Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay thực trạng,vấn đề và giải pháp (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 118 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ SƯƠNG

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH ĐỒNG THÁP HIỆN
NAY- THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ SƯƠNG

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH ĐỒNG THÁP HIỆN
NAY- THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒ ANH DŨNG


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của TS. Hồ Anh Dũng.
Nội dung luận văn có sự kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước, với những
trích dẫn và sử dụng tài liệu trong giới hạn cho phép.
Các kết quả luận văn chưa được công bố trong các công trình nào khác. Các số
liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn.

Hà Nội, ngày……tháng…..năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Sương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương : LÝ LUẬN CHUNG VỀ NÔNG THÔN, NÔNG THÔN MỚI VÀ XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI .......................................................................................... 8
1.1. Khái niệm nông thôn và nông thôn mới .................................................................8
1.2. Khái niệm xây dựng nông thôn mới....................................................................... 13
1.3. Vai trò của việc xây dựng nông thôn mới đối với quá trình phát triển kinh tế- xã
hội .............................................................................................................................. 30
Chương 2: THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH ĐỒNG THÁP GIAI ĐOAN HIỆN NAY ................. 34
2.1. Những điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội ảnh hưởng tới quá trình xây dựng nông
thôn mới ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay ..........................................................................34

2.2 Thực trạng, nguyên nhân và vấn đề đặt ra đối với quá trình xây dựng nông thôn mới
ở Tỉnh Đồng Tháp ......................................................................................................40
2.3 Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh quá trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh
Đồng Tháp trong thời gian tới ....................................................................................67
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 77
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân có vai trò to lớn từ trong quá trình lịch sử
hình thành quốc gia dân tộc và trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Qua các giai đoạn cách mạng, nông dân luôn là lực lượng hùng
hậu, một lòng theo Đảng, góp phần làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã có những bước
phát triển khá toàn diện và to lớn nhưng đồng thời trong quá trình phát triển, dưới
sự tác động ngày càng mạnh mẽ của quá trình hội nhập quốc tế và biến đổi khí
hậu,... đã nảy sinh nhiều vấn đề cả lý luận và thực tiễn cần được chú ý quan tâm
giải quyết, khắc phục những tồn tại, đẩy mạnh hơn nữa công cuộc phát triển nông
nghiệp nông thôn. Để triển khai thực hiện Nghị Quyết 26-NQ/TW của Ban Chấp
hành Trung ương và sau khi triển khai thí điểm ở một số địa phương Thủ tướng
chính phủ đã kết luận trong 6 năm qua Chính phủ cùng các Bộ, nghành, cấp ủy,
chính quyền các cấp, cả hệ thống chính trị và nhân dân cả nước đã chung sức, đồng
lòng tích cực thực hiện Chương trình và đạt nhiều kết quả quan trọng, thu nhập và
đời sống của người dân nông thôn ngày càng được nâng cao; bộ mặt nông thôn
được đổi mới, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội được cải thiện và nâng cấp rõ rệt, hệ
thống chính trị cơ sở tiếp tục được củng cố… Để thực hiện đúng mục tiêu do nghị
quyết số 100/2015/QH13 của Quốc hội khóa 13 đề ra đến năm 2020 có 50% số xã

trên cả nước đạt tiêu chuẩn nông thôn mới, không còn xã dưới 5 tiêu chí, phấn đấu
mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có ít nhất một huyện đạt nông thôn mới.
Đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cả hệ thống chính trị của chúng ta phải nỗ
lực thực hiện và để tăng cường hiệu lực, hiệu quả, bền vững mục tiêu xây dựng
nông thôn mới theo Nghị quyết số 26/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 15
tháng 2 năm 2016 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc
vận động “ Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, Quyết
định 1600/QĐ-TTg ngày 16 tháng 8 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về chương
1


trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020. Chính vì vậy
xây dựng nông thôn mới đã và đang được triển khai thực hiện ở hầu hết các vùng
nông thôn trong cả nước nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng.
Đồng tháp là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông cửu Long có nền nông nghiệp
phát triển, có đến 119 xã nông thôn/ tổng số 144 xã, phường, thị trấn. Nông nghiệp
được coi là nghành kinh tế quan trọng và phân bố rộng khắp trên toàn tỉnh, khá phát
triển với hơn 80% dân số sống ở nông thôn, nhưng sự phát triển đó chưa đồng bộ và
tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Đồng Tháp cũng như xu hướng của thời đại.
Sau 6 năm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trong
điều kiện hết sức khó khăn về cả nguồn nhân lực và cơ chế chính sách, nhưng thực
tế đã khẳng định chủ trương chương trình xây dựng nông thôn mới là chủ trương
hợp lòng dân nên sớm đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình ủng hộ, hệ thống
chính trị vào cuộc một cách đồng bộ và quyết liệt. Đến nay đã có 100% xã đã hoàn
thành quy hoạch, đề án xây dựng nông thôn mới; sản xuất nông nghiệp tiến dần
sang sản xuất quy mô lớn, gắn liền với tiêu thụ (điển hình mô hình liên kết sản xuất
lúa bao tiêu lúa gạo ở Xã Phú Đức Huyện Tam Nông, mô hình liên kết tiêu thụ xoài
ở huyện Cao Lãnh). Bên cạnh những kết quả rất quan trọng đã đạt được, công tác
xây dựng nông thôn mới ở Đồng Tháp vẫn còn những khó khăn, hạn chế: tiến độ

triển khai nói chung còn chậm so với mục tiêu, yêu cầu, nhận thức về Chương trình
xây dựng nông thôn của một số cơ sở, nghành, huyện, thị xã, thành phố chưa đầy
đủ, việc quan tâm của các cấp ủy, chính quyền ở một số nơi chưa thường xuyên, sâu
sát; các nội dung về phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu nông nghiệp ảnh hưởng
đến tiến độ hoàn thành mục tiêu chương trình xây dựng nông thôn mới của tỉnh, để
đánh giá một cách chân thực về thực trạng của Chương trình mục tiêu Quốc gia Xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, tôi đã chọn đề tài “ Xây dựng
nông thôn mới ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay- thực trạng,vấn đề và giải pháp” để làm
đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết Học nhằm đề xuất một số giải pháp cho
tỉnh Đồng Tháp trong thời gian tới.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, vấn đề xây dựng nông thôn mới luôn được nhà nước
chính quyền các cấp, các bộ, nghành quan tâm. Đến nay, đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề nông thôn và xây dựng nông thôn mới của các nhà khoa học
các luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nhưng ở những góc độ và khía cạnh khác
nhau. Có thể phân thành những hướng cơ bản sau:
Hướng thứ nhất, những công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn Việt Nam gồm có:
Đặng Kim Sơn trong cuốn: “ Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam
hôm nay và mai sau” [49]. Đã làm rõ thực trạng các vấn đề nông nghiệp, nông dân
nông thôn hiện nay; những thành tựu, khó khăn, vướng mắc còn tồn tại. Xuất phát
từ thực tiễn, tác giả đã đề xuất những định hướng và kiến nghị chính sách nhằm đưa
nông nghiệp, nông dân, nông thôn ngày càng phát triển.
Tác giả Phạm Xuân Nam, với cuốn: “ Phát triển nông thôn” [40]. Đã phân tích
sâu sắc một số nội dung về phát triển kinh tế- xã hội nông thôn ở nước ta như: dân
số, lao động, việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vấn đề sử dụng và quản lý nguồn

lực tài nguyên thiên nhiên, vấn đề phân tầng xã hội và xóa đói giảm nghèo. Tác giả
đã phân tích những thành tựu, hạn chế, vấn đề đặt ra trong phát triển nông nghiệp,
nông thôn nước ta đồng thời việc hoàn thiện hệ thống chính sách và cách thức chỉ
đạo của Nhà nước trong quá trình vận động của nông thôn.
Trần Ngọc Ngoạn, trong cuốn sách “ phát triển nông thôn bền vững những vấn
đề lý luận và kinh nghiệm thế giới” [41]. Đã làm rõ được những vấn đề: phát triển
nông thôn bền vững- một yêu cầu phát triển mới của các quốc gia trên thế giới;
khung khổ lý thuyết làm cơ sở cho phát triển bền vững nông thôn và một số kinh
nghiệm quốc tế trong việc ứng dụng các phương pháp nhằm phát triển bền vững
nông thôn. Trong đó, phát triển nông thôn bền vững được đề cập trên 3 trụ cột chính
một là, phát triển bền vững kinh tế nông thôn; hai là, phát triển bền vững xã hội học
nông thôn; ba là, tăng cường bảo vệ, quản lý môi trường tự nhiên.

