Nam chịu sự tác động nặng nề của
cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực. Năm 2013 các doanh nghiệp FDI
chiếm tới 45,4% tổng lợi nhuận và 30,5% tổng số nộp ngân sách nhà nước của toàn
bộ khu vực doanh nghiệp. Do tăng trưởng nhanh hơn các khu vực kinh tế khác nên
khu vực FDI đóng góp tỷ trọng ngày càng vào GDP. Năm 1995 tỷ lệ đóng góp vào
GDP của khu vực FDI chỉ đạt 6,3%, tăng lên 15,2% năm 2000 và 19,6% năm 2013.
. Khi FDI giảm, các làn sóng người nước ngoài tìm hiểu đầu tư và du lịch giảm,
các doanh nghiệp trong nước trì trệ, hệ thống dịch vụ tiêu dung trầm lắng theo… Theo
đó, nền kinh tế Việt Nam trở thành một nền kinh tế tuy không lâm vào khủng hoảng tài
chính tiền tệ những đã trở thành một trong những nền kinh tế phục hồi chậm nhất
ASEAN. Từ thực tế của mình, Việt Nam càng nhận thức rõ hơn ai hết vai trò của các
dòng vốn này khi muốn khôi phục và bắt kịp nhịp độ phát triển của toàn khu vực.
 Các TNC góp phần tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Yêu cầu của công nghiệp hóa là tăng nhanh tỷ trọng của sản xuất công nghiệp, đặc
biệt là của ngành dịch vụ trong GDP và hơn nữa, theo mô thức hướng ngoại dựa vào
tăng trưởng xuất khẩu để nhanh chóng hội nhập vào thị trường quốc tế, Việt Nam phải
nâng cao tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ trong tổng kim ngạch
xuất khẩu. Các TNC, nhất là các TNC lớn – vốn là các tập đoàn công nghệ tài chính

hùng hậu hoàn toàn có thể đáp ứng được nhu cầu này. Đến nay khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã tạo ra gần 35% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, ở các
trung tâm kinh tế lớn của đất nước như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai….
tỷ lệ này còn cao hơn.
Các TNC đang hoạt động sản xuất kinh doanh đã tạo ra nhiều ngành nghề mói,
sản phẩm mới, góp phẩn làm tăng năng lực một số ngành kinh tế. F DI từ các tập đoàn
xuyên quốc gia lớn trong thòi gian qua còn là nhân tố quan 53 trọng trong việc hình
thành hệ thống các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX), góp phần điều chỉnh
phân bổ công nghiệp hợp lý.
Thông qua việc hợp tác đẩu tư vói nước ngoài, nhiều công nghệ mới, hiện đại đã
được du nhập vào Việt Nam. Điều này được biểu hiện cụ thể nhất trong các lĩnh vực
17


dầu khí, viễn thông, hoa chất, điện tắ, tin học, ô tô, xe máy... Đây chính là tiền đề cho
sự phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Một số ví dụ có thể kể đến
là công nghệ khai thác đẩu khí ngoài khơi, lắp đặt tổng đài kỹ thuật số, rôbốt, dây
chuyền tự động lắp ráp hàng điện tắ, mạch điện tắ, công nghệ chế tạo máy biến thế,
cáp thông tin, cáp điện...
Nhiều mô hình quản lý tiên tiến và các phương thức kinh doanh hiện đại trên thế
giới đã được áp dụng trong các doanh nghiệp FDI ở một số lĩnh vực. Đây là những yếu
tố thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương
thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.


Mở rộng xuất khẩu, tăng thu ngân sách
+ Tăng kim ngạch xuất khẩu
Những đóng góp của các TNC vào xuất khẩu là không thể phủ nhận. Điểu này
được minh chứng thông qua tỷ trọng ngày càng gia tăng của kim ngạch xuất khẩu của
khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu.


