Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dệt may vào thị trường Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.16 KB, 26 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Bước sang giai đoạn mới - giai đoạn hội nhập và phát triển, nền kinh tế
đất nước ta đã và đang có sự chuyển đổi lớn - mang diện mạo của một cơ chế
mở, tự do cạnh tranh. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ
động trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, nâng cao năng lực cạnh
tranh ở phạm vi ngành, phạm vi quốc gia và trên trường quốc tế. Cạnh tranh là
xu thế tất yếu của nền kinh tế hội nhập, là cơ chế tự đào thải và là động lực cho
sự phát triển của lĩnh vực kinh tế nói riêng. Hơn bao giờ hết, nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành được quan tâm và chú trọng từ nhà nước cũng như các
doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam gia nhập thị trường Mỹ là một trong
những ngành như vậy giàu tiềm năng, và rất có ưu thế của đất nước ta. Tuy
nhiên so với nhiều quốc gia trong khu vực, năng lực cạnh tranh của ngành còn
chưa cao, cần có giải pháp phát triển, cải thiện theo phương hướng hiệu quả
nhất, đó cũng là lý do tơi chọn đề tài:
" Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dệt may Việt Nam vào thị trường
Mỹ". Kết cấu của đề tài gồm 3 phần:
- Phần lý luận
I. Khái niệm cạnh tranh
II. Những nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh ngành
- Phần nội dung
I. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam - những thuận lợi và khó
khăn khi sản xuất vào thị trường Mỹ.
II. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dệt may vào thị
trường Mỹ.
- Phần kết luận.

1


PHẦN LÝ LUẬN
I. Khái niệm cạnh tranh


Khi nói đến cạnh tranh, có rất nhiều quan niệm khác nhau và theo xu thế
phát triển, quan niệm đó cũng được nhìn nhận từ nhiều góc độ, mới mẻ hơn rất
nhiều.
1. Nhìn nhận cạnh tranh theo quan điểm kinh tế học
Cạnh tranh theo định nghĩa của kinh tế học là sự tranh giành thị trường để
tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp và yếu tố đó chỉ tồn tại trong nền kinh
tế thị trường. Người ta chia cạnh tranh theo hai dạng: cạnh tranh hồn hảo và
cạnh tranh khơng hồn hảo.
* Cạnh tranh hồn hảo là mơi trường cạnh tranh mà ở đó có nhiều người
mua và người bán độc lập với nhau. Thị trường cạnh tranh hồn hảo địi hỏi có
nhiều người mua và nhiều người bán mà mỗi người trong số họ hành động độc
lập với tất cả với những người khác. Tất cả các đơn vị hàng hoá trao đổi được
coi là giống nhau, tất cả người mua và người bán đều có hiểu đầy đủ về các
thơng tin liên quan đến việc trao đổi và khơng có gì cảm trở đối với việc gia
nhập cũng như rút khỏi thị trường.
* Cạnh tranh khơng hồn hảo: biểu hiện dưới dạng cạnh tranh độc quyền
và độc quyền toàn tập đoàn. Đối với cạnh tranh độc quyền: các doanh nghiệp
cạnh tranh với nhau bằng việc bán sản phẩm phân biệt, các sản phẩm này có thể
thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng khơng phải là thay thế hồn hảo. Doanh
nghiệp mới gia nhập thị trường tương đối rễ ràng và các doanh nghiệp ở trong
ngành dời bỏ cũng tương đối dễ nếu các sản phẩm của họ trở nên khơng có lãi.
Đối với độc quyền tồn tập đồn: thị trường này chỉ có một số doanh nghiệp
sản xuất tồn bộ hay hầu hết tổng sản lượng, sản phẩm có thể giống nhau hoặc
khác nhau, hàng rào gia nhập lớn làm cho các doanh nghiệp mới khơng thể hoặc
khó mà gia nhập được vào thị trường.
2


Cạnh tranh là hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường và để đạt
được mục tiêu lợi nhuận, những người tham gia thị trường phải thông qua sự

cạnh tranh lẫn nhau nên từ lâu, vấn đề cạnh tranh đã là một trong những nội
dung quan trọng của các môn khoa học về kinh tế và là một đối tượng điều
chỉnh của luật pháp theo quy luật chung cạnh tranh ln có xu hướng dẫn đến
độc quyền do sự tác động của quy luật hiệu quả kinh tế theo quy mô hoặc độc
quyền là trạng thái đem lại cho cá nhân các nhà cung cấp lợi nhuận siêu ngạch.
Cũng bởi lý do đó mà trên bình diện xã hội, cuộc cạnh tranh quyết liệt để giành
lấy vị thế độc quyền, bất chấp mọi thủ đoạn - một khía cạnh khơng hồn hảo, bị
lên án về mặt đạo đức.
2. Nhìn nhận cạnh tranh dựa trên mơ hình năm lực lượng của
Michael Porter.
Theo phương pháp" năm lực lượng", cấu trúc cạnh tranh trong một ngành
có thể được mơ tả bằng "năm lực lượng chính".
2.1. Khách hàng
Đối với mỗi một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thì sự tín
nhiệm của khách hàng có thể được coi là một trong những tài sản vơ giá của
doanh nghiệp. Sự tín nhiệm đó có được là do doanh nghiệp đã cung cấp những
sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Khi khách hàng
có ưu thế có thể làm giảm lợi nhuận của ngành bằng cách ép giá, bằng cách đòi
hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn hoặc bằng cách địi hỏi có nhiều dịch vụ đi
kèm hơn khi tiêu thụ sản phẩm. Khách hàng sẽ có ưu thế. Đối với doanh nghiệp
khi mà khách hàng mua một lượng hàng lớn của doanh nghiệp, khi mà việc
chuyển sang người bán khác khơng có gì khó khăn cả, khi có sự thay đổi chất
lượng sản phẩm của doanh nghiệp khơng có ảnh hưởng gì tới khách hàng. Trong
trường hợp nhà cung cấp giữ vị trí độc quyền thì khách hàng lệ thuộc hồn tồn
vào nhà cung cấp. Chính vì vậy trong nền kinh tế thị trường, chúng ta cần có
luật chống độc quyền.

3



2.2. Các đối thủ cạnh tranh theo ngành
Mức độ căng thẳng của sự cạnh tranh giữa các đối thủ không phải là một
biến số dễ dàng đo được. Trong một số ngành cạnh tranh có thể gọi là " bóp
nghẹt", trong khi đó ở một số ngành khác mối quan hệ giữa các doanh nghiệp lại
được coi là "lịch sử" hay " có trật tự", các yếu tố xác định mức độ cạnh tranh
giành: Tăng trưởng của ngành, chi phí cố định hoặc chi phí lưu kho, sự vượt
cơng suất không liên tục, những khác biệt về sản phẩm, sự xác định của nhãn
hàng và chi phí chuyển của khách hàng, số các doanh nghiệp và quy mô tương
đối của chúng, sự đa dạng của các đối thủ cạnh tranh, lợi ích của Cơng ty, hàng
rào rút khơi cao. Trong thực tế các nhà đầu tư đặc biệt khơng thích các cuộc
chiến cạnh tranh thơng qua giá cả vì nó sẽ làm giảm lợi nhuận cho cả ngành.
2.3. Các nhà cung cấp
Những nhà cung cấp vật tư thiết bị nguyên vật liệu cho doanh nghiệp có
thể làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp bằng việc tăng giá, giảm chất lượng
vật tư cung cấp hoặc giảm các dịch vụ đi kèm sẽ có thể gây áp lực đối với doanh
nghiệp khi số lượng các nhà cung cấp ít, khơng có loại thay thế khi chi phí cho
việc chuyển sang các nhà cung cấp khác rất tốn kém.
2.4. Các doanh nghiệp sẽ tham gia thị trường ( đối thủ tiềm ẩn).
Các đối thủ tiềm ẩn thường xuất hiện ở những khu vực mới hình thành bởi
vì ở những khu vực này lượng cầu thường lớn, lợi nhuận cịn cao thì khách hàng
chưa kịp làm quen với những sản phẩm có uy tín. Mối đe doạ suất hiện các đối
thủ tiềm ẩn này phụ thuộc vào 3 nhân tố: độ hẫp dẫn của khu vực, độ lớn của các
các rào chắn vào khu vực, phản ứng từ phía các nhà sản xuất trong khu vực đối
với những đối thủ mới.
Quy mô rào cản ở các khu vực bao gồm quy mô sản xuất trong khu vực và
quy mô sản xuất của một doanh nghiệp ảnh hưởng đến gia thành một sản phẩm,
quy mô càng lớn thì giá thành càng thấp. Chính vì vậy một doanh nghiệp mới
nhẩy vào một khu vực thì quy mô doanh nghiệp mới cần vượt qua ngưỡng: giá
4