3


Đào Thế Tuấn trong: “Về vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta
trong thời kỳ mới” cho rằng, cần coi trọng vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong
thời kỳ đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; muốn phát triển nông nghiệp, nông
thôn phải phát huy nội lực, phát triển các hoạt động phi nông nghiệp, bảo đảm
quyền sở hữu ruộng đất, phát triển các hình thức hợp tác xã nông nghiệp, nông thôn
[57, tr. 45-53].
Hướng thứ hai, những công trình nghiên cứu về nông thôn mới và xây
dựng nông thôn mới ở Việt Nam tiêu biểu cho hướng này, có các công trình:
Vũ Văn Phúc và các cộng sự trong cuốn: Xây dựng nông thôn mới những vấn
đề lý luận và thực tiễn do nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, ấn hành năm
2012. Đã nêu những vấn đề về lý luận chung về xây dựng nông thôn mới; kinh
nghiệm quốc tế về xây dựng nông thôn mới; những chủ trương đường lối của Đảng
và Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn, nông dân và xây dựng nông thôn mới
Thực tiễn xây dựng nông thôn mới ở các địa phương ở Việt Nam: những kết quả đạt

được, những hạn chế và những vấn đề đặt ra trong triển khai thực hiện Chương trình
mục tiêu Quốc Gia xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở đó đề xuất các nội dung
giải pháp: công tác tuyên truyền; tổ chức sản xuất; phát triển kinh tế nông thôn; giải
quyết những mâu thuẫn ở nông thôn; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và xây dựng
người nông dân mới chủ thể của nông thôn, là hạt nhân để xây dựng nông thôn mới.
Đây là tài liệu tham khảo rất bổ ích về xây dựng nông thôn mới mặc dù các khái
niệm, nội dung, giải pháp và kinh nghiệm các địa phương còn mang tính chất chung
chung chưa thực sự rõ ràng [46].
Phan Xuân Sơn và Nguyễn Cảnh với bài viết “ xây dựng mô hình nông thôn
mới ở nước ta hiện nay” [51]. Phân tích 3 vấn đề: thứ nhất nông thôn Việt Nam
trước yêu cầu mới; thứ hai, hình dung ban đầu về những tiêu chí của mô hình nông
thôn mới; thứ ba, về những nhân tố chính của mô hình nông thôn mới như: kinh tế,
chính trị, văn hóa, con người, môi trường… các nội dung trên trong cấu trúc mô
hình nông thôn mới có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nhà nước đóng vai trò chỉ
đạo, tổ chức điều hành quá trình hoạch định và thực thi chính sách, xây dựng đề án,
4


cơ chế, tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực tạo điều kiện, động
viên tinh thần. Nhân dân tự nguyện tham gia, chủ động trong thực thi và hoạch định
chính sách.
Tác giả Nguyễn Sinh Cúc trong bài: “Vài nét về xây dựng nông thôn mới ở
Hải Phòng” đã nêu lên một số kết quả bước đầu trong xây dựng nông thôn mới ở
Hải Phòng thời gian qua. Trên cơ sở đó tác giả nêu lên những hạn chế như: Trong
triển khai thực hiện còn lúng túng, chậm, không đồng bộ; kết quả đạt được chưa
tương xứng với chủ trương lớn của Đảng, chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh
của Hải Phòng. Đồng thời tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế cả về
chủ quan và khách quan. Từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp đối với Hải Phòng
đối với Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới của Trung ương nhằm thực hiện tốt
chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới [32, tr. 23- 31].