Hình 1.3: Diễn biến kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và
cán cân thương mại giai đoạn 2004 – 2014
Nguồn: Tổng cục Hải quan
+ Mở rộng thị trường xuất khẩu
Các TNC thường có hệ thống đông đảo các công ty vệ tinh, các chi nhánh ở
khắp nơi trên thế giói nên việc bao quát, nắm bắt thị trường thế giới có rất nhiều thuận
tiện. Hơn nữa, một số TNC lớn còn thiết lập hệ thống phân phối toàn cầu và chính
18


sách xuất khẩu của mỗi công ty con do chiến lược của công ty mẹ quyết định. Do đó,
việc xuất khẩu ra nhiều thị trường khác nhau của các TNC có thỉ tiến hành thuận lợi và
ổn định. Ngoài ra uy tín của các TNC cũng góp phần đáng kỉ vào việc thâm nhập thị
trường mói.
Trước năm 1978, thị trường xuất khẩu của nước ta chỉ bó hẹp trong khu vực Liên
Xô cũ, các nưốc Đông Âu và một số nước xã hội chủ nghĩa khác với số lượng hàng
hóa rất khiêm tốn, chỉ vài trăm triệu Rúp. Từ cuối năm 1991 trở đi, lượng vốn FDI bắt
đầu tăng mạnh, kéo theo đó thị trường xuất khẩu cũng được mỏ rộng nhanh chóng.
Ban đẩu là một số nước Đóng Á, ASEAN, Trung Á... rồi mở rộng ra các nước Tây Âu,
Châu Mỹ La Tinh, Australia, Bắc Mỹ, các nước Châu Phi... Tới nay, thông qua hoạt
động xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI mà thị trường xuất khẩu cùa Việt Nam đã
được mỏ rộng ra trên 140 quốc gia và các vùng lãnh thổ khác nhau, trong đó 59 có
nhiều thị trường mới mở ra trong những năm gân đây như thị trường Mỹ rất nhiều tiềm
năng.
+ Tăng thu ngân sách
Tất nhiên, có một nghịch lí dễ làm cho người ta e ngại là các TNCs khi đầu tư vào
Việt Nam thời kỳ đầu thường được hưởng ưu đãi về thuế và do hướng trọng tâm vào
các ngành công nghiệp chế biến được hưởng các ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan
khi xuất khổu nên có thể sự có mặt của họ sẽ không mang lại nguồn thu đáng kể cho

ngân sách Nhà nước. Thật ra, cùng với nhịp độ tăng đầu tư, tăng tổng khối lượng xuất
khổu và nhập khổu các sản phổm trung gian và phần đóng góp về thuế lợi nhuận công
ty ngày càng tăng cùa họ. Do vậy, phần khu vực đầu tư nước ngoài nộp ngân sách
(không kể dầu khí) đã gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây


Nâng cao trình độ công nghệ, chất lượng sản phẩm và kĩ năng quản lí kin h
doanh Trình độ
+ Trình độ công nghệ và chất lượng sản phẩm
Cùng vói vốn, công nghệ là một tiền đê quan trọng của sự nghịêp CNH, HĐ H đất
nước. Do vậy việc nâng cao trình độ công nghệ trong điểu kiện hiện nay là rất cẩn thiết
để hội nhập một cách chủ động và thành công. ở Việt Nam các TNC đã 61 góp phần
đáng kể vào việc nâng cao trình độ công nghệ của đất nước nói chung và của các
19


doanh nghiệp nói riêng.Nhiều công nghệ mới được nhập vào nước ta như: Thiết kế,
chế tạo máy biến thế, dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử, mạch điện tử, lấp ráp
tổng đài điện thoại tự động, kỹ thuật số, công nghệ sồn xuất cáp điện, sồn xuất ô tô,
khai thác đẩu khí.... Nhờ có đầu tư của các TNC, Việt Nam đã sồn xuất được ô tô, xe
gắn máy, khai thác được đẩu thô và có mạng thông tin khá hiện đại. Riêng trong ngành
sồn xuất, lắp ráp õ tô, đã có 11 hợp đồng chuyển giao công nghệ của nhiều hãng sồn
xuất ô tô nổi tiếng trên thế giới như : Toyota, Dahatsu, Mazda, Mitsubishi, .. của Nhật,
Mercedes, BMW của Đức, Daewoo của Hàn Quốc, ... về sồn xuất, lắp ráp xe máy có
các công ty từ Nhật Bồn như : Honda, Yamaha, Suzuki, từ Đài Loan: VMEP. Trong
lĩnh vực mỹ phẩm có hầu hết các hãng nổi tiếng thế giới như : Unilever (Anh - Hà
Lan), Procter & Gamble, Colgate - Palmolive (Hoa Kỳ), DeBon (Hàn quốc), ...
Các TNC thường chỉ chuyển giao công nghệ hạng hai vào Việt Nam vì các lĩnh
vực đầu tư ở đây đa phẩn vẫn là các ngành có hàm lượng lao động cao, hàm lượng
công nghệ thấp. Tuy nhiên, những công nghệ này vẫn tiên tiến hơn mặt bằng công

