Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Ý thức phái tính trong truyện ngắn nguyễn thị thu huệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ TRANG

Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Lý Hoài Thu

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng sâu sắc và tình cảm chân thành tôi xin trân trọng
cảm ơn:
Phòng sau đại học trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 cùng các thầy cô
giáo đã trực tiếp giảng dạy và góp ý cho tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS
Lý Hoài Thu – người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ, tạo điều kiện
tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng vô cùng cảm ơn những tình cảm tốt đẹp của người thân, gia
đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn dành cho tôi, động viên và tạo mọi điều
kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Đó chính là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này.


Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn luận văn không tránh
khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, bạn bè, đồng
nghiệp quan tâm đến đề tài này.

Người viết luận văn

Nguyễn Thị Trang


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nào.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa
học của các tác giả khác với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung
tôi nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.

Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2016
Người viết luận văn

Nguyễn Thị Trang


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 9

6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 9
7. Đóng góp mới.............................................................................................. 10
8. Bố cục luận văn ........................................................................................... 10
Chương 1. Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI ............................................. 11
1.1. Giới thuyết về phái tính và nữ quyền ....................................................... 11
1.1.1. Những quan niệm về phái tính và ý thức phái tính ................... 12
1.1.2. Ý thức phái tính và sự xuất hiện của Chủ nghĩa nữ quyền ......... 14
1.2. Ý thức phái tính và vấn đền nữ quyền trong văn học Việt Nam thời kì đổi
mới ................................................................................................................... 17
Chương 2. Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ HÀNH TRÌNH TÌM LẠI BẢN
NGÃ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ................... 25
2.1. Ý thức về thiên tính nữ............................................................................. 25
2.1.1. Ý thức về vẻ đẹp ngoại hình ....................................................... 25
2.1.2. Ý thức về vẻ đẹp tâm hồn ........................................................... 29
2.1.2.1. Người phụ nữ với khao khát kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc ..... 29
2.1.2.2. Người phụ nữ với bi kịch về tình yêu, hôn nhân gia đình ....... 35
2.1.2.3. Nhân vật người phụ nữ tự vấn cuộc đời mình ......................... 45
2.2. Vấn đề về tình dục như một phương thức thể hiện bản ngã .................... 52
2.3. Cái nhìn về một nửa thế giới bên kia ....................................................... 57


2.3.1. Người đàn ông không tôn trọng tình yêu .................................... 58
2.3.2. Người đàn ông tham lam, ích kỉ ................................................. 61
Chương 3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ............................................. 64
3.1. Không gian, thời gian nghệ thuật ............................................................. 64
3.1.1. Không gian, thời gian hiện thực đời thường ............................... 66
3.1.2. Không gian, thời gian tâm tưởng ................................................ 71
3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 73

3.2.1. Ngôn ngữ người kể chuyện........................................................ 73
3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật ...................................................................... 77
3.2.2.1. Khai thác triệt để ngôn ngữ độc thoại nội tâm ........................ 78
3.2.2.2. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật đậm chất dung tục
đời thường ....................................................................................................... 81
3.2.2.3. Sử dụng câu văn ngắn dồn nén thông tin ................................ 84
3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 89
3.3.1. Giọng thâm trầm, sâu lắng .......................................................... 91
3.3.2. Giọng khinh bạc, xót xa ............................................................. 92
KẾT LUẬN .................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Có thể nói, từ sau đổi mới 1986, văn học Việt Nam đã đạt được những
thành công trên nhiều lĩnh vực, thể loại, đặc biệt là truyện ngắn. Một trong
những yếu tố làm nên sự phong phú, đa dạng của văn học giai đoạn này chính
là sự xuất hiện ngày càng nhiều các cây bút nữ. Bên cạnh những cây bút kỳ
cựu như: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, nối tiếp Nguyễn
Huy Thiệp, là sự xuất hiện của lớp nhà văn trẻ với lối viết mới mẻ, tràn đầy
tâm huyết đã thổi vào nền văn học nước nhà một luồng sinh khí mới, với
những tên tuổi như: Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Võ Thị
Hảo, Đỗ Bích Thúy,... hòa chung vào dòng chảy đó là Nguyễn Thị Thu Huệ
với tư cách là một nhà văn nữ có cá tính độc đáo và cách viết khá mới lạ.
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ là một gương mặt tiêu biểu của văn xuôi
nữ sau đổi mới, một cây bút có duyên trong lĩnh vực truyện ngắn. Ngay từ
những tác phẩm đầu tiên chị đã nhanh chóng xác lập được vị trí của mình trên

văn đàn. Thu Huệ chỉ viết khi câu chuyện đã đầy ắp trong tim óc cần hiện
diện ra thành câu chữ, và khi đó chị viết như “lên đồng”, ý tưởng tuôn trào
như không kịp nghĩ. Tuy vậy, hơn hai mươi năm cầm bút, Nguyễn Thị Thu
Huệ cũng đã sở hữu bảy tập truyện ngắn được dư luận chú ý: Cát đợi (1992),
Hậu thiên đường (1994), Phù thủy (1997), 21 truyện ngắn (2001), Nào ta
cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2010) và gần
đây nhất là Thành phố đi vắng (2012). Chị cũng là nữ nhà văn gặt hái được
nhiều thành công và đã nhận được rất nhiều giải thưởng có uy tín: đạt giải nhì
cuộc thi truyện ngắn của Hội văn học nghệ thuật Hà Nội (1986); giải nhì cuộc
thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền phong (1993); giải nhất cuộc thi
truyện ngắn Nxb Hà Nội (1994), cùng năm đó chị cũng đạt giải nhất cuộc thi
truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức và nhận tặng thưởng Hội