Ngoài ra còn có nhiều bài viết trên các tạp chí như tạp chí cộng sản, tạp chí
nghiên cứu lý luận và trên các báo, cũng như nhiều nhà khoa học nghiên cứu phân
tích đánh giá thực trạng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đề xuất các phương
hướng, giải pháp xây dựng nông thôn mới cụ thể là: Luận giải sự cần thiết của công
cuộc xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay; Nêu vai trò, nội dung, nguyên
tắc của việc xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam nói chung và một số địa phương
nói riêng; Phân tích thực trạng xây dựng nông thôn mới ở nước ta nói chung, cũng
như ở một số tỉnh nói riêng trên một số khía cạnh để thấy được những thành tựu đạt
được và những hạn chế cần tập trung giải quyết.
Nhìn chung, các công trình khoa học đã công bố có nhiều nghiên cứu về lý
luận và thực tiễn về xây dựng nông thôn mới, chưa đưa ra được giải pháp cụ thể để
thực hiện các tiêu chí trong chương trình xây dựng nông thôn mới; đặc biệt chưa có
công trình nghiên cứu nào đề cập đến việc xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Đồng
Tháp.

5


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần đẩy mạnh quá trình xây dựng nông thôn mới tại tỉnh Đồng Tháp
trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích làm rõ lý luận chung về nông thôn, nông thôn mới và xây
dựng nông thôn mới, phân tích nội dung cơ bản của “Bộ tiêu chí xây dựng nông
thôn mới ở Việt Nam”.
Thứ hai, Phân tích thực trạng xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Đồng Tháp,
nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề còn đang đặt ra.
Thứ ba, đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh
tiến độ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Đồng Tháp trong thời

gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Qúa trình xây dựng nông thôn mới tại tỉnh Đồng
Tháp
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: đề tài nghiên cứu vấn đề xây dựng nông thôn mới ở tỉnh
Đồng Tháp
Phạm vi không gian: một số huyện đạt cả 19 tiêu chí, một số huyện đạt trên
50% trong tổng số các tiêu chí xây dựng nông thôn mới của tỉnh Đồng Tháp
Phạm vi thời gian: nghiên cứu xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Đồng Tháp từ
năm 2011 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ Nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; các quan điểm cơ bản của Đảng Cộng Sản Việt Nam về nông thôn, nông thôn
mới và xây dựng nông thôn mới.

6


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phối hợp các phương pháp: trừu tượng hóa và khái quát
hóa, phân và tích tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh và đối chiếu; đồng thời sử
dụng phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê. Luận văn kế thừa kết
quả nghiên cứu của một số công trình khác
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ những khái niệm nông thôn, nông thôn mới, xây
dựng nông thôn mới. Luận văn góp phần làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa nông
nghiệp- nông dân- nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam

hiện nay. Từ đó góp phần làm rõ vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong quá
trình xây dựng nông thôn mới, cũng như trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất
nước.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần xây dựng cơ sở lý luận và cơ sở thực tế đối với quá trình
xây dựng nông thôn mới, giúp các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Tháp hoạch định
kế hoạch đẩy mạnh quá trình xây dựng nông thôn mới của Tỉnh. Kết quả của luận
văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên và học viên cao học các
chuyên nghành Triết học, chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học và những ai
quan tâm đến vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở miền Tây Nam Bộ.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu gồm 2 chương, 6 tiết.

7


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NÔNG THÔN, NÔNG THÔN MỚI VÀ XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI
1.1. Khái niệm nông thôn và nông thôn mới
1.1.1. Khái niệm nông thôn
Nông thôn là khu vực đặc thù của đất nước, là khu vực địa lý nơi đó sinh kế
cộng đồng gắn bó, có quan hệ trực tiếp đến khai thác, sử dụng, bảo vệ môi trường
và tài nguyên thiên nhiên cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Trước đây, theo
quan niệm cũ, khi nói đến nông thôn người ta thường đồng nghĩa với “làng”, “xã”,
“thôn” trong suốt thời gian kéo dài gần một nghìn năm bắc thuộc. Trong tâm thức
người Việt, “đó không chỉ là một không gian sinh tồn, một môi trường kinh tế- sản
xuất với nghề trồng lúa nước cổ truyền mà còn là một không gian xã hội và cảnh
quan văn hóa đã xây đắp nên nền tảng văn hóa, bản sắc văn hóa, tạo thành lối sống,