thành sản phẩm thấp hơn giá mà thị trường chấp nhận. Doanh nghiệp mới tham
gia khu vực phải có quy mô bằng hoặc lớn hơn quy mô của các doanh nghiệp
đang hoạt động trong khu vực.
Nhân tố quyết định quy mơ rào cản đầu vào cũng chính là khả năng liên
kết của doanh nghiệp đối với hệ thống kênh tiêu thụ. Một doanh nghiệp mới
tham gia khu vực để cho hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm cho mình phải dùng
biện pháp giảm giá hoặc là ưu đãi khác. Quyết định quy mô rào cản đầu vào bao
gồm cả hệ thống chính sách: thủ tục cấp giấy phép, thủ tục đăng ký chất lượng
sản phẩm nhãn mác và đó là một rào cản: chính sách thuế xuất nhập khẩu.
2.5. Các sản phẩm thay thế
Nếu các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm của ngành là sẵn có thì
khách hàng có thể chuyển sang các sản phẩm thay thế đó nếu các doanh nghiệp
đang tồn tại đặt giá cao. Vì thế mối đe doạ của các sản phẩm thay thế là một lực
lượng thị trường quan trọng tạo ra giới hạn đối với các mức giá mà các doanh
nghiệp đã đặt ra. Tầm quan trọng của mối đe doạ này phụ thuộc vào 3 yếu tố:
Giá và công dụng của các sản phẩm thay thế, chi phí chuyển đổi với khách hàng,
khuynh hướng thay thế của người mua, khả năng sản phẩm thay thế tăng lên
cùng sự già cõi, sự lạc hậu của sản phẩm trong khu vực (khu vực đang trong giai
đoạn suy thối) bên cạnh đó do tiến bộ của khoa học công nghệ, suất hiện sản
phẩm mới đáp ứng tốt hơn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.
3. Thực tế cạnh tranh và tính hai mặt của cạnh tranh
3.1. Thực tế cạnh tranh
Môi trường thường xuyên biến động của thực tiễn hoạt động sản xuất kinh
doanh đã cho thấy khơng có một mơi trường nào ở trạng thái cạnh tranh hoàn
hảo hoặc hoàn toàn độc quyền, nó chỉ có ý nghĩa tương đối vì năng lực thực tế,
điều kiện chủ quan và kể cả " cơ may" của các doanh nghiệp không thể đồng
nhất. Mọi nền kinh tế thị trường đều có trạng thái cạnh tranh khơng hồn hảo, ở
đâu đó giữa hai cực này. Cả hai loại lực lượng độc quyền và cạnh tranh kết hợp
với nhau trong việc xác định phần lớn giá cả.Vì thế càng khẳng định rõ hơn: Xác

5


định một nền kinh tế là có tính cạnh tranh hay độc quyền trở nên có ý nghĩa
tương đối. Tuy nhiên cũng khơng phải là vì tính tương đối và sự phức tạp của
vấn đề mà không thể phân biệt rạch rịi giữa tình trạng độc quyền và tính cạnh
tranh về nguyên tắc, người ta có thể coi một nền kinh tế có nhiều yếu tố cản trở
sự cạnh tranh là một nền kinh tế thiếu tính cạnh tranh và ngược lại.
Cạnh tranh là hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, do đó cạnh tranh
chỉ xuất hiện dưới những tiền đề kinh tế và pháp lý cụ thể. Ngày nay, nền kinh tế
thị trường được khẳng định là một sự phát triển tất yếu là động lực phát triển nội
tại của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh cũng chỉ thực sự diễn ra khi pháp luật
thừa nhận và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khi tự do thương mại
và theo đó là tự do kinh doanh. Cạnh tranh cũng chỉ diễn ra khi khơng có bất kỳ
một quy định hay hành vi nào ngăn cản sự nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm
năng - những doanh nghiệp chuẩn bị gia nhập thị trường.
Điều đó có nghĩa là cạnh tranh chỉ xuất hiện được khi khơng có độc quyền
dưới bất cứ hình thức nào. Ngày nay nhu cầu nâng cao hơn nữa hiệu quả và sức
cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của nền kinh tế đang đòi hỏi phải
tạo ra những cơ sở pháp lý cho tự do kinh tế. Có thể có nhiều định nghĩa khác
nhau về cạnh tranh, song nhìn chung, cạnh tranh được hiểu là sự chậy đua hay
ganh đua của các thành viên của một thị trường hàng hố, sản phẩm cụ thể nhằm
mục đích lơi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng, thị trường và thị
phần của một thị trường. Như vậy về phương diện kinh tế, cạnh tranh được hình
thành trên cơ sở của tiền đề là: có sự hiện diện của các thành viên thương trường
có cuộc chạy đua vì mục tiêu kinh tế giữa các thành viên và chúng đều diễn ra
trên một thị trường hàng hoá cụ thể. Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp
của cơng quyền và đời sống kinh tế, người ta phân thị trường thành hai hình
thái: cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết. Cạnh tranh tự do là hiện
tượng khơng thể có trong thế giới hiện đại vì kinh tế thị trường hiện đại ln có

nhu cầu được điều tiết và nhà nước nào cũng có chính sách kinh tế riêng và vì
thế ln tìm cách hướng các hoạt động kinh tế vào mục tiêu kinh tế (vĩ mô) của
6


mình. Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh người ta
phân nhóm các hành vi cạnh tranh trên các hình thái thị trường gồm hai loại:
cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, vì được bảo
hộ bởi các nguyên tắc về quyền tự do kinh doanh, tự do thế ước và tự do lập hội
và sự giục dã của lợi nhuân nên thực trạng của thương trường luôn diễn ra theo
hướng khơng lành mạnh.
3.2. Tính hai mặt của cạnh tranh
Cạnh tranh ln biểu hiện ở hai mặt: mặt tích cực và tiêu cực
* Cạnh tranh có xu hướng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, điều
chỉnh các nguồn lực phát triển của đất nước. Thông qua quy luật cung cầu, cạnh
tranh có khả năng nhanh nhạy trong việc phát hiện và đáp ứng mọi nhu cầu và
thị hiếu của người tiêu dùng. Vì cạnh tranh ln có mục tiêu lâu dài là thu hút về
mình ngày càng nhiều khách hàng nên nó buộc các nhà sản xuất cơng nghiệp và
dịch vụ phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao với giá thành
ngày càng hạ. Vì vậy, cạnh tranh là cơ hội bắt buộc các doanh nghiệp phải áp
dụng công nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật, cạnh tranh là nguồn gốc động
lực để phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ cao. Các doanh nghiệp phải
thường xuyên cải tiến công cụ lao động, hợp lý hố sản xuất, nhanh chóng ứng
dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào quản lý hiện đại vào trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Mặt khác vì cạnh tranh ln có mục tiêu lâu dài là
thu hút về mình ngày càng nhiều khách hàng nền nó buộc các doanh nghiệp phải
sản xuất sản phẩm chất lượng giá thành hạ. Trong kinh doanh để cạnh tranh về
giá, một số doanh nghiệp chấp nhận lời ít, bán giá thấp nhưng dùng số nhiều để
thu lại. Phương thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, tính độc đáo của sản phẩm giữ lịng tin với khách hàng giúp cho q

trình bn bán diễn ra nhanh chóng, tiện lợi. Trong cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp ngồi quốc doanh thì doanh nghiệp ngoài
quốc doanh thường linh hoạt hơn so với doanh nghiệp nhà nước.