2

Nhà văn với tác phẩm Hậu thiên đường. Năm 2012, chị được nhận giải
thưởng của Hội Nhà văn dành cho tập truyện ngắn Thành phố đi vắng.
Với những tập truyện đặc sắc của mình, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ
đã góp phần làm nên diện mạo khởi sắc của nền văn xuôi đương đại Việt
Nam. Qua những trang viết của chị, có thể nhận ra một tư duy khá sắc sảo và
sở trường nắm bắt những cái mới, thời sự của cuộc sống đương đại. Phần lớn
tác phẩm của chị đều thể hiện cái nhìn nhạy bén, phản ánh các vấn đề gay gắt
của cuộc sống hiện đại, khai thác những góc khuất “thế giới bên trong” con
người. Sáng tác của Thu Huệ góp phần làm rõ những nét mới mẻ trong quan
niệm nghệ thuật về con người cá nhân, cá thể, con người nhiều chiều trong
“tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Trong đó nhân vật phụ nữ được đặc biệt
quan tâm. Đó là những con người hiện đại dám sống thực với mình. Họ có thể
là những người đàn bà từng trải, bao dung với con cháu; những người mẹ,
người vợ lo toan cho gia đình và phấn đấu cho sự nghiệp; những cô gái háo

hức vào đời; những người phụ nữ khát khao hạnh phúc, tìm kiếm tình yêu…
Đằng sau mỗi người phụ nữ bao giờ cũng ẩn chứa nhiều điều mà không phải
lúc nào họ cũng muốn bộc lộ, chia sẻ. Để làm được điều này, nhà văn phải có
quan niệm mới mẻ về hiện thực cuộc sống và con người, cũng như có sự táo
bạo trong cách viết, cách xử lý vấn đề. Đây là những yếu tố quyết định làm
nên những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn
Thị Thu Huệ.
Việc nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ lâu nay đã có
một vài chuyên luận, nhưng đi sâu tìm hiểu vấn đề về ý thức phái tính trong
truyện ngắn của chị vẫn còn những khoảng trống. Chính vì vậy, chúng tôi đã
lựa chọn Ý thức phái tính trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ làm đối
tượng nghiên cứu, với mong muốn góp một cách nhìn khẳng định những


3

thành tựu của truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ và vị trí của chị trong đời
sống thể loại nói riêng và đời sống văn xuôi đương đại Việt Nam nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Tiếp cận các tác phẩm văn học từ lý thuyết phái tính là vấn đề không
mới nhưng còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu và làm sáng rõ. Như
Nguyễn Thị Bình trong bài viết Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ
đương đại [31]: “…chúng tôi dùng cách gọi “ý thức phái tính” để chỉ một
dạng thức nữ quyền được nhận diện qua sáng tác văn xuôi của một số nhà
văn nữ”, “Ý thức nữ quyền có thể xem như biểu hiện mạnh nhất, tự giác nhất
của ý thức nữ tính”. Trong phần tìm hiểu lịch sử vấn đề chúng tôi sẽ trình bày
lịch sử nghiên cứu của ý thức phái tính.
Ở nước ngoài, việc nghiên cứu phái tính và nữ quyền trên thế giới
được chia làm ba giai đoạn. Những lý thuyết tiên phong là học thuyết phân
tâm học của S.Freud với “mặc cảm Ơđip” và sau đó là sự thay thế bằng học

thuyết cấu trúc và hậu cấu trúc của Lacan.Theo Lacan, “dương vật biểu trưng
cho quyền lực tính dục”. Tiếp đó là tác phẩm Một căn phòng cho riêng mình
(A room for one’s own) (1929) của Virginia Woolf, tác phẩm được coi như
“sách vỡ lòng” của phê bình nữ quyền. Nhờ Woolf mà các tác giả nữ ngày
nay có những khái niệm gợi mở về cách suy nghĩ thông qua người mẹ, về ý
kiến của đàn bà, và về tinh thần song giới (dung hòa cả hai giới tính). Nhiều
quan điểm lý thuyết mâu thuẫn của tư tưởng nữ quyền đương đại bắt nguồn từ
trí tưởng tượng đột phá vượt giới hạn của Woolf và những xung đột sáng tạo
của bà. Phong trào phê bình nữ quyền bắt đầu thịnh hành từ thập niên 70
của thế kỷ XX. Từ đây, những vấn đề quan trọng của chủ nghĩa nữ quyền
được hình thành và phát triển. Tác giả tiêu biểu là Doris Lessing với công
trình The Golden Notebook (Cuốn sổ tay vàng). Tác phẩm được coi như
tuyên ngôn của chủ nghĩa nữ quyền: “Các nhà hoạt động nữ quyền có thể coi


4

Cuốn sổ tay vàng như là tiên phong cho cái nhìn của thế kỷ XX về quan hệ
nam – nữ”. Chủ nghĩa nữ quyền tiếp tục phát triển trong các thập niên tiếp
theo. Nó là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục khai triển, trong văn
học, điện ảnh và cả các loại hình nghệ thuật khác.
Ở nước ta, phái tính được xem như một tiêu chí có trọng lượng để khu
biệt sáng tác của cây viết nam và cây viết nữ. Trong những cuộc đấu tranh đòi
bình đẳng giới, trong phong trào đòi giải phóng phụ nữ, người ta nhắc rất
nhiều đến phái tính và phái tính trong văn học luôn được đưa ra như một minh
chứng cụ thể, một khí giới đắc lực. Cũng như phái tính, phái tính trong văn
thơ nữ là một đề tài tương đối mới mẻ cho nên rất hiếm có công trình nghiên
cứu trọn vẹn về vấn đề này. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cũng đã chú ý đề
cập ít nhiều. Tác giả Châm Khanh khi nghiên cứu Phụ nữ và văn chương đã
đặt ra một vấn đề bức bách “Thông thường, bằng kinh nghiệm, ai cũng biết

nam giới và nữ giới khác nhau trong rất nhiều phương diện, từ cách ăn, cách
mặc, cách giải trí đến cảm xúc, cách suy nghĩ và cách ứng xử trong cuộc
sống… Nếu giữa hai phái tính có một sự khác biệt sâu rộng như vậy thì trong
lĩnh vực văn chương chắc hẳn họ cũng rất khác nhau. Mọi người đều có thể
đồng ý một cách dễ dàng là một cây bút nữ hẳn phải viết khác một cây bút
nam. Thế nhưng, chỉ đồng ý điều này không chưa đủ, vấn đề là chúng ta phải
tìm ra những điểm khác biệt cụ thể giũa hai phái tính trong khía cạnh sáng
tác văn học” và đi đến kết luận: “Đây có lẽ không phải là một công việc dễ
dàng”.
Năm 1990, bài viết “Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn” (Tạp chí Văn học, số 5), nhà nghiên cứu Trương
Chính đã bước đầu thể hiện những kiến giải của mình về ý thức nữ quyền
trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn. Bài viết chủ yếu nhìn nhận vấn đề nữ
quyền trên phương diện nội dung tư tưởng.