tâm hồn, cốt cách và bản lĩnh của người Việt, của dân tộc Việt Nam sau này” [18,
tr. 53,54].
Khi xây dựng lý luận về xã hội C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát một quy
luật chung về quá trình hình thành thành thị - đó là kết quả của sự phân công lao
động xã hội trong quá khứ, nhờ đó xã hội loài người tách thành hai phân hệ - thành
thị và nông thôn. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845-1846) hai ông đã trình
bày một cách cơ bản quan niệm duy vật lịch sử của mình về vấn đề này. Theo
C.Mác và Ph.Ăngghen: “sự phân công lao động trong nội bộ một dân tộc trước hết
dẫn đến tách rời giữa lao động công nghiệp và thương nghiệp với lao động nông
nghiệp, và do đó dẫn đến sự tách rời giữa thành thị và nông thôn, và sự đối lập giữa
lợi ích của thành thị và nông thôn…” [38, tr. 30-31]. Làm rõ hơn khẳng định trên,
V.I.Lênin chỉ ra rằng, chính sự đối lập này là nguyên nhân dẫn đến sự lạc hậu của
nông thôn: “vì sự đối lập giữa thành thị và nông thôn là một trong những nguyên
nhân sâu xa nhất của tình trạng lạc hậu về kinh tế và văn hóa ở nông thôn, và vì ở

8


vào một thời kỳ khủng hoảng sâu sắc như hiện nay, sự đối lập đó đưa thành thị cũng
như nông thôn đến trước mỗi nguy cơ trực tiếp” [37, tr.150].
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về nông thôn do đó cũng có nhiều
định nghĩa khác nhau về khái niệm nông thôn. Có quan điểm cho rằng cần dựa vào
chỉ tiêu trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng, có nghĩa vùng nông thôn có cơ sở hạ
tầng không phát triển bằng vùng đô thị. Quan điểm khác lại cho rằng nên dựa vào
chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường, phát triển hàng hóa để xác định vùng nông thôn
vì cho rằng nông thôn có trình độ sản xuất hàng hóa và khả năng tiếp cận thị trường
so với đô thị là thấp hơn. Cũng có ý kiến cho rằng nên dùng chỉ tiêu mật độ dân cư
và số lượng dân trong vùng để xác định vì vùng nông thôn thường có số dân và mật
độ dân thấp hơn vùng thành thị. Một quan điểm khác nêu ra, vùng nông thôn là
vùng có dân cư làm nông nghiệp là chủ yếu, tức là nguồn sinh kế chính của cư dân

trong vùng là từ sản xuất nông nghiệp [31, tr.10]. Từ điển Bách khoa Xô Viết đưa ra
định nghĩa nông thôn đối lập thành thị, xem thành thị là khu vực dân cư, phần lớn
dân cư làm ngoài nông nghiệp. Ngân hàng Thế giới cho rằng: “ Nông thôn có thể
được định nghĩa bởi quy mô dân cư, mật độ dân số, khoảng cách đến những vùng
thành thị, phân chia hành chính và tầm quan trọng của nghành công nghiệp”[46,
tr.12]. Các định nghĩa phân biệt nông thôn và thành thị chủ yếu dựa vào hai tiêu chí
của dân số (quy mô, mật độ) và về địa giới hành chính cũng như nghề nghiệp chủ
yếu của dân cư.
Theo giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lê nin của Bộ giáo dục và Đào tạo năm
2005 đưa ra định nghĩa: “Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó
sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn” [ 23, tr.351]. Theo từ điển Tiếng Việt của
Viện ngôn ngữ học: “ Nông thôn là khu vực dân cư tập trung chủ yêu làm nghề
nông” [46, tr.768]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì cho rằng: “Nông
thôn là vùng sinh sống, làm việc của cộng đồng chủ yếu là nông dân, là nơi có mật
độ dân cư thấp, môi trường chủ yếu là thiên nhiên, cơ sở hạ tầng kém phát triển, tiếp
cận thị trường và sản xuất hàng hóa thấp” [20, tr.16]. Các quan điểm này nhìn nhận
nông thôn dưới góc độ kinh tế khi cho rằng nông thôn là vùng sản xuất nông nghiệp
9