7


* Trong điều kiện của cơ chế thị trường khi mức độ cạnh tranh đã trở nên
gay gắt thì các doanh nghiệp vì sự tồn tại của mình ln phải tốn tính để vượt
lên trên các đối thủ của mình vì cạnh tranh là một quy luật trong nền kinh tế thị
trường mà ở đó các chủ thể kinh tế tìm mọi biện pháp - cả nghệ thuật lẫn thủ
đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình. Với nghĩa đó, cạnh tranh bao hàm cả
những thủ đoạn trong hoạt động kinh doanh như dùng tài chính để thao túng đối
với doanh nghiệp có tiềm năng tài chính lớn: bằng cách bán phá giá loại đối
phương ra khỏi cuộc chơi. Mặt khác dù doanh nghiệp còn dùng thủ đoạn: sử
dụng sự liên kết để thao túng thị trường, khống chế thị trường, thu lợi nhuận độc
quyền cao như liên kết về giá nhằm bóp chẹt người tiêu dùng, liên kết về vùng
tiêu thụ, cùng nhau phân chia thị trường, cùng nhau giảm chất lượng hàng hố,
khơng cung cấp hàng hố cho một số tổ chức thương mại nào đó nhằm gây áp
lực về giá bán. Ngoài ra hiện tượng mắc ngoặc với quan chức nhà nước để lũng
đoạn thị trường, tìm kiếm những cơ hội đầu tư tạo những điều kiện "đặc biệt"
thuận lợi trong sản xuất kinh doanh thông qua mua chuộc, hối lộ các quan chức
nhà nước, lợi dụng kẽ hở luật pháp đã được nhiều doanh nghiệp tiến hành. Một
số thủ đoạn nữa đó là sử dụng các thủ đoạn phi kinh tế khác: đưa thông tin sai
lệch về sản phẩm làm giả sản phẩm, sử dụng gián điệp kinh tế để ăn cắp một
công nghệ, chiến lược đầu tư phát triển của đối phương, dùng bạo lực để loại
trừ đối thủ cạnh tranh dẫn đến hiện tượng " cá lớn nuốt cá bé".
II. Những nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh ngành
1. Tác động của môi trường quốc tế:
Mơi trường quốc tế có ảnh hưởng rất lớn đến cạnh tranh của ngành. Ngày

nay xu thế khu vực hoá và quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là xu hướng có tính
khách quan. Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng mở cửa
và hội nhập. Nền kinh tế quốc dân nước ta trở thành một phân hệ mở cửa của hệ
thống lớn là khu vực và thế giới. Hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp
phụ thuộc vào sự thay đổi chính trị trên thị trường quốc tế, các quy định pháp
luật của các quốc gia, luật pháp và các thông lệ quốc tế, ảnh hưởng của các yếu
8


tố kinh tế quốc tế. Mức độ thịnh vượng, khủng hoảng, những thay đổi trong
quan hệ buôn bán quốc tế, các yếu tố kỹ thuật cơng nghệ văn hố xã hội...tất cả
đều ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, có thể
tạo cơ hội cũng như thách thức đối với sự tồn tại phát triển của ngành.

2. Tác động của môi trường kinh tế quốc dân
Môi trường kinh tế quốc dân bao gồm mọi nhân tố của nền kinh tế quốc
dân nằm ngồi mơi trường cạnh tranh nội bộ ngành tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế có vai trị
quan trọng hàng đầu và ảnh hưởng có tính quyết định đến hoạt động kinh doanh
của mọi doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng mạnh nhất đến hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp thường là trạng thái phát triển của nền kinh tế.
Tăng trưởng, ổn định hay sinh thái. Việc tạo ra môi trường kinh doanh lành
mạnh hay không lành mạnh hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố luật pháp và quản lý
nhà nước về kinh tế. Việc ban hành hệ thống luật pháp có chất lượng và đưa vào
đời sống là điều kiện đầu tiên đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, tạo
điều kiện cho mọi doanh nghiệp có cơ hội cạnh tranh lành mạnh cùng với hệ
thống luật pháp, quản lý nhà nước về kinh tế là nhân tố tác động rất lớn đến
hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Các chính sách đầu tư, chính sách
phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu... sẽ tạo ra sự ưu tiên hay kìm hãm sự phát
triển của từng ngành, tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của

doanh nghiệp thuộc ngành kinh tế nhất định. Trình độ kỹ thuật cơng nghệ, nhân
tố văn hố xã hội, nhân tố tự nhiên ảnh hưởng rất lớn, đòi hỏi phải nghiên cứu,
ứng dụng phù hợp nhất.
3. Tác động của môi trường bên trong doanh nghiệp
* Thứ nhất phải đề cập đến chất lượng của hoạt động Marketing nhằm xác
định cầu của khách hàng, thị hiếu của khách hàng để trên cơ sở đó hoạch định
các chính sách về sản phẩm, giá cả, các chính sách phân phối cũng như các
9


chính sách kích thích tiêu thụ. Chất lượng hoạt động Marketing của doanh
nghiệp càng cao, phạm vi càng rộng thì càng góp phần giúp cho doanh nghiệp
có lợi thế hơn trong cạnh tranh.
* Thứ hai đó là khả năng sản xuất nghiên cứu và phát triển khả năng này
thể hiện ở việc doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao hơn,
giá thành thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Khả năng nghiên cứu và phát
triển của doanh nghiệp có vai trị rất quan trọng, nó có thể giúp cho doanh
nghiệp vẫn giữ được vị trí hàng đầu trong khu vực cạnh tranh hoặc có thể làm
cho doanh nghiệp tụt hậu trong khu vực.
* Thứ ba đó là nguồn nhân lực: là năng lực trình độ cán bộ quản lý, trình
độ tay nghề đạo đức của người lao động, giá trị của các mối quan hệ lao động
trong doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
* Thứ tư là tình hình tài chính: điều kiện tài chính thường được xem là
phương pháp đánh giá vị trí cạnh tranh tốt nhất của doanh nghiệp so với các đối
thủ và điều kiện tài chính của doanh nghiệp thường được đánh giá thông qua các
chỉ tiêu như khả năng thanh toán của doanh nghiệp, cán nợ, vốn luân chuyển,
lượng tiền mặt, tỷ suất lợi nhuận...
* Thứ năm là cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp : quản trị doanh nghiệp tác
động mạnh mẽ đến hoạt động lao động sáng tạo của đội ngũ lao động, đến sự
đảm bảo cân bằng giữa doanh nghiệp với mơi trường bên ngồi cũng như cân

đối có hiệu quả các bộ phận bên trong doanh nghiệp, quan hệ nhân quả giữa hai
hoạt động này ảnh hưởng đến hiệu quả cơ cấu tổ chức thông qua các chỉ tiêu tốc
độ giao thiết bị, tính kịp thời, độ chính xác của các quyết định.