5

Năm 1996, trên Tạp chí Văn học số 6, trong chuyên mục Trao đổi ý
kiến đã thực hiện cuộc bàn luận của các nhà nghiên cứu (Lại Nguyên Ân,
Đặng Anh Đào, Phạm Xuân Nguyên, Vương Trí Nhàn, Đặng Minh Châu,…)
về sáng tác của các cây bút nữ trên nhiều phương diện: điểm mạnh và điểm
yếu của các nhà văn nữ; phụ nữ với nghề văn; gương mặt những cây bút nữ;
đóng góp của những cây bút nữ; tiềm năng của những cây bút nữ,… Đặc biệt,
các nhà nghiên cứu đã tập trung bàn luận nhằm lý giải hiện tượng nở rộ sáng
tác của các nhà văn, nhà thơ nữ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một cuộc trao
đổi ngắn, các ý kiến đưa ra chỉ mang tính chất khơi gợi, chưa đào sâu phân
tích vấn đề nữ quyền một cách thấu đáo. Sau đó bài Suy nghĩ về đặc điểm của
nữ văn sĩ của Phương Lựu hướng sự chú ý về phái tính ở khía cạnh bản thể
sáng tạo – nữ giới. Theo Phương Lựu, diện sống “không được sâu rộng” của

nữ giới quy định “mầu sắc tự truyện” và đề tài chủ yếu của họ là tình yêu.
Quan điểm này tìm ra được nét khái quát nhất của văn học nữ đương thời
nhưng tự thân nó không có được tính khu biệt rõ ràng.
Năm 2000, chuyên đề Tình yêu, tình dục và phái tính trong văn học đi
đầu và cũng là chuyên đề tập trung hơn cả về phái tính. Với bài Phụ nữ và
văn chương, Châm Khanh vừa đặt lại vấn đề của Phan Khôi nhưng lần này,
phụ nữ được đưa lên vị trí hàng đầu. Tác giả tỏ ra ngần ngại trước một vấn đề
quan trọng: Cách viết của phụ nữ so với nam giới có gì khác? Sự khác biệt
lớn nhất thực chất là vấn đề nữ quyền. Hoàng Ngọc Tuấn viết Dục tính trong
văn chương và vấn đề đạo đức, Nguyễn Hoàng Đức viết Nữ giới, nữ văn sĩ và
văn giới, Nguyễn Hữu Lê với Tình dục trong văn học Việt Nam dưới cách
nhìn của đạo lý hồn nhiên và của đạo lý học thuyết , Đỗ Minh Tuấn với Thúy
Kiều và khát vọng giải sex… đều đề cập đến cuộc giải phóng phụ nữ, giải
phóng tình dục. Đàn bà có quyền phát biểu khát vọng dục tính của mình.
Thậm chí, có những nhà văn nữ đã xây dựng những tiểu thuyết trong đó đàn


6

bà sử dụng đàn ông như công cụ phục vụ dục tính. Hoàng Ngọc Tuấn chỉ ra
thái độ trả thù phái tính ấy chỉ là hệ quả của tinh thần phản kháng bồng bột
thời kỳ đầu, về sau, các nhà văn nữ càng ngày càng tỏ ra sáng suốt và bình
tĩnh hơn trước vấn đề giải phóng ý thức phụ nữ khỏi những ràng buộc phái
tính và dục tính để suy nghĩ đến những ý nghĩa rất bình thường trong cuộc
sống: những ý nghĩa về bản thân, hạnh phúc, gia đình, phái tính, trách nhiệm,
tình yêu, chiến tranh, tự do, đạo đức… Đấy mới là mảnh đất màu mỡ bộc lộ
phái tính.
Ngoài ra, có những bài nghiên cứu dẫn nhập rất chi tiết lý thuyết về chủ
thuyết phụ nữ, văn học nữ quyền, hoặc cũng đang trong quá trình tìm tòi như:
Lí luận phụ nữ: Từ Simone de Beauvoir dến Judith Butler của Đặng Phùng

Quân, Nữ quyền luận của Nguyễn Hưng Quốc, Dày dày đúc sẵn một tòa…
văn chương của Đinh Từ Bích Thúy, Tiếng cười của nàng Medusa của Mary
Klages…Với tính chất khơi mở, những nghiên cứu ấy góp phần gợi hướng
tìm hiểu ý thức phái tính nhưng chưa chủ định nghiên cứu cụ thể vấn đề phái
tính trong văn thơ nữ Việt Nam.
Nghiên cứu về vấn đề phái tính cũng có một số công trình là luận
án, luận văn đề cập ý thức phái tính như: Luận án tiến sĩ Vấn đề phái tính và
âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (qua sáng tác của
một số nhà văn nữ tiêu biểu) của Nguyễn Thị Thanh Xuân đã hệ thống và lý
giải một cách cơ bản về lý luận phái tính và nữ quyền trong văn hóa và diễn
ngôn văn học, chỉ ra được những biểu hiện phái tính trong văn xuôi của các
cây bút nữ, lý giải sự phát triển của ý thức phái tính là do hệ quả của quá trình
dân chủ hóa xã hội và văn học; Luận văn thạc sĩ Ý thức phái tính trong sáng
tác văn xuôi nữ từ sau 1975 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Trần Thùy Mai, Y Ban,
Phạm Thị Hoài, Đỗ Hoàng Diệu) của Phạm Thị Thu Huyền tại trường Đại
học Đà Nẵng, đã xác định nội hàm thuật ngữ ý thức phái tính và vận dụng nó