chủ yếu bên cạnh một số người làm nghề phi nông nghiệp. Ngay cách hiểu thông
thường, chúng ta vẫn quan niệm rằng nông thôn là một vùng lãnh thổ được con
người sử dụng để làm nông nghiệp (trồng trọt hoặc chăn nuôi).
Ở Việt Nam, hiện nay, khái niệm nông thôn được thống nhất với quy định tại
Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-08-2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn: “ Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị của các
thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân
xã”. Tuy nhiên, có thể thấy thật khó để vạch ra một ranh giới rõ ràng giữa “vùng
nông thôn và vùng thành thị”. Việc sử dụng các địa giới hành chính là để phân biệt
các vùng với nhau nhưng xét trên quan điểm phát triển nông thôn thì các ranh giới

này rất có ý nghĩa thực tế.
Mặc dù có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm nông thôn nhưng khái
quát lại thì nông thôn có những nét đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, nông thôn phải gắn chặt với nghề lao động xã hội truyền thống mà
nổi trội hơn hết là hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Ngoài ra còn có các
nghành nghề sản xuất- kinh doanh, dịch vụ phi nông nghiệp. Trong các làng xã
truyền thống, sản xuất nông nghiệp chiếm vị trí chủ chốt và là nguồn sinh kế chính
của đại bộ phận nông dân. Điều này thể hiện ở chỗ, tư liệu sản xuất cơ bản và chủ
yếu của nông dân là đất đai sông ngòi, rừng, biển. Chính vì vậy nó tạo nên sự gắn
kết nghề nghiệp của người dân nông thôn với nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Thứ hai, trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội ở nông thôn do lịch sử để
lại gồm những tụ điểm quần cư thường có quy mô nhỏ về mặt số lượng.
Thứ ba, mật độ dân cư thấp, sinh tụ thưa thớt, thậm chí có nơi biệt lập do hệ
thống đường giao thông kém phát triển.
Thứ tư, nông thôn không những giàu tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên như
đất, nước, khí hậu, rừng, sông suối, ao hồ, khoáng sản, hệ động- thực vật... Môi
trường tự nhiên ưu trội cả về tài nguyên và môi trường sinh thái. Con người luôn
sống gần gũi với thiên nhiên với những hình ảnh thân quen như cây đa, bến nước,
con đò...
10


Thứ năm, nông thôn có lối sống đặc thù của mình- lối sống nông thôn, lối
sống của các cộng đồng xã hội được hình thành chủ yếu trên cơ sở của hoạt động
lao động nông nghiệp. Chính lối sống này đã hình thành một đặc trưng nổi trội của
nông thôn- tính cố kết cộng đồng. Nhờ những đặc trưng này làm cho nó phân biệt
hẳn với cộng đồng đô thị. Tuy nhiên, lối sống nông thôn đã làm cho cung cách ứng
xử xã hội nặng về luật tục và lễ nghi.
Thứ sáu, đặc trưng không thể thiếu được của nông thôn, đó là văn hóa nông
thôn- một loại hình văn hóa đặc thù mang đậm nét dân gian, nét truyền thống dân