10


PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam - những thuận lợi và khó
khăn khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ
1. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam
Trong điều kiện mở cửa, hội nhập của nước ta hiện nay, là thành viên của
ASEAN, APEC và đã ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ, sẽ trở thành thành
viên chính thức của WTO trong tương lai, ngành dệt may Việt Nam đón nhận
nhiều cơ hội, tính đến năm 2000 năng lực sản xuất của toàn ngành là 162000 tấn
sợi, 800 triệu mét vải, 39 triệu sản phẩm dệt kim, 400 triệu sản phẩm may và các
loại hàng dệt, may khác. Giá trị hàng dệt, may xuất khẩu năm 1999 đạt 1747 tỷ
USD. Sự khởi sắc này bắt đầu tư năm 1993; từ vị trí cuối của những mặt hàng
xuất khẩu năm 1990 thì đến năm 1996, 1997 vươn lên vị trí số 1 trong danh sách
các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam và năm 1998 đã lùi xuống vị trí thứ hai
nhường cho mặt hàng dầu thơ. Xuất khẩu dệt may có ý nghĩa quan trọng như
giải quyết việc làm, phù hợp với đặc điểm phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay,
vì vậy dệt may Việt Nam là mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Việt Nam.
Hiện nay, mặt hàng dệt may chiếm tỷ trọng từ 20 - 25% trong cơ cấu các
mặt hàng xuất khẩu nói chung. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt hơn
2 tỷ USD. Nhiều doanh nghiệp dệt may của Việt Nam đã xây dựng được thương
hiệu trong nước, uy tín ở nước ngồi như cơng ty may Nhà Bè, Công ty may
Thắng Lợi, Công ty Dệt Kim Hà Nội, Công ty May Mười. Các sản phẩm nổi
tiếng này đã được tiêu dùng ở Châu Âu, Châu Á, Châu Úc,... đạt được những kết
quả này là cả sự thay đổi, đầu tư mạnh dạn của nhiều doanh nghiệp cũng như sự

điều tiết của nhà nước. Nhưng xét trên bình diện chung ngành may mặc có sự
khởi sắc hơn ngành dệt và cũng nhiều doanh nghiệp đã không thể đứng vững
được trên thương trường. Có thể thấy thực trạng đó qua thực tiễn sau:

11


Trước hết phải kể đến ngành dệt của nước ta trong những năm của thập kỷ
90, ngành dệt hay dệt may có tốc độ phát triển khơng ổn định, tốc độ tăng
trưởng đạt 13% năm 1994, 12% năm 1995 và lại tăng lên 14% vào năm 1997.
Tốc độ phát triển khơng đều nói trên một phần là do sự yếu kém của ngành dệt
trong việc chiếm lĩnh thị trường trong nước của các sản phẩm dệt Việt Nam so
với sản phẩm dệt Ngoại, phần khác là do thiếu nguồn vốn nhập trang thiết bị và
nguyên liệu vào năm 1995 - 1996. Tỷ trọng giá trị tổng sản phẩm hàng dệt trong
GDP có xu hướng giảm dần, chiếm gần 4% GDP năm 1993 xuống còn gần 2%
GDP năm 1998. Và ngay trong ngành dệt may cũng phản ánh xu hướng này,
mặc dù dệt vẫn chiếm tỷ trọng cao trong ngành dệt - may nhưng tỷ trọng của
ngành dệt đã giảm đi rất nhiều, từ gần 80% năm 1993 xuống còn hơn 6% năm
1998
Thực trạng công nghệ, trang thiết bị của ngành dệt rất khác nhau tuỳ thuộc
vào lĩnh vực khác nhau của ngành như kéo sợi, dệt thoi, dệt kim, nhuộm, in và
hồn tất. Mặc dù ngành đã có nỗ lực đầu tư đổi mới trang thiết bị, xong nhìn
chung tồn ngành, cơng nghệ, trang thiết bị vẫn ở trong tình trạng lạc hậu so với
các nước trong khu vực.
- Đối với lĩnh vực dệt kim: Công nghệ dệt kim của ngành khá hiện đại so
với các công nghệ khác. Phần lớn các máy dệt kim nhập của Trung Quốc, Tiệp
và Đông Đức từ trước năm 1986 đều đã thanh lý và chuyển nhượng cho địa
phương. Hiện nay các doanh nghiệp dệt lớn của Nhà nước đều sử dụng máy dệt
kim nhập của các nước như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Đức từ sau năm 1996;
30% số máy này thuộc thế hệ mới, một số máy đã được vi tính hố. Vi chất

lượng sợi bơng kém nên hầu hết các doanh nghiệp chọn phương án sản xuất sử
dụng sợi Pc/Co để sản xuất những sản phẩm đơn giản như vải màn, vải valies,
chưa quan tâm đến sản xuất các loại vải cao cấp như vải trang trí, vải thảm, vải
dùng trong xây dựng.
- Đối với lĩnh vực nhuộm, in và hoàn tất: Tất cả các thiết bị in, nhuộm và
hoàn tất là nhập từ nước ngoài. Hiện nay 35% thiết bị in và nhuộm trong ngành
12


nhập từ năm 1986 trở lại đây (khoảng 300 máy). Tất cả các thiết bị này đều
thuộc thế hệ A2, A3 và vẫn hoạt động tốt. Số còn lại nhập từ trước năm 1985,
thậm chí có những máy nhập từ những năm 60. Theo chủ trương của VINATEX
những máy này cần phải giải quyết dần. Năm 1997, công suất sử dụng máy
móc, thiết bị của ngành là 75%. Năm 1998, tình hình cịn xấu đi nhiều do tác
động của khủng hoảng tài chính khu vực.
Tình trạng cơng nghệ lạc hậu đã làm cho ngành dệt khơng có khả năng đáp
ứng yêu cầu về chất lượng của nguyên liệu đào vào cho ngành may, ngành may
phải phụ thụoc nhiều vào nhập khẩu, và như vậy đất nước mất đi nhiều cơ hội
cho sản xuất thay thế nhập khẩu trong các khâu sử dụng khá nhiều lao động của
ngành dệt. Vì ngành dệt năng lực sản xuất nhỏ không đáp ứng đủ cho nhu cầu
dệt may cả nước nên ngành may phải nhâpj vải từ nước ngoài. Vải sản xuất
trong nước tiêu thụ chậm, sức cạnh tranh kém cả về chất lượng, mẫu mã, giá cả
so với vải nhập ngoại nhất là vải nhập từ Trung Quốc. Ngành may mặc dù đã có
sự chuyển đổi như đầu tư cơng nghệ, thay đổi thiết bị dệt thoi, dệt kim, dây
chuyền nhuộm, xử lý vải khổ.... nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Sản phẩm may mặc kỹ thuật cao đáp ứng chưa nhiều, trình độ người lao động
cịn non nớt, yếu kém, hệ thống quản lý chất lượng ngành dệt may hiện nay đã
bắt đầu được chú trọng từ phía các doanh nghiệp.
Thị trường các sản phẩm trong nước có tính cạnh tranh cao đặc biệt đối với
đối thủ mạnh hơn trong khu vực. Là thành viên của ASEAN và đang trong quá

trình thực hiện AFTA, thị trường Việt Nam là sân chơi của các nước trong khu
vực. Do vậy chiếm lĩnh thị trường nội địa là một thách thức rất lớn đối với các
nhà sản xuất dệt Việt Nam. Theo thống kê của VINATEX, trong những năm vừa
qua tỷ trọng tiêu thụ nội địa trong tổng số hàng dệt sản xuất trong nước chỉ
chiếm khoảng 55%. Điều này chứng tỏ hàng dệt Việt Nam chưa đáp ứng được
nhu cầu trong nước cả về chất lượng và số lượng.
Thị trường xuất nhập khẩu là thị trường cạnh tranh quyết liệt hơn. Từ khi
Việt Nam thực hiện quá tình đổi mới, giá trị xuất khẩu hàng dệt may có tăng lên,
13