nghệ trong nước hàng chục thậm chí hàng trăm năm nên cũng góp phần nâng cao trình
độ công nghệ của cồ nướcNhiều mặt hàng trước đây ta phải nhập nguyên chiếc, hoặc
lắp ráp đơn giản, nay nhờ hoạt động chuyển giao công nghệ, đã sản xuất được trong
nước để cung cấp cho thị trường và đã dẩn nâng cao tỳ lệ chế tạo nội địa các linh kiện,
bộ phận của các sản phẩm đó như: ô tô, tủ lạnh, xe máy,... Như đã đề cập ở trên, cho
đến nay, hầu hết các hãng sản xuất ô tô lớn, nổi tiếng trên thế giới đã có cơ sở sản xuất,
lắp ráp à Việt Nam. Nhiều sản phẩm có công nghệ chế tạo phức tạp đã được sản xuất
đạt yêu cầu chất lượng và xuất khẩu ra nước ngoài như: đèn hình (công ty TNHH đèn
hình ORION - HANEL), hầu hết các bộ phận động cơ, linh kiện, phụ tùng xe máy đã
được sản xuất tại Việt Nam,....
Hoạt động chuyển giao công nghệ đã tạo ra được nhiều sản phẩm có chất lượng
tốt, hình thức đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu câu trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài.
Hay nói cách khác, công nghệ chuyển giao đã góp phẩn nâng cao năng lực cạnh tranh
của hàng Việt Nam. Sự tham gia của các TNC còn tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc
đẩy cấc doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mói về công nghệ, về quản lý,... đổ tồn
tại, chính điều này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Về trình độ quản lí sản xuất kinh doanh
20


Thông qua đầu tư của các TNC, trong một thời gian không dài, hem 3000 cán
bộ quản lí các xí nghiệp, các tổ chức kinh doanh, kể cả quản lí Nhà nước, đã tiếp cận
được với phương thức quản lí mới - quản lí kinh tế trong nền kinh tế thị trường, mở
rộng quan hệ ra ngoài phạm vi lãnh thổ đất nước. Hàng chục nghìn cán bộ quản lí, cán
bộ, công nhân kĩ thuật được đi học tập, tham quan tại các công ty, các nhà máy, xí
nghiệp ở nước ngoài. Riêng thông qua các hợp đồng chuyển giao còng nghệ, số cán
bộ, công nhân kĩ thuật khác được đào tạo ngay tại các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, trên các dây truyền sản xuất.
Nhiều dây truyền sản xuất phức tạp, có quy m ô lớn đã được hình thành và đang
hoạt động hiệu quả với sự điều hành phối hợp của cán bộ Việt Nam và các chuyên gia

nước ngoài (như các nhà máy sản xuất hoa chất, bột ngọt, lắp ráp ô tô, xe máy, các
công trình thăm dò, khai thác đẩu khí, các công trình xây dựng lớn, kinh doanh khai
thác khách sạn và du lửch quốc tế...)- Cho đến nay, trong nhiều xí nghiệp có vốn đẩu
tư nước ngoài số cán bộ là người nước ngoài đã rút đi đáng kể, một số xí nghiệp hoàn
toàn do cán bộ Việt Nam điều hành, bên nước ngoài cử người đến kiểm tra đửnh kỳ
(như nhà máy sản xuất quạt điện Ching Hai, công ty Unilever Việt Nam,...)
Nhìn chung, hơn mười năm qua trình độ quản lí sản xuất kinh doanh của đóng
đảo cán bộ nước ta đã được nâng lên đáng kể. Có lẽ đây là một trong những cái được
lớn nhất thông qua việc thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài.
+ Tạo việc làm, giúp phát triể n nguồn nhân lực, nâng cao thu nhập cho người lao
động
Các TNC tạo ra khối lượng công việc lớn với thu nhập cao, ổn đửnh góp phần
nâng cao mức sống của người lao động. Đổng thời, theo đó TNCs góp phần nâng cao
tích lũy trong dân cư và nâng cao tổng tích lũy xã hội
Mặt khác thu nhập của những người làm trong các doanh nghiệp nước ngoài
thường cao hơn những người làm việc trong các loại hình kinh doanh khác, với mức
lương bình quân chung là 75 USD/tháng nghĩa là cao hơn mức lương của những
người làm việc trong khu vực khác khoáng 50%. Đây cũng là những ưu điểm mà các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra giúp người lao động có cơ hội để tái bù
đắp sức lao động, gắn bó với công việc. Trên góc độ xã hội, điểu đó cũng đổng nghĩa
21