7

vào tìm hiểu trong một số sáng tác của các nhà văn nữ tiêu biểu sau 1975;
Luận văn thạc sĩ Dịch và vận dụng tiểu luận The signification of the phallus
của J. Lacan vào nghiên cứu bản sắc giới trong tác phẩm của M. Duras của
Ngô Thị Thanh tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, chủ yếu giới thiệu, làm
rõ một số phương diện của lý thuyết phân tâm học Lacan – lĩnh vực còn chưa
được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam trên phương diện bản sắc giới; Luận văn
thạc sĩ Về một đặc điểm tư duy thơ nữ gần đây: Ý thức phái tính (qua Phan
Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh) của Nguyễn Thị Hồng Giang tại
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, trình bày khái niệm phái tính,
đưa ra những biểu hiện phái tính trong thơ nữ Việt Nam qua một số tác giả

tiêu biểu, khẳng định ý thức phái tính là một đặc điểm của tư duy thơ nữ gần
đây…
Không chỉ trong các công trình nghiên cứu mà ngay cả thế giới mạng
đã đề cập tới vấn đề phái tính, như trang web văn học tienve. org đã dành hẳn
một chuyên mục Việt số 04.2000 để nói về : “Tình yêu, tình dục và phái tính
trong văn học”. Các bài viết trong chuyên mục này như “Phái tính trong ngôn
ngữ và văn học” (Phan Việt Thủy), Văn tự và phái tính (Tú Ân), Chuyện hiếp
dâm và vấn đề phái tính trong văn học Việt Nam (Nguyễn Hưng Quốc), Phụ
nữ và văn chương (Châm Khanh), Dục tính hay đỉnh tháp của văn chương
(Nguyễn Hoàng Đức), Dục Tính trong văn chương và vấn đề đạo đức (Hoàng
Ngọc Tuấn), Tình dục trong văn học Việt Nam dưới cách nhìn của đạo lí hồn
nhiên và của đạo lí học thuyết (Nguyễn Hữu Lê)… đều đề cập đến vấn đề
phái tính. Trong lời mở đầu cho chuyên mục này, Thư tòa soạn có nhấn
mạnh: “Về phái tính dường như chưa bao giờ thực sự được nghiên cứu tại
Việt Nam. Một số công trình đã in về các nhà thơ hay các nhà văn nữ, thường
có tính chất xã hội học, tuy nhiên hiếm có ai liên hệ những đặc điểm ấy với
vấn đề phái tính, chẳng hạn: nam và nữ viết khác nhau ra sao? Khác đến


8

chừng mực nào?Những sự khác biệt ấy có dính líu gì đến những sự khác biệt
về sinh lí của nam và nữ…”.
Nhìn chung những bài viết trên đã khái quát những nội dung chung
nhất về ý thức phái tính qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài
nước. Tuy nhiên, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào đi
sâu tìm hiểu về ý thức phái tính trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
ơTrên cơ sở tiếp thu ý kiến, kết quả của người đi trước, cùng với sự đánh giá,
kiến giải riêng của mình, chúng tôi triển khai đề tài: “Ý thức phái tính trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ”.

3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc khảo sát các sáng tác truyện ngắn của nhà văn Nguyễn
Thị Thu Huệ, người viết muốn làm rõ nét riêng độc đáo trong văn của chị
dưới góc độ ý thức phái tính. Có thể nhận ra rằng, những đặc sắc nghệ thuật
của các nhà văn nữ đều có dấu ấn nữ tính, nhưng ý thức phái tính không đồng
nhất với nữ tính. Đó là sự tự giác về nữ quyền. Đề tài này giới hạn ở phạm vi
về vấn đề phái tính.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn giải quyết những
nhiệm vụ sau đây:
- Xác định nội hàm khái niệm ý thức phái tính.
- Tìm hiểu sự ảnh hưởng sâu sắc của ý thức phái tính tới sáng tác của
Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Khẳng định vị trí của Nguyễn Thị Thu Huệ trong nền văn xuôi Việt
Nam đương đại.


9

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Những biểu hiện của ý thức phái tính trong sáng tác truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ về mặt nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật biểu
hiện.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát trên phạm vi các tập truyện ngắn tiêu biểu của
Nguyễn Thị Thu Huệ, như:
- Cát đợi (Nhà xuất bản Hà Nôi – 1992)
- Hậu Thiên Đường (Nhà xuất bản Hội nhà văn – 1993)
- Phù thủy (Nhà xuất bản văn học – 1995)

- 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ( Nhà xuất bản Hội nhà văn –
2001)
- 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ( Nhà xuất bản văn học – 2006)
- Thành phố đi vắng ( Nhà xuất bản Trẻ - 2012)
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài luận án, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau đây:
6.1. Phương pháp lịch sử phái sinh: Nhằm nhìn nhận lại quá trình
biểu hiện của ý thức phái tính và vấn đề nữ quyền trong tiến trình văn học.
6.2. Phương pháp hệ thống trong việc hệ thống hóa những quan điểm
về phái tính, sự vận động và biểu hiện của ý thức phái tính trong nền van học
Việt Nam đương đại.
6.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu: giữa các tác phẩm văn học với
các tài liệu về nhân chủng học, văn hóa học, tôn giáo, triết học, và giữa các
tác phẩm của nhà văn, hay với sáng tác của các nhà văn khác….nhằm tìm ra
mối tương quan giữa hoàn cảnh, xã hội, nền tảng văn hóa, lịch sử đã tác động


10

như thế nào đến văn học trong phạm vi biểu hiện của ý thức phái tính trong
sán tác của Thu Huệ cũng như một số tác giả nữ cùng thời.
6.4. Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng trong quá trình
phân tích những đặc điểm mang màu sắc phái tính.
6.5. Phương pháp liên ngành: làm cơ sở phương pháp luận cho đề tài
nghiên cứu, trong đó có Lý thuyết về giới (Giới học), Tâm lý học, Ngôn ngữ
học. Phương pháp tiếp cận liên ngành sẽ giúp chúng tôi thấy được bản chất tư
tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm, tiến tới việc phân tích, lý giải những sáng tác
của Thu Huệ.
7. Đóng góp mới

Luận văn đã chọn một góc nhìn nhằm phát hiện ra sắc diện mới trong
sáng tác của Thu Huệ, làm nổi bật chân dung và cá tính sáng tạo của chị trong
dòng văn xuôi nữ đương đại. Đồng thời luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích cho những ai quan tâm đến vấn đề phái tính trong văn xuôi nữ đương đại
Việt Nam.
8. Bố cục luận văn
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn được triển khai
thành 3 chương:
Chương 1: Ý thức phái tính và vấn đề nữ quyền trong văn học thời kì
đổi mới
Chương 2: Ý thức phái tính và hành trình tìm lại bản ngã trong truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện ý thức phái tính trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ
Cuối cùng là danh mục Tài liệu tham khảo.