cũng như ngành may, ngành dệt đã chuyển từ thị trường Liên Xô cũ và Đông âu
sang thị trường phương Tây và Châu Á. Thị trường xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam bao gồm thị trường có quota và phi quota. Thị trường EU là thị trường xuất
khẩu có quota. Dệt may Việt Nam bắt đầu xâm nhập thị trường này từ năm 1993
khi hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết và có
hiệu lực. Canada và Nauy cũng là thị trường có quota nhưng giá trị xuất khẩu
sang thị trường này không đáng kể. Thị trường xuất khẩu phi quota được mở
rộng mạnh trong những năm gần đây. Nhật Bản là thị trường phi quota lớn nhất
về mặt hàng dệt. Hồng Kông, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc là những nước
nhập khẩu khá nhiều hàng dệt may của Việt Nam. Hiện nay Việt Nam vẫn tiếp
tục xuất khẩu hàng ệt may sang Nga và các nước Đơng âu nhưng chủ yếu dưới
hình thức đổi hàng và thanh toán nợ. Các nước như Trung Quốc, Indonexia,
Thái Lan đều có một ngành cơng nghiệp dệt may xuất khẩu khá lớn. Việt Nam
thực thi chính sách bảo hộ đối với một số mặt hàng dệt sản xuất được trong
nước trước sự cạnh tranh rất mạnh từ phía hàng ngoại. Hàng năm nhập khẩu các
mặt hàng dệt (kể cả nguyên liệu cho ngành dệt và sản phẩm dệt) chiếm 6-7%
tổng giá trị nhập khẩu của cả nước. Nhập khẩu hàng dệt cho mục đích tiêu dùng
chiếm phần lớn số hàng dệt nhập (4 - 5% tổng giá trị nhập khẩu của cả nước).
Trong những năm trở lại đây ngành dệt may đã chiếm lĩnh thị trường trong

nước, tăng cường xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng của ngành không cao và không
ổn định. Thực trạng này của ngành do nhiều yếu tố tác động, có những yếu tố là
khách quan, và cũng có những yếu tố chủ quan.
Tuy chế độ bao cấp đã xoá bỏ, nhưng Nhà nước vẫn thi hành những chính
sách cấp vốn và hỗ trợ đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước theo hướng tập
trung vào những dự án, cơng trình trọng điểm, đem lại hiệu quả kinh tế đối với
nền kinh tế. Bên cạnh đó nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, các doanh
nghiệp dệt còn được ưu tiên trong việc vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước,
kể cả nguồn vốn ODA. Mặc dù được hỗ trợ từ phía Nhà nước các doanh nghiệp
dệt, đặt biệt các doanh nghiệp tư nhân vẫn ln trong tình trạng thiếu vốn, nhất
14


là vốn đầu tư dài hạn. Có một số doanh nghiệp đã phải khắc phục tình trạng này
bằng cách dùng vốn lưu động để đầu tư đổi mới trang thiết bị nhưng họ lại phải
đứng trước một khó khăn là phải chịu lãi suất coa và thời gian trả nợ ngắn. Để
giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp phải tăng tỷ lệ khấu hao tính vào giá
thành. Lãi suất vay vốn đầu tư và tỷ lệ khấu hao cao làm cho giá của mặt hàng
dệt tăng, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành dệt. Phần lớn các khoản
đầu tư cho ngành dệt trong năm 1997 - 1998 là tính bằng động ngoại tệ. Kih
chính phủ Việt Nam thực hiện điều chỉnh tỷ giá vào tháng 8/1998 thì nhiều
doanh nghiệp đã bị thiệt hại nghiêm trọng. Mặt khác các doanh nghiệp dệt phụ
thuộc rất nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất. Tỷ giá
hối đối đồng Việt Nam so với đồng đơ la tăng làm cho nhập khẩu trở nên đắt
hơn. Điều này gây tổn hại đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Nguồn nguyên liệu chủ yếu của ngành dệt là bông. năng suất trồng bông
Việt Nam thấp. Người nông dân đã chuyển nhiều diện tích trồng bơng sang
trồng các loại cây khác mang lại lợi ích kinh tế cao hơn. Mặt khác giá bông Việt
Nam lại cao hơn giá bông nhập. Chất lượng bông nội địa lại xấu, không đủ tiêu
chuẩn đáp ứng sản xuất hàng xuất khẩu cũng như tỷ lệ tiêu hao sợi nội địa cao

hơn sợi nhập ngoại. Do vậy ngành dệt đã phải phụ thụoc rất nhiều vào nguyên
vật liệu nhập khẩu, vấn đề khó khăn ở đây là giá sợi bông nhập không ổn định.
Trong nhiều năm gần đây giá bông đã tăng lên khá nhiều so với những năm
trước. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành của các sản phẩm dệt, làm
giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt về chi phí sản xuất. Khả
năng cạnh tranh của ngành cịn khá khiêm tốn, ngành dệt mới chỉ đang ở giai
đoạn đầu của quá trình thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, phấn đấu vươn
lên xuất khẩu. Trong chiến lược phát triển các ngành thì ngành dệt may thuộc
nhóm ngành có tính cạnh cao và được ưu tiên hỗ trợ từ phía Nhà nước, Nhà
nước đã thi hành một số chính sách hỗ trợ chơ ngành. Nhưng thực tế ngành dệt
đang gặp rất nhiều khó khăn và có xu hướng giảm sút, nên một câu hỏi được đặt
ra ở đây là ngành dệt có khả năng phát triển thực sự hay không trong điều kiện
15


mơi trường chính sách phù hợp hơn. Câu trả lời là có, bởi vì so với may, ngành
dệt có sức cạnh tranh kém hơn, song dệt vẫn là ngành sử dụng khá nhiều lao
động so với nhiều ngành khác và sự yếu kém của ngành dệt có thể thay đổi
được.
Việt Nam với số dân khoảng 80 triệu người làm một thị trường đầy tiềm
năng cho tiêu thụ các loại hàng hố nói chung và hàng dệt may nói riêng. Trong
tương lai, khi đời sống của tầng lớp dân cư ngày càng được cải thiện thì nhu cầu
sử dụng hàng dệt may sẽ ngày càng tăng cao. Tuy vậy năm 1999, ngành mới đạt
314,7 triệu m2 vải lụa thành phẩm, tức là bình quân tiêu dùng mỗi người chỉ đạt
chưa đầy 5m2/năm. Một thực tế là mặc dù sản lượng vải do ta sản xuất cịn ít mới đạt bình qn 5m2/ngườiăm và 50% công suất thiết kế, song vải của ta bán
vẫn chậm, một số doanh nghiệp hàng tồn kho vẫn cao và kinh doanh thua lỗ.
Năm 1999 trong số 6 doanh nghiệp lỗ của Tổng Công ty dệt may Việt Nam thì
có 4 doanh nghiệp dệt chiếm 20% trong tổng số các doanh nghiệp dệt của Tổng
Công ty với tổng số lỗ là 10 tỷ đồng. Khả năng cạnh tranh kém của hàng dệt
may Việt Nam tại thị trường nội địa còn được thể hiện ở chỗ nếu so sánh với

một số hàng nhập khẩu, đặc biệt là Trung Quốc thì hàng của họ rẻ hơn và mẫu
mã phong phú hơn hàng của ta nhiều. Dệt may của ta một số khá lớn không bán
được ở thị trường thành phố vì lỗi mốt hoặc chất lượng khơng cao nhưng cũng
khơng tiêu thụ đựơc vì giá đắt, chi phí cho đơn vị sản phẩm của ta đều cao hơn
so với các nước trong khu vực. Năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam
nhìn chung bằng 2/3 so với mức bình quân của các nước ASEAN. Một điều dễ
nhận thấy là có sự chênh lệch lớn về kỹ năng của lao động giữa các doanh
nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngồi quốc doanh. Cơ cấu vốn khơng hợp
lý cùng với lãi suất ngân hàng cịn q lớn đã khơng khuyến khích sản xuất, làm
cho các chi phí gián tiếp tăng cao. Đã có rất nhiều doanh nghiệp do bí các nguồn
vốn trung và dài hạn đã phải dùng các nguồn vay ngắn hạn để đầu tư, ảnh hưởng
không nhỏ đến q trình sản xuất. Đây có thể coi là nguyên nhân cơ bản nhất