với việc nâng cao sức mua có khả năng thanh toán đối với người tiêu dùng và do đó,
nó góp phần làm sống lại thị trường tiêu dùng trong nước vốn rất yếu kém. V ới tổng
mức thu nhợp của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
khoảng gần 800 triệu USD, thị trường trong nước mở rộng đến lượt nó sẽ tác động tích
cực tói sự tăng trưởng kinh tế. Thu nhợp cao của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
cao hơn hẳn khu vực còn lại dẫn đến sự cạnh tranh trên thị trường lao động thúc đẩy
mạnh mẽ tinh thần học tợp và phấn đấu của người lao động. Có thể thấy gần đây

phong trào học tiếng Anh, máy tính, kĩ năng quản lí hiện đại trở nên rất sôi động, để
đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng nước ngoài. Hơn nữa, sau khi được tuyển vào các
công ty nước ngoài người lao động làm tiếp tục được đào tạo, bồi dưỡng tay nghề,
công việc gắn liền với công nghệ mới, làm quen với tác phong công nghiệp hiện đại,
kinh nghiệm quản lí và phương thức kinh doanh tiên tiến. Do đó, họ trở thành một bộ
phợn công nhân lành nghề, có kĩ năng và có tính kỉ luợt cao. Nhờ vợy, trình độ nguồn
nhân lực của đất nước được nâng lên đáng kể. Trong số những lao động làm việc trong
khu vực FDI, có khoảng 7000 cán bộ quản lí, 28000 cán bộ kĩ thuợt, phần lớn là cán
bộ trẻ, thông qua môi trường mới, đã nhanh chóng trưởng thành, nắm được công nghệ,
thợm chí cả bí quyết kĩ thuợt và kinh doanh. Đây là lực lượng lao động có khả năng
thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, nhà nước không phải mất chi phí đào tạo và sẽ
là chủ thể tích cực cho các quá trình sản xuất kinh doanh, kể cả khi họ rời bỏ các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.


Nhân tố chính thúc đẩy sự nghiệp chuyển đổi sang kinh tế thị trường mở cửa
và hội nhập quốc tế của Việt Nam
Các TNC phẩn lớn là các doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp cổ phần, trách
nhiệm hữu hạn. Tuy vậy, như đã nêu trên, các TNC có nguồn gốc từ một nước là phổ
biến nên sự hiện diện của các TNC từ 75 nước và lãnh thổ có dự án ở Việt Nam đồng
nghĩa vói việc xác lập và tăng cường quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các quốc gia
và lãnh thổ này. Xuất phát từ lồi ích của các TNC nước mình, chính phủ các nước đã
đi đến thoa thuận và kí kết với chính phủ Việt Nam các hiệp định về đầu tư, hiệp định
tránh đánh thuế hai lần... nhằm mục đích tạo ra những điều kiện thuận lồi nhất cho các
TNC. Tương tự như vậy, chính phủ các nước họ đang hoạt động ở Việt Nam có trách
nhiệm tư vấn, giúp đỡ và trồ cấp ưu đãi cho các TNC nước họ có điều kiện thâm nhập
sâu hơn vào thị trường nước ta. Ví du, mặc dù chưa có hiệp định kinh tế thương mại
22



Việt - Mỹ, chính phủ Mỹ đã bật đèn xanh cho ngân hàng Eximbank, tổ chức OPIC...
hỗ trồ cho các công ty Mỹ ở Việt Nam. Theo đó, quan hệ hợp tác kinh tế song phương
giữa Việt Nam với các nước đưọcc xúc tiến và mở rộng hơn...