11

Chương 1
Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Khi trình bày luận văn chúng tôi chọn từ “phái tính” thay cho từ “giới
tính” vì theo quan niệm của chúng tôi, nó mang ý nghĩa tổng quát hơn. Khái
niệm phái tính xoáy vào sự khác biệt về giới tính. Phái tính chỉ sự liên kết
giữa giới và những bản tính đặc trưng cho từng phái riêng biệt. Ý thức về phái
tính trở thành một nội dung quan trọng trong đời sống thế giới hiện đại. Trong
chương này, nội dung trọng tâm mà chúng tôi hướng đến là sự khẳng định ý
thức phái tính như một đặc điểm tư duy trong sáng tác nữ gần đây. Để khẳng
định được điều đó, chúng tôi phải tìm ra một cơ sở lý luận và thực tiễn cho

vấn đề này. Cơ sở lý luận là những quan niệm về phái tính trong tiến trình lịch
sử nhân loại. Thực tiễn của nó chính là sự xác lập ý thức phái tính trong đời
sống và trong văn học, văn học thế giới nói chung cũng như văn học Việt
Nam nói riêng. Đôi khi, lý luận và thực tiễn đan cài nhau. Sự khảo
cứu của chúng tôi trong chương này chỉ là một trong những lối đi vào vấn đề
ý thức phái tính.
1.1. Giới thuyết về phái tính và nữ quyền
Người ta có thể trình bày về phái tính trên các bình diện triết học, đạo
đức học, sinh học, xã hội học, tâm lý học… rồi đến văn học. Chúng tôi, bằng
cách tổng hợp các bình diện ấy, nhìn nhận phái tính và ý thức phái tính qua
tiến trình vận động của nó. Từ những quan niệm có tính truyền thống về phái
tính đến sự nổi dậy của ý thức phái tính, cuối cùng là một ý thức mới về phái
tính. Trong hệ thuật ngữ liên quan đến phái tính, chúng tôi tạm đưa ra công
thức dịch: Phái tính = phái (gender) + giống/giới/giới tính (sex). Như vậy,
phái nam = nam giới (the male sex) + masculinity (tính nam/bản tính nam);
phái nữ = nữ giới (the fair sex) + femility (tính nữ/bản tính nữ). Đến nay,


12

trong từ điển tiếng Việt cũng như một số từ điển ngoại ngữ khác không hề có
một thuật ngữ nào với hàm nghĩa khái quát như thế. Mặc dù vậy, phái tính và
ý thức phái tính đã, đang và vẫn sẽ luôn hiện hữu trong mọi lĩnh vực của đời
sống con người.
1.1.1. Những quan niệm về phái tính và ý thức phái tính
Theo Kinh thánh, Thượng Đế sáng tạo ra thế giới trong vòng 7 ngày
với đủ biển cả, ao hồ, sông suối, chim muông. Trong ngày thứ 7, Người nghĩ
thêm ra một loài động vật mà Người cho là “sẽ hoàn hảo nhất trong các loại
động vật”. Và chàng Adam xuất hiện từ đó. Để tránh cho Adam khỏi buồn bã
nơi vườn Địa Đàng, Thượng Đế đã dùng một “cái xương sườn thừa của ông

Adam” (do thiếu nguyên liệu!) để tạo nên con người thứ hai là Eva làm bạn
đồng hành. Mắc lỗi lầm do ăn “trái cấm” ở vườn Địa Đàng, Adam và Eva bị
Đấng tối cao đày xuống mặt đất, bắt sống cuộc sống như những sinh vật khác
(sẽ phải tự kiếm ăn, sẽ già đi, sẽ bị bệnh tật rồi trở về với cát bụi). Và hình
phạt lớn nhất mà Thượng đế đặt lên Eva là hàng tháng sẽ phải mất đi một
lượng máu từ trong cơ thể, sẽ phái mang nặng, đẻ đau,…
Với những suy tư trên phương diện triết học, đại triết gia Aristote xác
quyết rằng đàn bà tự bản chất đã thấp kém hơn đàn ông. Aristote cho rằng đàn
bà chỉ là vật chất, phát triển một cách bừa bãi, hỗn loạn nếu không có đàn
ông, nhờ có những hạt giống của họ, mang đến cho các vật chất này hình thái,
mặt mũi:
“Giống cái (female) là giống cái do thiếu thốn các đặc tính nào đó;
chúng ta nên xem bản tính giống cái như bị đau buồn vì sự khiếm khuyết tự
nhiên” [1, tr.321].
Kể từ sau Aristote, có rất nhiều triết gia, thần học gia, trí thức, văn sĩ,…
đã lặp đi lặp lại ý kiến trên như thể là một định đề toán học hay một định luật
hóa học, vật lý. Chính vì là “phần phụ”, “phần thừa ra” từ thân thể Adam nên


13

các Eva luôn ở thế lệ thuộc, phải phục tùng đàn ông, trở thành “phái yếu” (the
weaker sex). Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, một nửa nhân loại tự mệnh
danh là “phái mạnh” (the stronger sex) đã xây dựng một mô hình xã hội theo
sở thích, nhu cầu và quyền lợi của riêng mình. Dĩ nhiên, trong cái trật tự và
khuôn khổ của một xã hội theo “hình ảnh người đàn ông” này thì không có
chuyện bình quyền về phái tính. Phụ nữ luôn là người chịu nhiều thiệt thòi, bị
chèn ép, khinh miệt và bị bóc lột. Ở phương Tây, tín đồ Do Thái không bao
giờ khởi đầu một nghi lễ phụng tự khi xung quanh chưa hội đủ bảy người đàn
ông mặc dù có sự hiện diện của cả trăm ngàn người phụ nữ tại đó. Còn ở

Pháp, chỉ cách đây vài thế kỷ, người phụ nữ thượng lưu vẫn còn bị cột chặt
trong cái “vòng đai trinh tiết”; và thậm chí ở một nước dân chủ tiên phong
như Hoa Kỳ thì quyền bầu cử của phụ nữ cũng chỉ được áp dụng từ đầu thể
kỷ XX mà thôi.
Sự phân biệt phái tính không chỉ tồn tại trong tư duy và trong đời sống
xã hội mà còn được thể hiện ngay trong ngôn ngữ. Nền văn hóa phương Tây
được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là nền văn hóa gia trưởng, trọng nam.
Nền văn hóa ấy được thể hiện rất rõ qua cấu trúc ngôn ngữ thông qua các cặp
đối lập. Người ta có thể thấy ngay một sự thật hiện hữu là ngôn ngữ chỉ phụ
nữ phái sinh ngay trên bề mặt, kết cấu ngôn ngữ chỉ nam giới. Trong tiếng
Anh, chữ “man” vừa có nghĩa là đàn ông vừa có nghĩa là nhân loại. “Man” là
gốc, từ đó nảy sinh ra nhánh “woman” (đàn bà); Mr (ông) là gốc, từ đó nảy
sinh ra Mrs (bà); và cuối cùng, “male” (nam) phái sinh “female” (nữ). Như
vậy, khởi nguồn từ cặp nam – nữ, trong ngôn ngữ châu Âu hình thành những
cặp đối lập tương ứng như trật tự - hỗn loạn, hiển ngôn – im lặng, hiện diện –
vắng mặt, nói – viết, sáng – tối, lành mạnh – nguy hại, thuần lý – phi lý,…
trong đó tất cả những mỹ từ đều thuộc về đàn ông, dành cho đàn ông.