16


làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị
trường nội địa.
Ở các thị trường có hạn ngạch mà tiêu biểu nhất là thị trường EU. Đây là
thị trường được đánh giá là Việt Nam có nhiều lợi thế nhất trong số các thị
trường hạn ngạch. Mặc dầu ta đã thu được một số kết quả bước đầu khi thâm
nhập vào thị trường này do được hưởng một số ưuđãi như: Số lượng hạn ngạch
ngày càng tăng, mức chuyển đổi giữa các mặt hàng lớn, được phép sử dụng hạn
ngạch dư thừa của các nước ASEAN... nhưng thực ra những ưu đãi đó chưa làm
tăng nhiều khả năng cạnh tranh của Việt Nam so với các nước khác ở thị trường
này. Cụ thể số lượng hạn ngạch Việt Nam được hưởng còn rất thấp so với nhiều
nước: chỉ bằng 5% so với Trung Quốc; 10-20% của các nước ASEAN. Số mặt
hàng bị hạn chế bằng hạn ngạch lớn hơn so với các nước khác: của Việt Nam là
29 nhóm, trong khi đó của Thái Lan là 20 nhóm, Singapore là 8 nhóm. Ngồi ra
khả năng kém cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam cịn thể hiện: do mới xâm

nhập vồ thị trường nên ta ít có khách hàng trực tiếp. Mặc dầu có hạn ngạch
nhưng hầu hết doanh nghiệp Việt Nam phải xuất khẩu thông qua nước thứ 3 để
vào thị trường EU. Nhưng lô hàng này theo qui định của EU không được hưởng
các ưu đãi về thuế quan. Chính do hạn chế đó mà nhiều doanh nghiệp do khơng
ký được hợp đồng đã bỏ "khê" hạn ngạch, nhiều mã hàng bị bỏ trống vì khơng
có doanh nghiệp tham gia do u cầu về mặt kỹ thuật không đáp ứng được.
Ở thị trường Nhật Bản, hàng dệt may của Việt Nam tuy đang có tín nhiệm,
kim ngạch xuất khẩu vào Nhật Bản có xu hướng tăng nhanh trong những năm
vừa qua. Song gần đây, để hạn chế mức gia tăng này, các doanh nghiệp Nhật
bản cũng đang đề nghị chính phủ Nhật Bản áp dụng chế độ hạn ngạch đối với
hàng dệt may của Việt Nam. Nếu đề nghị này được chấp thuận thì đây lại là một
yếu tố làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trong tương
lai.
Ở thị trường SNG và Đông Âu: Đây được coi là thị trường truyền thống
trước kia của hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng. Thị
17


trường này được đánh giá là khá dễ tính, song những năm gần đây đã thay đổi
về thị hiếu, yêu cầu chất lượng. Ở thị trường này, Việt Nam chưa thiết lập được
những khách hàng lớn, song nhờ mạng lưới bán lẻ rộng khắp nên hàng dệt may
Việt Nam được tiêu thụ khá nhưng thời gian gần đây hàng Trung Quốc, Thổ Nhĩ
Kỳ đã chiếm thị phần do giá rẻ hơn và mẫu mã phong phú. Mặt khác, chi phí
vận chuyển sang các thị trường này khá lớn làm tăng chi phí sản xuất và giảm
khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam.
Một thực tế nữa là các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có q ít thơng tin
về thị trường, về các đối tác nước ngoài mà họ hợp tác sản xuất. Hiện nay mạng
lưới thương vụ của ta hầu như có mặt ở mọi nơi trên thế giới, song, những thông
tin về thị trường buôn bán hàng dệt may được họ quan tâm cung cấp về nước
quá ít, kể cả một số thị trường lớn và truyền thống của Việt Nam. Các doanh

nghiệp Việt Nam lại nghèo, khơng có đủ chi phí để thường xun tham gia các
hội chợ triển lãm, các cuộc xúc tiến mậu dịch ở nước ngồi, nên thơng tin quốc
tế càng bị hạn chế. Những thay đổi về mẫu mã, những khuynh hướng thời trang
mới, chúng ta hồn tồn khơng nắm được trước để chuẩn bị cho sản xuất.
2. Những thuận lợi và khó khăn đối với hàng dệt may Việt Nam khi
xuất khẩu vào thị trường Mỹ
2.1. Những thuận lợi
Thị trường Mỹ từ trước tới nay vẫn được thế giới công nhận là một thị
trường đầy tiềm năng bởi dân số đông, nhu cầu lớn, tốc độ phát triển nền kinh tế
cực kỳ mạnh mẽ, là quốc gia đứng đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là
kinh tế. Mặc dù có nhiều bang khác nhau, lụât pháp rất phức tạp nhưng lại rất
chặt chẽ. Người Mỹ vốn quý thời gian nên tốc độ làm việc của họ cao, thủ tục
đơn giản, phương thức giao dịch nhanh chóng, họ có tác phong công nghiệp
trong kinh doanh.
Ngày 9/12/2001, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã có hiệu lực: hai nước
Việt Nam - Hoa Kỳ sẽ giành cho nhau ưu đãi, quy chế tối huệ quốc và giành cho
nhau quy chế đối xử quốc gia. Điều đó tạo thuận lợi lớn, hàng dệt may Việt
18


Nam trước đây chịu mức thuế thông thường 48-90% đối với một số sản phẩm,
Việt Nam đã xuất sang Mỹ một lượng hàng may mặc trị giá 37 triệu USD vào
năm 1999. Với sự ưu đãi về thuế suất 3-4% thì hàng dệt may của Việt Nam sang
Mỹ sẽ tăng gấp nhiều lần. Khi có hiệp định này, Việt Nam sẽ thu hút các nhà
đầu tư của Mỹ cũng như của các nước khác, quan hệ thương mại thông thống
giữa hai nước sẽ làm cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận công nghệ kỹ
thuật hiện đại từ các thị trường nguồn, tạo thời cơ trong việc đào tạo sử dụng đội
ngũ lao động. Vì dệt may Việt Nam là ngành có giá trị xuất khẩu lớn ước tính 45 tỷ USD vào năm 2005 và 7-8 tỷ vào naưm 2010 nên được hưởng chính sách
ưu đãi và sự quan tâm của Nhà nước. Ngành có nguồn nhân cơng rẻ, dồi dào và
các doanh nghiệp địa phương về dệt may phát triển mạnh mẽ. Hơn thế nữa Việt