1.2 Một số kinh nghiệm trong việc thu hút và sử dụng TNCs của NIEs châu Á
NIEs châu Á là những nước và vùng lãnh thổ có nhiều điểm tương đồng với Việt
Nam. Tìm hiểu TNCs của những nước này sẽ giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn về
sự tồn tại sự tồn tại và phát triển của các TNCs và rút ra những bài học cho Việt Nam
1.2.1 Kinh nghiệm thành công của NIEs châu Á trong việc thu hút và sử dụng
TNCs nước ngoài nhằm tạo cơ sở phát triển TNCs bản địa.
Một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát
triển TNCs trong nước là việc thu hút và sử dụng TNCs nước ngoài có hiệu quả của
NIEs châu Á. TNCs thông qua các hình thức liên doanh , liên kết, đầu tư, phần nào đã
giúp giải quyết những khó khăn về tình trạng khan hiếm vốn, kỹ thuật công nghệ, kỹ
năng quản lý cũng như tay nghề công nhân. Các chi nhánh của TNCs nước ngoài
thường tổ chức sản xuất có hiệu quả hơn các công ty địa phương do họ có kỹ năng
quản lý tốt hơn, có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý các xí nghiệp sản xuất lớn,
nhờ đó các nhà quản lý này có thể tiếp cận thông tin và kỹ năng quản lý tiên tiến của
công ty mẹ. Những kiến thức về phương pháp quản lý hiện đại được phổ biến thông
qua đào tạo nhân sự người địa phương trong quá trình TNCs nhánh hoạt động ở NIEs
châu Á. Ngoài ra, TNCs nước ngoài còn tạo việc làm cho người dân địa phương, giúp
NIEs châu Á tiếp cận thị trường các nước phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của TNCs với mình mà các nước NIEs châu Á đã
có chính sách khuyến khích, ưu đãi với sự tham gia của TNCs nước ngoài vào chương
trình phát triển kinh tế quốc gia. Do vậy mà FDI của TNCs nước ngoài vào các nước
NIEs tăng liên tục. Ví dụ như Malaysia tốc độ tăng trưởng FDI bình quân trong giai
đoạn 1971 - 1996 của Malaysia đạt là 27,25%/năm và trong giai đoạn 1997 đến nay,
tốc độ tăng vốn FDI đạt khoảng 31,52%/năm. Đây là tốc độ tăng trưởng được xếp
vào mức cao so khu vực và thế giới. Sang giai đoạn 1997 - 2009, các chính sách ưu
đãi, khuyến khích đối với đầu tư nước ngoài được triển khai mạnh. Do đó, thời kỳ này,

thu hút vốn FDI tại Malaysia đạt 72,6 tỷ USD vốn FDI, cao gấp hơn 2 lần giai đoạn
23


1986 - 1996. Năm 2010, tổng vốn FDI Malaysia thu hút được là 29,3 tỷ ringgit (9,8
tỷUSD). Trong khi đó, năm 2009 chỉ đạt 5 tỷ ringgit (1,7 tỷ SD). Riêng sáu tháng đầu
năm 2011, Malaysia đã hút được 21,3 tỷ ringgit (7,1 tỷUSD) vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), so với 12,1 tỷ ringgit (4,1 tỷ USD) cùng kỳ năm 2010. Nguồn FDI đổ
vào Malaysia trong nửa đầu năm 2011 tăng cao đã phản ánh lòng tin của các nhà đầu
tư sau những sáng kiến của Chính phủMalaysia nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Việc công bố Chương trình cải cách

chính phủ cũng như Chương trình chuyển

đổi kinh tế đã giúp cải thiện môi trường kinh doanh tại Malaysia.
Năm 2012, đầu tư của Malaysia là 167,9 tỷ RM (khoảng 51,2 tỷ USD), từng được
coi là năm thu hút vốn đầu tư cao nhất. Năm 2013 quốc gia Đông Nam Á này đã lập
kỷ lục mới về thu hút vốn đầu tư với tổng mức đầu tư đã được phê duyệt trong năm là
216,5 tỷ ringgít - RM (tương đương 66 tỷ USD), tăng 48,6 tỷ RM so với năm 2012.
Bên cạnh đó, chính phủ các nước NIEs đã đề ra và thực hiện có hiệu quả hệ thống
các chính sách như: Xây dựng các xí nghiệp liên doanh với TNCs nước ngoài, xây
dựng các nhà thầu phụ cho TNCs nước ngoài. Nhờ đó số lượng TNCs nước ngoài vào
NIEs châu Á ngày càng lớn. Ở Hàn Quốc số công ty có đầu tư của nước ngoài tại Hàn
Quốc trong năm 2014 đã lên tới 8.095, tăng 0,5% so với con số 8.056 của năm trước
đó. Trong khi đó, số công ty nước ngoài có chi nhánh hay công ty con tại đây cũng
tăng 2,8% từ 1.722 lên thành 1.770, còn số văn phòng liên lạc của các hãng nước
ngoài có thể mở rộng sự hiện diện trong thời gian tới cũng tăng 7,3% từ 1.489 lên
thành 1.598.
Thông qua hình thức liên doanh, liên kết mà TNCs của NIEs châu Á học hỏi, tiếp
thu kinh nghiệm để tự mình có thể nâng cao năng lực trong hoạt động như: trong