tộc, văn hóa đa dạng, đa hình và hết sức phong phú. Nông thôn là nơi lưu giữ và
bảo tồn các di sản văn hóa quốc gia như phong tục tập quán cổ truyền về đời sống,
lễ hội, sản xuất nông nghiệp và các di tích văn hóa lịch sử,... Nơi đây chứa đựng
kho tàng văn hóa dân tộc đồng thời là khu du lịch sinh thái hấp dẫn mọi người [30;
tr. 59- 60].
Từ những đặc trưng trên, theo tôi nông thôn là nơi sinh sống của cộng đồng
dân cư trong đó tập trung chủ yếu là nông dân với hoạt động sản xuất nông nghiệp
là chủ yếu, được hình thành một cách nhất định về mặt lịch sử dựa trên sự phân
công lao động xã hội. Trong đó cư dân tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội và môi trường theo một thể chế chính trị nhất định.
Nông thôn có vai trò cung cấp lương thực, thực phẩm phục vụ đời sống của
con người; cung cấp nguyên vật liệu, hàng hóa cho công nghiệp, xuất khẩu; cung
cấp lao động cho công nghiệp và thành thị. Đồng thời là thị trường rộng lớn để tiêu
thụ những sản phẩm của công nghiệp và dịch vụ. Phát triển nông thôn sẽ tạo điều
kiện ổn định về mặt kinh tế - xã hội, chính trị của đất nước, hơn nữa nông thôn còn
có vai trò rất to lớn trên tất cả các mặt kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Khu
vực nông thôn, đóng góp quan trọng vào việc tăng trưởng chung của nền kinh tế. Sự
đóng góp này trước hết thể hiện ở tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của đất nước.
Ngoài ra, sự đóng góp của khu vực nông nghiệp nông thôn còn thể hiện ở việc đảm
bảo an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia, cung cấp các yếu tố đầu vào nói chung
như đất đai, tài nguyên khoáng sản, nguồn lao động cho phát triển công nghiệp nói
11


chung, cung cấp nguồn nguyên liệu nông sản cho công nghiệp chế biến, tham gia
vào xuất khẩu tạo thu nhập ngoại tệ cho đất nước và đặc biệt là vai trò bảo vệ môi
trường sinh thái.
1.1.2. Khái niệm nông thôn mới
Nông thôn mới là nông thôn văn minh hiện đại nhưng vẫn giữ được nét đẹp
của truyền thống Việt Nam [36]. Nghị quyết 26-NQ/TW xác định: Nông thôn mới

là khu vực nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển
nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch. Xã
hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái
được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người
dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa [1]. Theo thông tư
số 54/TT-NNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn
quy định: “ vùng/ khu vực nông thôn mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa là phần lãnh
thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn; được quản lý bởi
cấp hành chính cơ sở là Uỷ ban nhân dân xã”. Như vậy, nông thôn mới trước hết
phải là nông thôn, chứ không phải là thị tứ, thị trấn... Nông thôn mới vừa bao hàm
chức năng lịch sử vốn có của nông thôn là vùng nông dân quần tụ trong đơn vị làng
xã và chủ yếu làm nông nghiệp, vừa có những thuộc tính khác với nông thôn truyền
thống. Đó là: làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; sản xuất hướng đến
nông nghiệp công nghệ cao phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; đời
sống vật chất và tinh thần của người nông thôn ngày càng được nâng cao; giá trị văn
hóa truyền thống được bảo tồn, phát triển; xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân
chủ. Nông thôn mới còn thực hiện chức năng rất quan trọng – chức năng sinh thái.
Nếu sản xuất công nghiệp phát triển phá vỡ mối quan hệ hài hòa vốn có giữa con
người và thiên nhiên, thì sản xuất nông nghiệp lại có chức năng phục vụ hệ sinh
thái, luôn luôn làm cho con người gần gũi, gắn chặt với thiên nhiên và dung dưỡng
thiên nhiên. Vì vậy, xây dựng nông thôn mới cần hạn chế việc gạch hóa, bê tông
hóa, phố hóa các làng quê truyền thống [ 47, tr. 12-13].
12


Vì vậy có thể quan niệm: “Nông thôn mới là tổng thể những đặc điểm, cấu
trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới
đặt ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng
mới so với mô hình nông thôn cũ ( truyền thống, đã có) ở tính tiên tiến về mọi mặt”.