Nam mở rộng quan hệ đối tác với nhiều quốc gia trên thế giới, tạo thuận lợi về
vốn chuyển giao công nghệ kỹ thuật nâng cao chất lượng, năng suất.
2.2. Những khó khăn.
Mặc dù Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ với khối lượng lớn đặc biệt từ khi
hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực nhưng xuất khẩu chủ yếu gián tiếp
qua nước thứ ba như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản do đó cước
phí vận chuyển lớn và chênh lệch giá cũng không nhỏ, điều làm mất đi ưu thế
cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Năng suất ngành dệt may Việt Nam đã tăng lên nhiều do thay đổi công
nghệ, nâng cao năng lực quản lý, tay nghề người lao động... nhưng đối với thị
trường rộng lớn như Mỹ, năng lực sản xuất vẫn nhỏ khó đáp ứng đủ nhu cầu
trong thời gian dài. Dự tính rằng với cơng suất hiện nay thì ngành dệt trong 5-7
năm tới khơng có khả năng đáp ứng đủ, chỉ có hàng may mặc là đủ khả năng.
Hiện nay trung tâm lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh quá tải trong việc
đáp ứng thì các doanh nghiệp địa phương lại khơng có đơn hàng, sự bất cân đối
đó đã bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh, nhiều bạn hàng lớn.
Phải nói rằng vốn và nguồn lực vẫn luôn là vấn đề bức xúc nhất. Sự hạn
chế về vốn đồng thời sự hạn chế về dây chuyền công nghệ, nhân cơng có trình
19


độ kỹ thuật cao chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ do đó chất lượng hàng dệt may Việt Nam
chưa được đánh giá cao, đó cũng là một trong những nguyên nhân giải thích vì
sao, mã hàng địi hỏi kỹ thuật cao giành cho Việt Nam vẫn bị bỏ trống.
Việt Nam cũng như một số nước khác chưa thực sự hoà nhập với phương
thức bn bán của Mỹ. Như đã nói người Mỹ rất quý trọng tohừi gian và họ có
tác phong cơng nghiệp nên địi hỏi giao hàng đúng hẹn. Tuy nhiên doanh nghiệp
Việt Nam vẫn xảy ra tình trạng thời gian giao hàng khơng đảm bảo, phương
thức thanh tốn với khách hàng chưa nhanh chóng và đặc biệt ứng dụng cơng
nghệ thơng tin trong giao dịch cịn hạn chế. Ở Mỹ - công nghệ thông tin rất phát

triển đặc biệt là sự phát triển của thương mại điện tử nhằm tiết kiệm chi phí,
giao dịch nhanh chóng nên họ rất thích làm việc dựa trên phương tiện này. Ở
Việt Nam những nằm gần đây mới bắt nhập với thời đại sử dụng thương mại
điện tử nên ứng dụng công nghệ thơng tin trong giao dịch chưa nhiều.
Mỹ có phương thức kinh doanh rất rõ ràng, họ yêu cầu hàng hoá phải gắn
thương hiệu và đạt tiêu chuẩn chất lượng ISO như SA 8000, ISO 14000 đó là
điều kiện cần khi gia nhập vào thị trường Mỹ. Nhưng hiện nay nhiều doanh
nghiệp chưa có giấy phép thơng hành nên khơng đủ điều kiện xuất khẩu sản
phẩm chưa đồng bộ về số lượng, chất lượng mẫu mã.
Ở Mỹ ngoài luật pháp quy định chung thì mỗi bang lại có những quy định
riêng nên luật pháp rất phức tạp. Cũng bởi chưa am hiểu đầy đủ luật pháp Mỹ
nên nhiều doanh nghiệp bị thua thiệt.
Các doanh nghiệp Việt Nam cịn gặp khó khăn. Đó là ở các vùng sản xuất
cung ứng nguyên vật liệu chưa được quy hoạch trên quy mô rộng lớn số lượng
nhập khẩu cao vì thế mà chi phí đầu vào lớn dẫn tới bất lợi về giá.
Trong quá trình phát triển vai trò kinh tế tư nhân chưa được đề cao thủ tục
phức tạp do đó hạn chế nhiều ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh. Mặt khác
chính sách đầu tư vào ngành dệt may chưa phù hợp như thời hạn thu hồi vốn vay
đầu tư phát triển, chưa có cơ chế chính sách cụ thể thích hợp để thu hút các nhà
đầu tư của Mỹ.
20


Một khó khăn nữa là hiệp định song phương Mỹ - Việt Nam chuẩn bị ký
kết khi đó Việt Nam sẽ bị giới hạn về số lượng bởi Mỹ thực hiện chính sách bảo
hộ đối với hàng dệt may trong nước. Khi đó lượng hàng dệt may của Việt Nam
xuất sang Mỹ sẽ bị hạn chế nhiều. Trong thực tế, hàng dệt may Việt Nam có
năng lực cạnh tranh tăng cao so với trước, nhiều cơ hội trên thị trường Mỹ, có
khả năng cạnh tranh với hàng dệt may của Mỹ và các nước khác. Thông thường
hạn ngạch của Việt Nam cũng bị hạn chế hơn so với các nước khác. Có thể thấy

như đối với EU, số lượng hạn ngạch ưu đãi cho Việt Nam chỉ bằng 20% của các
nước ASEAN, 5% của Trung Quốc, số mặt hàng dệt may bị hạn chế xuất vào thị
trường EU, của Thái Lan là 20 nhóm, Sigapore là 8 nhóm và Việt Nam là 28
nhóm.
Việt Nam phải cạnh tranh với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
đặc biệt là Trung Quốc trên thị trường Mỹ. Những điểm hạn chế cơ bản của
hàng dệt may Việt Nam là do khâu năm bắt thơng tin về thị trường thế giới cịn
q ít, sơ sài, lạc hậu, công tác nghiên cứu mẫu mốt thời trang hàng dệt may, thị
hiếu của khách hàng các nước chưa được quan tâm thích đáng. Ngành may phát
triển theo phương thức may gia công là chủ yếu, nguyên liệu vải và các phụ liệu
đều phải nhập từ nước ngồi, mẫu mã sản phẩm, dệt may xuất khẩu cịn đơn
điệu chủ yếu là những sản phẩm dễ làm và có u cầu kỹ thuật trung bình thấp,
chỉ có một số ít doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn.
II- Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dệt may Việt Nam
vào thị trường Mỹ.
1. Chính sách và cơ chế quản lý của Nhà nước.
- Chính sách của Nhà nước đóng via trị điều tiết, quản lý ở tầm vĩ mo. Một
chính sách hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dệt may nâng cao năng
lực cạnh tranh. Chính phủ cần hồn thiện hệ thống chính sách khuyến khích đầu
tư, vay vốn đầu tư ưu đãi của ngân sách, giảm thuế nhập khẩu các loại nguyên
phụ liệu cho ngành dệt may mà trong nước chưa sản xuất được để giảm chi phí
về nguyên phụ liệu. Chính sách Nhà nước cần tạo môi trường để thúc đẩy các
21


doanh nghiệp dệt may cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đổi mới cơng nghệ
hợp lý hố sản xuất, cải tiến quản lý giảm chi phí sản xuất cá biệt, khuyến khích
các doanh nghiệp đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
9002 nhằm nhanh chóng nâng cao chất lượng hàng dệt may Việt Nam, khuyến
khích các doanh nghiệp dệt may mở văn phòng đại diện, đại lý ở nước ngồi để