14

Quan niệm trọng nam khinh nữ theo thời gian, dần ăn sâu vào tâm thức
người dân phương Đông. Thực tế, Nho giáo không chỉ biến phụ nữ thành món
đồ sở hữu của phái nam, trở thành những “con ở” không công mà còn hạ thấp
phẩm giá, năng lực của người phụ nữ bằng những quy định hà khắc: không
cho phép phụ nữ đi học, tham gia Khoa cử và đặc biệt là không thể làm quan.
Và như vậy, sự nông nổi, thấp kém, ngu muội, dốt nát của đàn bà không phải
là do yếu tố cá nhân mà nằm sâu ở vấn đề “phái tính”.
Sự phân biệt phái tính cũng được thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ
phương Đông. Nền văn hóa Âm – Dương này coi những gì thuộc Dương là

đàn ông, còn những gì thuộc Âm là phụ nữ. Những cặp từ phái sinh tương
ứng như mặt trời- mặt trăng, ngày – đêm, nóng – lạnh, lửa – nước, chủ động –
bị động,… cũng chính là kết quả của lối tư duy thống trị bởi nam giới.
1.1.2. Ý thức phái tính và sự xuất hiện của Chủ nghĩa nữ quyền
Các quan niệm truyền thống cho rằng: thứ nhất, phụ nữ là kẻ phái sinh,
lệ thuộc và phục tùng đàn ông. Ngay cả trong ngôn ngữ, hệ thống văn hóa
tượng dương vật lấy đàn ông làm trung tâm. Thứ hai, tính nữ được quy định
bởi đặc điểm giống phái. Trong một xã hội, phái nam được xã hội hoá thành
nam tính, trong khi phái nữ được dạy bảo thành nữ tính. Sự định hướng giới
tính như thế càng gắn chặt người nữ trong vị thế kẻ thứ yếu. Thứ ba, Mỹ học
về phụ nữ nhiều khi là hình thức của sự khổ hạnh. Thực tế cho thấy trong nền
văn hóa phụ quyền, cái đẹp về thể xác, tâm hồn của họ đều bị quy định bởi
quan niệm của nam giới.
Trước sự mất tự chủ hay là sự bị tước đoạt vị thế xã hội ở mọi phương
diện như thế, giới nữ đã nổi dậy. Sự nổi dậy của ý thức phái tính gắn liền với
chủ nghĩa nữ quyền (Féminisme, Feminism). Tuy vậy, giới nữ không chỉ
tranh đấu cho nữ quyền, cái mà họ hướng đạt nhất là bản thể của mình, bản
thể được sống với tất cả sự tự do giới tính. Hai biểu hiện cơ bản nhất của ý


15

thức phái tính - nữ chính là ý thức về bản thể - nữ và ý thức về diễn ngôn của
phái nữ. Về mặt bản thể - nữ, Simone de Beauvoir trong tác phẩm Giới thứ
hai nhận ra Người ta không phải bẩm sinh là đàn bà, mà trở thành đàn bà (On
ne nait pas femme, on le devient). Điều ấy có nghĩa những sự khác biệt sâu
sắc của hoàn cảnh phụ nữ không thể nào trực tiếp làm cho phụ nữ trở thành lệ
thuộc vào đàn ông, mà do sự tham gia của yếu tố văn hóa, và do chính ý thức
cá nhân trên con đường đến với sự tự do. Về mặt diễn ngôn của phái nữ,
Hélène Cixous trong bài viết Nụ cười của Méduse tuyên bố một lối viết có sự

hợp nhất: Sexts = sex + texts, hàm ý phụ nữ hiện hữu về mặt tình dục, thể xác
cũng như về mặt văn bản. Bởi theo Cixous, chỉ có cách viết ấy, giới nữ mới
bảo đảm cho mình một chỗ đứng trong xã hội. Khi ý thức phái tính bước qua
giai đoạn đòi được khẳng định bản tính của mình, Chủ nghĩa nữ quyền đã cam
kết sự tái hội nhập nam tính và khẳng định mọi người đều có khả năng phát
triển tất cả những đặc điểm ưu trội 8 của tính nam và tính nữ. Tính ái nam ái
nữ hay là sự hội nhập phái tính được đẩy đi xa hơn bằng vấn đề đồng tính.
Như vậy, đàn ông có thể giả tính dục nữ và đàn bà có thể giả tính dục nam.
Và như thế, câu hỏi về phái tính có trở nên mất ý nghĩa? Chúng tôi cho rằng
có thể đấy cũng là câu hỏi quan trọng được đặt ra, nhưng hiện tại, ý thức phái
tính trong văn học vẫn đặc biệt quan trọng và thú vị, nó cần thiết để mở ra con
đường đi tới những diễn ngôn sáng tạo của văn chương.
Như chúng tôi đã đề cập ở trên, những quan niệm mang tính truyền
thống về phái tính ở cả phương Đông và phương Tây đã khiến cho người phụ
nữ trở thành kẻ lệ thuộc. Tư tưởng phụ nữ là “phái yếu”, là “kẻ phụ thuộc”, là
những kẻ dốt nát, ngu muội và “khó dạy” không phải chỉ là “cái tròng” mà
chế độ nam quyền gắn vào cổ những người phụ nữ, mà đôi khi do chính
người phụ nữ công nhận, tự đặt nó lên cổ mình. Không phải ngẫu nhiên mà ở
trên tận thiên đàng, những người phụ nữ phương Tây vẫn không dứt ra khỏi