ngành tơ sợi của Hàn Quốc đã liên doanh với xí nghiệp của Nhật để học tập cách thức
làm sợi của Nhật Bản; điển hình thành công là Kolon, một xí nghiệp liên doanh quan
trọng trong ngành tơ sợi tổng hợp Hàn Quốc. Chính thông qua các hình thức liên
doanh mà cán bộ kỹ thuật của Hàn Quốc đã được tôi luyện, đào tạo dần trưởng thành
và thay thế cán bộ kỹ thuật nước ngoài điều hành xí nghiệp.
Còn đối với việc xây dựng các nhà thầu phụ cho TNCs nước ngoài thì điển hình là
Singapore. Ban đầu các công ty địa phương nhận làm đại lý tiêu thụ hàn hóa, liên
doanh liên kết với TNCs để lắp ráp các sản phẩm, dần dần họ trở thành các nhà thầu
phụ, sản xuất các linh kiện, phụ tùng và cuối cùng họ đã trở thành công ty con của
24


TNCs. Nhờ đó họ đã sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng
thế giới như: Sony, IBM, Microsoft, Toyota, Ford....
Ngoài ra, Chính phủ NIEs châu Á còn thực hiện có hiệu quả hệ thống các chính
sách như thuế, tỷ giá hối đoái, tỷ suất lợi nhuận- tiền lương- lao động, nâng cấp cơ sở
hạ tầng, thành lập các tổ chức hố trợ đầu tư nhờ đó tạo ra sự hấp dẫn hơn đối với TNCs
nước ngoài.
 Về chính sách thuế:
-

Miễn hoặc giảm thuế thu nhập, thuế công ty, thuế tài sản cho những nhà đầu tư nước
ngoài, nếu họ tham gia vào những dự án đáp ứng một trong những yêu cầu có khả
năng cải thiện cán cân thanh toán, đòi hỏi kỹ thuật cao, khối lượng vốn lớn và là cơ
bản đối với nền kinh tế quốc dân. Ví dụ Trung quốc ban hành nhiều loại thuế riêng cho
các hình thức đầu tư: hợp tác, liên doanh, 100% vốn nước ngoài và cho 14 thành phố
ven biển. Liên doanh đóng thuế lợi tức 30% và 10% thêm cho địa phương. Với doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài thì thuế lợi tức từ 20 đến 40% và 10% cho địa phương.
Về thuế nhập khẩu, Trung quốc thực hiện miễn thuế nhập khẩu đối với các mặt
hàng như: máy móc, thiết bị, bộ phận rời, vật liệu được đưa vào góp vốn liên doanh

hoặc các máy móc, thiết bị, vật liệu cho bên nước ngoài đưa vào khai thác dầu khí, đưa
vào xây dựng phát triển năng lượng, đường sắt, đường bộ, đưa vào khu chế xuất 14
thành phố ven biển; các vật liệu bộ phận rời nhập để sản xuất hàng xuất khẩu. Trung
quốc cũng miến thuế xuất khẩu cho các mặt hàng xuất khẩu được sản xuất ở các khu
chế xuất và 14 thành phố ven biển.

 Chính sách lợi nhuận:
Chính phủ NIEs châu Á đã tạo điều kiện để TNCs chuyển lợi nhuận về nước ở
mọi thời điểm. Ví dụ, Hồng Kông có hệ thống cơ chế và chính sách tự do, hai chính
sách quan trọng nhất là: chính sách cảng tự do toàn diện gồm: tự do xuất khẩu hàng
hóa, tự do tiền tệ, tự do kinh doanh , tự do ra vào, mức thuế thấp và bảng thuế đơn
gianr. Chính sách không can thiệp tích cực gồm: Chính phủ đảm bảo môi trường kinh
doanh tự do, đảm bảo công bằng bình đẳng, không phân biệt đối xử, tự do thuê mướn
công nhân, tự do cạnh tranh hoàn hảo, tự do sử dụng tài chính định giá, chính phủ
không can thiệp vào hoạt động kinh tế vi mô của doanh nghiệp, chỉ can thiệp khi đời
25


×