đẩy mạnh cơng tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu hàng dệt may, phát huy vai
trị tích cực của các cơ quan thường vụ, tham tán thương mại ở Đại sứ quán Việt
Nam tại Mỹ trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường cho ngành dệt may. Nhà
nước cần có cơ chế quản lý hợp lý đặc biệt trong việc tiến hành làm thủ tục.
- Cần liên kết chặt chẽ giữa Công ty lớn với doanh nghiệp địa phương và
quy hoạch vùng sản xuất cung ứng nguyên vật liệu.
Hiện nay năng lực sản xuất ngành dệt may còn yếu mà năng lực sản xuất
của ngành ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh khơng đáp ứng đủ trong khi các
doanh nghiệp địa phương lại khơng có đơn hàng. Nếu có sự liên kết kết hợp sẽ
khai thác đủ trong khi các doanh nghiệp địa phương lại khơng có đơn hàng. Nếu
có sự liên kết kết hợp sẽ khai thác tiềm năng các doanh nghiệp địa phương có
điều kiện hỗ trợ vốn, cơng nghệ. Các Cơng ty lớn sẽ tăng cường hoạt động
thương mại còn các doanh nghiệp địa phương tăng cường hoạt động sản xuất khi
đó sẽ tạo một cơ cấu thích hợp để đáp ứng thị trường đầy tiềm năng này.
Nhà nước cần hỗ trợ để hiệp hội hàng dệt may triển khai hoạt động kết
nối giữa người gieo trồng sản xuất với các doanh nghiệp, ưu tiên trồng nguyên
liệu mà ngành đang phải nhập khẩu cao như bơng. Muốn vậy chính sách quy
hoạch đất đai, thuế.... cần được ưu đãi.
2. Nghiên cứu hệ thống luật pháp Mỹ và thông lệ quốc tế
Đặc trưng luật pháp Mỹ là phức tạp bởi ở đó là sự tồn tại của luật pháp
chung và luật pháp riêng từng bang. Do đó nếu khơng nghiên cứu kỹ sẽ có thể
ảnh hưởng đến lợi ích cũng như dễ vi phạm điều luật. Các doanh nghiệp trong
ngành cần tìm hiểu các cơ quan quản lý hàng dệt may của Mỹ để có kế hoạch và
biết được cách thuế quan hệ với đơi tác. Hiện nay các cơ quan quản lý đó ở Mỹ
22


bao gồm cơ quan đại diện Thương mại, Tổng Thống, uỷ ban phụ trách về thực
hiện hiệp định hàng dệt may, văn phòng của Bộ Thương mại phụ trách về hàng
dệt may, Quốc hội, Cục Hải quan, Uỷ ban về an toàn sản phẩm tiêu dùng, Uỷ

ban thương mại Liên Bang.... Đồng thời cũng cần phải tìm hiểu phương thức
bn bán giao dịch của những đối tác ở Mỹ, phù hợp với thông lệ quốc tế.
3. Thúc đẩy đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển
Ngành dệt may Việt Nam có rất nhiều cơ hội phát triển mở rộng thị phần
nhưng chúng ta vẫn đang xuất khẩu qua nước thứ 3 thực tế, hàng dệt may Việt
Nam khi suất sang thị trường Mỹ phải xuất khẩu gián tiếp qua các nước như:
Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản..., điều đó sẽ mang lại sự thua thiệt về giá cả
và mất đi ưu thế về thương hiệu, giá cả. Chính vì thế một nhu cầu cấp thiết đặt
ra là phải nghiên cứu, tìm hiểu thị trường để xuất theo phương thức trực tiếp chủ
động trong xuất khẩu.
Để sản phẩm có tính cạnh tranh cao, nghiên cứu nhu cầu, văn hố xã hội
là cần thiết. Mõi một quốc gia có nét văn hố riêng, nhu cầu khác nhau về kích
cỡ. Mỗi một quốc gia có nét văn hố riêng, nhu cầu khác nhau về kích cỡ, màu
sắc, chất liệu, thị hiếu do đó nghiên cứu để có kế hoạch sản xuất phù hợp. Hiện
nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam đều may theo đơn đặt hàng, nếu chúng ta chủ
động sẽ tìm kiếm được thị trường ngách, là cơ hội để nâng cao vị thế cạnh tranh.
Sản phẩm dệt may ở Mỹ địi hỏi chất lượng cao do đó phải thay đổi dây
chuyền công nghệ, ứng dụng thiết bị hiện đại nhằm tăng độ bền đẹp với công
suất lớn. Trung Quốc cũng như nhiều nước khác đều coi Mỹ là thị trường xuất
khẩu chính. Vì vậy ngành Dệt may Việt Nam phải đối đầu với đối thủ cạnh tranh
mạnh có nhiều ưu thế. Nghiên cứu đối thủ cũng như khả năng của họ là cần thiết
và quan trọng.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh mỗi doanh nghiệp phải tìm cho mình
một hướng đi đúng đắn và cơ chế thị trường đòi hỏi ở các doanh nghiệp sự năng
động, nhảy bén, thích ứng với những biến động của môi trường, đặc biệt khi gia
nhập một thị trường đầy cơ hội, thách thức như thị trường Mỹ. Thực tiễn cạnh
23


tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư công nghệ, đào tạo nhân

lực quản lý, sản xuất, mở rộng quan hệ đối tác, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn
chất lượng, cải tiến chấ lượng, mẫu mã, liên doanh liên kết để tận dụng vốn,
công nghệ, nguồn lực. Hơn nữa đối với thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, đặc
biệt Mỹ là quốc gia có thương mại - Điện tử phát triển thì các doanh nghiệp
Việt Nam phải tổ chức hoạt động tiếp thị quảng cáo dưới sự trợ giúp của tổ chức
xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, xây dựng chiến lược Marketing phù
hợp. Các doanh nghiệp trong ngành k1hi xuất khẩu phải am hiểu nghiệp vụ kinh
doanh xuất nhập khẩu bởi luật pháp Mỹ có quy định chặt chẽ. Có như vậy,
doanh nghiệp mới đưa cả ngành vương lên trong cạnh tranh.

24


PHẦN KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường với đặc trưng tự do cạnh tranh đòi hỏi ngành dệt
may Việt Nam một mức cao về kỹ thuật, chất lượng, phương thức bn bán,
đứng trước nhiều thuận lợi khó khăn ngành dệt may Việt Nam phải thực sự có
sự đổi mới về quản lý chất lượng, công nghệ, hợp tác, mở rộng quan hệ trên diện
rộng.
Vươn lên trong cạnh tranh, sau đổi mới cơ chế ngành dệt may Việt Nam
đã hoà nhập được với nhu cầu phát triển trong và ngoài nước ban đầu nhiều khó
khăn chồng chất khiến nhiều doanh nghiệp phá sản không thể đứng vững được
trước nhu cầu cao của người tiêu dùng. Tình trạng đó vẫn tồn tại nhưng được sự
quan tâm của nhà nước với nỗ lực của cả ngành, hiện nay diện mạo của mỗi
doanh nghiệp đã có sự thay đổi, mở ra một cơ hội mới thách thức khả năng đối
đầu của các Công ty trong cả nước.
Ngành dệt may Việt Nam hiện nay được coi là trọng điểm của quốc gia
trong kim ngạch xuất khẩu của cả nước, hàng năm ngành đóng góp lớn cho ngân
sách, giải quyết nhu cầu của xã hội nên nâng cao năng lực cạnh tranh là nhu cầu
bức thiết đặc biệt thị trường Mỹ mà ngành đã và đang hướng tới là thị trường

mục tiêu. Giải pháp nhằm nâng cao cạnh tranh đó là cần có chính sách cơ chế
quản lý của nhà nước một cách hợp lý, sự liên kết chặt chẽ giữa Công ty lớn với
doanh nghiệp địa phương, vùng sản xuất cung ứng nguyên vật liệu cần được quy
hoạch, hệ thống luật pháp và thị trường xuất khẩu cần được nghiên cứu, các hoạt
động nghiên cứu và phát triển cần được đầu tư và hơn cả mỗi doanh nghiệp cần
năng động trước biến động của môi trường. Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành
dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ là một giải pháp quan trọng để thúc đẩy
nền kinh tế xã hội phát triển, thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội của cả nước,
có vai trị quan trọng trong sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất
nước, khẳng định thương hiệu Việt Nam trên thị trường Mỹ - Một thị trường
giầu tiềm năng đối với không chỉ các doanh nghiệp Việt Nam.
25


×