16

“nghiệp chướng” của đời mình là trở thành kẻ phục vụ, phục tùng nam giới. Ở
phương Đông, cũng không phải ngẫu nhiên mà những luật lệ hà khắc của Nho
giáo như những sợi dây vô hình siết chặt đời sống người phụ nữ cả về thể xác
lẫn tinh thần (Trung Quốc, Việt Nam,…) và rồi để cả thế giới nhìn nhận và
coi đức tính “tùng – thuận” là hình ảnh tiêu biểu, đặc trưng của người phụ nữ
(Nhật Bản).
Bước sang cuộc sống hiện đại, khi đa số phụ nữ đi làm, giá trị của

người phụ nữ dần dần tỉ lệ thuận với những đóng góp của họ về kinh tế, văn
hóa đối với gia đình và xã hội. Họ bắt đầu ý thức về bản thân mình, nhìn nhận
lại mình và đi tìm lại bản sắc. Công cuộc đi tìm bản sắc nữ kết thúc bằng lời
khẳng định bất hủ của nữ văn sĩ người Pháp Simone de Beauvoir trong tác
phẩm “Le Deuxième Sexe” (Giới thứ hai) được xuất bản vào năm 1949: “On
ne nait pas femme, on le devient” (Người ta không bẩm sinh là đàn bà, mà trở
thành đàn bà). Theo nhiều nhà nghiên cứu thì tác phẩm này chính là một mũi
tên bắn trúng vào thành trì của bản thể luận cho rằng “phụ nữ sinh ra đã là
phụ nữ”. “Giới thứ hai” có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự
phát triển của Chủ nghĩa nữ quyền trong xã hội hiện đại.
Có thể chia phong trào nữ quyền trên thế giới thành ba giai đoạn: Giai
đoạn thứ nhất được đánh dấu bằng sự kiện xảy ra vào tháng 10 năm 1789 khi
một nhóm phụ nữ xông vào trụ sở Quốc dân đại hội ở Paris, đòi quyền bình
đẳng nam nữ ngay sau khi Đại cách mạng Tư sản Pháp bùng nổ. Từ đó, nhiều
phong trào đòi quyền bình đẳng nam nữ diễn ra liên tiếp ở nhiều nơi trên thế
giới cho đến tận đầu thế kỷ XX. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn từ đầu thế kỷ
XX đến khoảng đầu thập kỷ 60 khi các lý thuyết nữ quyền xuất hiện, phát
triển sôi động và kết quả của nó là đại đa số các nước trên thế giới đều xác
định nam nữ bình quyền trong Hiến pháp. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn từ
khoảng cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 đến nay với sự phát triển mạnh mẽ


17

của lý thuyết phê bình nữ quyền, đòi bình đẳng nam nữ trên nhiều phương
diện của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế đến văn học, nghệ thuật.
Trong văn học, các nhà nữ quyền thuộc “thế hệ thứ ba” đã cố gắng xác
lập những cách thức, phương pháp viết và đọc văn chương cho riêng phụ nữ.
Barbara Johnson cho rằng “Vấn đề giới tính thực chất là vấn đề ngôn ngữ”
[36]. Trường phái nữ quyền Anh – Mỹ thời kỳ này chú trọng đến nền văn

chương của chính nữ giới với việc đề cao người đọc, người viết là nữ giới và
về nữ giới. Các nhà phê bình nữ quyền luận Pháp lại chú ý đến vấn đề cấu
trúc luận. Ở đó, họ tìm kiếm những cách thức khả thể cho cách viết của nữ
giới, đặt trọng tâm vào một lối viết “thân thể” với những đặc trưng chỉ nữ giới
mới có, để phân biệt với nam giới. Thuật ngữ “Écristure féminine” (lối viết
nữ) được coi là diễn ngôn chính thức của nữ giới trong thời kỳ này. Các tác
giả nữ dùng ngôn ngữ như một phương tiện hữu hiệu để tìm lối thoát, để “cởi
trói” và để khẳng định vai trò của mình trong đời sống xã hội và trong nghệ
thuật.
1.2. Ý thức phái tính và vấn đền nữ quyền trong văn học Việt Nam thời
kì đổi mới
Ở Việt Nam, ý thức phái tính đã được manh nha hình thành trong lý
luận phê bình văn học đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, phải từ năm 1986 trở đi, âm
hưởng nữ quyền trong văn học mới thực sự được các nhà văn, nhà phê bình
và độc giả chú ý.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu mới đây, ý thức phái tính được đánh
thức bởi chính các “nữ sĩ tiên phong cổ xúy phong trào nữ quyền qua hoạt
động báo chí và văn học” như Hằng Phương, Sương Nguyệt Anh, Phan Thị
Bạch Vân [26]. Tuy nhiên, những bài viết có tính chất tìm hiểu mối quan hệ
giữa văn học với phụ nữ chỉ bắt đầu xuất hiện từ những năm 1929, 1930 trên
tờ Phụ nữ tân văn, khi Phan Khôi mở chuyên mục “Văn học với nữ tánh”.


18

Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, phụ nữ trở thành trung tâm của
cuộc bàn luận văn chương. Phan Khôi khẳng định phải có một nền văn học
của nữ giới, tuy nhiên khẳng định của ông mới dừng lại ở cấp độ định đoán:
“Theo trình độ tiến hóa của loài người ngày nay, thì về phe phụ nữ ta cũng
phải có một nền văn học. Bởi vì trải xem cái tình thế trong các nước hiện thời,

