Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

NÚI ĐÔI - VŨ CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.05 KB, 6 trang )

NÚI ĐÔI
Có những tác phẩm văn học gắn với một địa danh đã làm nổi tiếng một vùng đất, một ngọn
núi, dòng sông. Trường hợp bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao là như vậy.
Nhà thơ Vũ Cao
Ra đời ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, dựa trên một câu chuyện thật
được nghe kể lại, nhà báo quân đội Vũ Hữu Chỉnh vụt trở thành nhà thơ Vũ Cao bằng bài
thơ kể về một chuyện tình bi tráng gắn với ngọn núi Đôi ở một vùng trung du.
Thế là nhờ thơ nên “lối ta đi giữa hai sườn núi, đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi” đã thành
con đường tình yêu, đỉnh núi tình yêu cho những chàng trai cô gái thế hệ sau tiếp bước làm
những ngôi sao sáng, những bông hoa thơm khi nước nhà lên tiếng gọi.
Và nhờ thơ cô gái du kích ở Xuân Dục - Đoài Đông ấy đã được xác thực họ tên trong sổ
vàng truyền thống của địa phương. Tên tuổi Vũ Cao gắn liền với bài thơ Núi Đôi trong ánh
lung linh của thơ và đời như vậy.
Sinh năm 1922 tại Nam Định, Vũ Cao nhập ngũ năm 1946, và ông gắn liền cuộc đời binh
nghiệp của mình với báo chí quân đội, từ báo Quân Đội Nhân Dân đến tạp chí Văn Nghệ
Quân Đội, từ công việc của một phóng viên đến chức trách của một tổng biên tập.
Khi cởi áo lính, ông làm giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội, chủ tịch Hội đồng thơ (Hội Nhà
văn Việt Nam). Nhưng với Vũ Cao, các chức trách phải gánh hình như không làm ông bận
tâm. Điều ông muốn là được sống thật lòng mình với đời, với người.
Nghe đọc nội dung toàn bài:
Thơ đến với ông những khi cảm xúc được chắt lọc và thăng hoa, ông muốn trải lòng mình
với con người và cảnh vật trong những vần thơ nhẹ nhàng, giàu nhạc điệu và tình cảm.
Ngay cả khi viết văn xuôi thì văn Vũ Cao cũng rất thơ. Mảng văn xuôi của ông dường như
bị khuất lấp sau bóng Núi Đôi, nhưng ở cái truyện thường được nhắc tới nhất của ông thì
tên truyện đã có thơ rồi - truyện Một đoạn thơ sông Đà.
Sinh thời Vũ Cao là người hồn hậu, vui vẻ. Dáng người ông cao lớn (cho nên bút danh của
ông là từ biệt hiệu thuở trong quân ngũ) luôn đi cùng tiếng cười sảng khoái, nồng nhiệt.
Bây giờ (3-12-2007) ông nằm xuống, từ nay núi vẫn đôi mà thơ mất ông. Nhưng thơ thay
ông ở lại với đời kể tiếp câu chuyện tình núi Đôi và gửi đến những đôi lứa ngày sau tấm
lòng thơ yêu người của ông.
PHẠM XUÂN NGUYÊN


NÚI ĐÔI
Bảy năm về trước em mười bảy,
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng.
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa,
Bữa thì em tới bữa anh sang.
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi.
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.
Anh vào bộ đội lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng.
Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông.
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà thăm núi Đôi.
Mới đến đầu ao tin sét đánh

Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy chung.
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em.
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.
Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay,
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuấy dần chuyện xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu.
Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?
Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí

Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm
VŨ CAO
Núi Đôi núi - Núi Đôi thơ
Ai đã từng yêu thơ, đã từng cắp sách đến trường mấy mươi năm lại đây không thể không
biết tới bài thơ Núi Đôi. Bài thơ đã được in đi in lại trong các tuyển tập thơ, được đưa vào
sách giáo khoa và được ngâm, diễn trên sóng phát thanh, sóng truyền hình cả ngàn lần. Đó
là một bài thơ hay, bài thơ mà nói đến thơ ca kháng chiến, thơ ca thời 9 năm không thể
không nhắc tới... Bài thơ là câu chuyện tình trong chiến tranh giữa một anh bộ đội và một
cô thôn nữ. Câu chuyện tình thật đẹp, thật thơ nhưng cũng thật xa xót, buồn thương, bi
tráng. Câu chuyện tình thời chinh chiến của anh chiến sĩ tuổi đôi mươi và người con gái
mới mười bảy "trẻ nhất làng" ấy đã và sẽ được người đời sau nhớ, thuộc dài dài.
Núi Đôi xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Và chính nhờ có bài thơ mà người ta biết tới tên tuổi nhà thơ Vũ Cao, biết tới Núi Đôi -
một ngọn núi mà trước khi có bài thơ cùng tên với nó chưa hề có trên bản đồ nước Việt.

Nhà thơ Vũ Cao tên thật là Vũ Hữu Chỉnh sinh
ngày 18-2-1922 tại xã Liên Minh, huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định. Ông tham gia quân đội từ khi còn
rất trẻ, từng là phóng viên chiến trường của Quân
đội Nhân dân thời kháng chiến chống thực dân
Pháp, Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội,
Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội. Ông được Giải
thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm
2001. Gia đình ông nổi tiếng là một gia đình văn
nghệ; chú ruột, hai em ruột và vợ ông đều là nhà
thơ, nhà văn. Trong đó có nhà văn Vũ Tú Nam

từng giữ cương vị Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt
Nam.
Nhà thơ Vũ Cao và vợ
Bạn đọc biết đến ông qua những trang văn đẹp như
“Một đoạn thư Sông Đà” và các tập thơ Đèo Trúc, Núi
Đôi... Với bài thơ Núi Đôi, ông kể : Ông đã từng hoạt
động nhiều năm ở vùng trung du Bắc Bộ thời 9 năm.
Hòa bình lập lại, ông trở về "thực tế" tại đây và "tóm"
được hình ảnh "núi chồng núi vợ đứng song đôi" và viết
thành bài thơ. Núi Đôi là một ngọn núi nhỏ nằm ở xã Phù
Linh thuộc huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội - huyện
có sân bay quốc tế Nội Bài, đền Sóc thờ Phù Đổng Thiên
Vương (Thánh Gióng) và Học viện Phật giáo Việt Nam
(mới khánh thành). Xã Phù Linh, xã có Núi Đôi nằm kề
thị trấn Đa Phúc (huyện lỵ huyện Sóc Sơn) có năm thôn,
trong đó có làng Xuân Dục, vì thế trong bài thơ có câu
Mỗi bận dân công về lại hỏi/ Ai người Xuân Dục Núi Đôi
chăng?
Rừng thông trên Núi Đôi
Núi Đôi không cao, chỉ nhỉnh hơn một quả đồi, tuy thế phong cảnh ở đây thật hữu tình
với "đồi thông, bờ cỏ, con đường quen" và đồng lúa, mái chùa, tháp chuông ẩn hiện xa xa.
Bài thơ có đoạn :
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi Núi Đôi
Em vẫn đùa anh: sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi !
Xung quanh Núi Đôi, xung quanh bài thơ Núi Đôi và xung quanh nhà thơ Vũ Cao người
ta đã "dệt" nên nhiều giai thoại, nhiều câu chuyện tình thật mộng, thật thơ, nhằm trả lời câu
hỏi ai là người con trai, ai là người con gái trong câu thơ :
Bảy năm về trước, em mười bảy

Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Liệt sĩ Trần Thị Bắc, hình tượng Nữ
du kích trong bài thơ “Núi Đôi”

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×