loài người đã gần đến ngày bình đẳng rồi, bên nam bên nữ cũng đều gánh vác
công việc với xã hội như nhau, thì sự học vấn tri thức, có lẽ đâu chỉ để riêng
cho đờn ông mà thôi hay sao?” [20]. Theo Phan Khôi, viết văn cũng là một
thiên chức của đàn bà, vì đàn bà “có nhiều tư cách rất là thích hiệp với văn
học” như “tánh trầm tĩnh, nhẫn nại”, hơn nữa, “văn học chuyên trọng về
đường tình cảm” mà đàn bà “là giống có tình cảm nhiều hơn đờn ông” [21].
Ông nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai khái niệm “nữ tánh” “nghĩa nó là giống
đàn bà (sexeféminin)” với “cái tánh của đàn bà” (caractère de femmes) [22].
Sự phân biệt ấy giống như sự phân biệt giữa khái niệm “phái tính” và “nữ
tính” sau này. Có thể nói, những bài viết của ông mở ra một giả thuyết văn
học thú vị và có sức khai phá. Tuy nhiên, qua cách đặt tên và tiêu đề bài viết:
Về văn học của phụ nữ Việt Nam, Văn học với nữ tánh, Lại nói về vấn đề văn
học với nữ tánh… chúng ta thấy với Phan Khôi: phụ nữ, nữ tánh đứng ở vế
sau của văn học, nó mới chi phối văn chương chứ chưa phải là chủ thể sáng
tạo văn chương.
Từ giữa năm 1999 với nhiều chuyên đề liên quan đến phái tính trong
văn học có sức lan tỏa rất nhanh trên văn đàn, nhất là ở ngoài nước. Do có sự
tiếp xúc với chủ thuyết nữ quyền, dòng văn học hải ngoại có bước đột phá rất
ngoạn mục trong việc nghiên cứu về phái tính. Những chuyên đề như Tình
yêu, tình dục và phái tính trong văn học, Tình yêu tình dục của Tạp chí Việt,
chuyên đề Văn học nữ quyền, chuyên đề Giới tính trên trang DaMau.org…
liên tiếp mở ra nhiều khám phá. Những bài viết có tính dẫn nhập lý thuyết còn


19

chỉ ra sự khu biệt nam – nữ về ngôn ngữ. Trong Văn tự và phái tính [152], Tú
Ân dẫn giải giả thuyết về sự xuất hiện văn tự của bác sĩ Leonard Shlain: Theo
Leonard Shlain, nam tính đã trở thành một đặc trưng của xã hội kể từ ngày
một phần đông dân số học đọc và học viết. Chữ viết vốn gắn liền với tư duy

phân tích và tư duy phân tích lại gắn liền với bán cầu bên trái của não bộ.
Trong khi đó nữ tính lại gắn liền với bán cầu bên phải. Bán cầu bên phải phối
hợp cảm xúc, ghi nhận hình ảnh và thưởng thức âm nhạc. Vì thế, tục thờ nữ
thần, các giá trị mang nữ tính và quyền lực của phụ nữ nảy nở tương ứng với
sự tràn ngập của các hình ảnh. Tục thờ nam thần, các giá trị nam tính cũng
như chế độ phụ hệ nổi lên cùng lúc với chữ viết. Coi chữ viết chủ yếu là sản
phẩm của nam giới là sự thừa nhận của hầu hết các tác giả khi dẫn lại những
nghiên cứu về ngôn ngữ học và văn hóa học phương Tây. Phan Việt Thủy dẫn
ra sự kỳ thị phái tính trong ngôn ngữ: “ngôn ngữ mà chúng ta hiện đang sử
dụng, với tư cách là một hệ thống (linguistic system) cũng như với tư cách là
một hoạt động (linguistic performance), chủ yếu là sản phẩm của nam giới,
trong một xã hội phụ quyền, phản ánh những giá trị và những chuẩn mực văn
hóa của đàn ông”. Một cách vô ý thức, cái đọc của phụ nữ cũng bị nam hóa
đi: họ đọc như là những người đàn ông đọc, cho nên không nhận ra cả những
cách nhìn đầy bất công trong đó chính mình là nạn nhân. Do đó, cái chúng ta
thiếu không phải chỉ là những tác giả nữ mà là những người đọc nữ”. Như
vậy, sáng tạo của người viết nữ là phải biết giải phóng mình ra khỏi ràng
buộc của sự kỳ thị phái tính trong ngôn ngữ. Đọc họ, chúng ta phải có những
tiêu chí đánh giá mới, thoát khỏi sự chi phối của hệ thống ngôn ngữ phụ
quyền.
Từ khoảng thời gian năm 2006 khi những nghiên cứu về phái tính trong
văn học nữ trong nước xuất hiện ngày một nhiều. Có ba khuynh hướng chính:
khuynh hướng thứ nhất nghiên cứu văn học nữ thiên về dục tính/sex, khuynh


20

hướng thứ hai nghiên cứu văn học nữ thiên về nữ tính/thiên tính nữ, khuynh
hướng thứ ba nghiên cứu văn học nữ trên bình diện văn học nữ quyền.
Ở khuynh hướng năm 2006, sau sự ra đời hàng loạt tác phẩm gây shock

trên văn đàn, trên các báo, các trang mạng lập tức xuất hiện nhiều bài viết về
sex trong văn học nói chung và trong văn học nữ nói riêng. Trang Vietnamnet
mở cả một chuyên đề về Sex trong văn học. Nói là chuyên đề nhưng thực ra
các cây bút góp mặt lại viết khá tản mản bằng những quan điểm chủ quan và
không có sự phân tích một cách chi tiết, cụ thể. Đối tượng chủ yếu mà các tác
giả hướng tới là sex trong văn học nữ. Những bài như: Tính dục trong văn học
hôm nay, Dục tính và những ranh giới mong manh (Nguyễn Huy Thiệp), Văn
học sex: chấp nhận để tìm cách đổi khác?(Vương Trí Nhàn), Lịch sử - văn
hóa và sex trong văn chương (Nguyễn Hòa), Tính dục đơn thuần chỉ ở cấp
thấp (Lê Đạt), Các cây bút nữ giữa trào lưu sex (Tâm Huyền), Tình dục trong
văn chương đương đại: Chuyện không có gì mà ầm ĩ thế (Võ Thị Hảo), Sex
trong văn học trẻ thoái trào (Phương Quyên)… Hầu hết, sex được nhìn như
một “ngoại động từ”, một hành động bên ngoài để “khiêu dâm”, đánh giá về
sex trong văn học hoàn toàn dựa vào quan điểm đạo đức (tất nhiên là nền đạo
đức truyền thống bị chi phối bởi nam giới). Có người nhìn sex như một
“ngoại động từ” mà xét đoán cao trào hay thoái trào của nó. Nhưng sex trong
văn học là một “nội động từ”, là một phương diện thuộc về phái tính, vì thế
nó không có cao trào hay thoái trào. Chưa nâng được vấn đề sex trong văn
học nữ thành vấn đề phái tính, mặt khác chỉ nhìn các cây bút nữ đương đại
với góc độ sex, đó chính là khuynh hướng có khả năng đánh đồng phái tính là
dục tính.
Ở khuynh hướng thứ hai, các bài nổi bật nhất là: Vấn đề phái tính và
âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại của Nguyễn Đăng
Điệp [8], Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương đại của Nguyễn Thị Bình


×