1.2. Khái niệm xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Nội dung và tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Xây dựng nông thôn mới
Nước ta là một nước nông nghiệp, nơi có hơn 60 triệu người sinh sống chiếm
66,90% dân số cả nước. Trong đó có hơn 37 triệu người trong độ tuổi lao động từ
15 trở lên chiếm 69,3% lực lượng lao động xã hội. Chính vì vậy Đại hội VIII của
Đảng nhấn mạnh phải rất quan tâm đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
và kinh tế nông thôn. Đây là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất trong nông nghiệp và bộ mặt kinh tế- xã hội nông thôn, biến lao động thủ
công thành lao động cơ giới, đưa sản xuất nhỏ lên thành sản xuất lớn hàng hóa, là
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng tỷ
trọng các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp nhằm khai thác mọi tiềm năng tạo ra
năng suất lao động, hiểu quả kinh tế- xã hội cao trong nông nghiệp, từ đó biến đổi
bộ mặt kinh tế- xã hội nông thôn tiến gần với thành thị.
Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng
đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang
trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ)
có nếp sống văn hóa, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhâp, đời
sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao. Xây dựng nông thôn mới
giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ lẫn
nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh. Xây dựng nông
thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính
trị. Nông thôn mới không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà là vấn đề kinh tế - chính
trị tổng hợp. Chính vì vậy nó phải có hệ thống lý luận soi đường. Quan điểm của
Đảng ta về xây dựng nông thôn mới là sự vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa13


Mác Lênin vào thực tiễn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, hướng đến thực hiện
mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa, từng bước xóa bỏ sự khác biệt giữa thành thị
và nông thôn, giữa lao động chân tay và lao động trí óc để đi đến kết quả cuối cùng

là giai cấp công nhân, nông dân, trí thức sẽ trở thành những người lao động của xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Xây dựng nông thôn mới là một chính sách về một mô hình
phát triển cả về nông nghiệp và nông thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát
nhiều lĩnh vực, vừa đi sâu giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải quyết các
mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác khắc phục tình trạng rời rạc
hoặc duy ý chí.
Xây dựng nông thôn mới phản ánh trạng thái xã hội nông thôn tại một thời
điểm nhất định với phát triển kinh tế là cơ sở, với tiến bộ xã hội toàn diện là tiêu
chí, dưới điều kiện chế độ xã hội chủ nghĩa .
Xây dựng nông thôn mới là cách gọi chung cho quá trình xây dựng kinh tế
chính trị, văn hóa nông thôn, dưới bối cảnh “thành thị và nông thôn cùng phát triển
trong giai đoạn mới với “công nghiệp bổ trợ nông nghiệp, thành thị dẫn dắt nông
thôn .
Xây dựng nông thôn mới là chương trình mục tiêu Quốc gia, được triển khai
trên địa bàn cấp xã trong phạm vi cả nước, nhằm phát triển nông thôn toàn diện theo
hướng hiện đại .
Chương trình xây dựng nông thôn mới với mục tiêu: Nông nghiệp phát triển
toàn diện theo hướng hiện đại; Người nông dân có đời sống vật chất, tinh thần ngày
càng được nâng cao và nông thôn có hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại. Ba nội dung
này có quan hệ trực tiếp và mật thiết: (1) Hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại là cơ sở
để phát triển kinh tế, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho người dân; (2) Nông
nghiệp phát triển góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân; (3)
Nông dân chính là chủ thể và có vai trò chính thực hiện 2 nội dung trên. Như vậy
xây dựng nông thôn mới là đầu tư và tạo nền tảng để phát triển "tam nông" bền
vững. Nội dung của Chương trình được cụ thể 19 tiêu chí với các nội dung: (1) Quy
hoạch, hạ tầng kinh tế, xã hội; (2) Kinh tế và tổ chức sản xuất; (3) Văn hóa, xã hội
14


và môi trường; (4) Hệ thống chính trị. Địa phương được công nhận đạt chuẩn phải

đáp ứng đủ 19 tiêu chí và như vậy đảm bảo quá trình phát triển theo hướng bền
vững đảm bảo phát triển hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ bộ xã hội và bảo
vệ môi trường.
Như vậy, xây dựng nông thôn mới là quá trình xây dựng kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, môi trường nông thôn nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống người dân
nông thôn, phát triển hài hòa, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị với nông thôn.
Quá trình xây dựng với vai trò chủ thể là người dân nông thôn và có sự hỗ trợ tích
cực của Nhà nước và các tổ chức khác.
Với những chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước cùng với sự phối hợp
thực hiện của các bộ, sở, ban nghành và toàn xã hội đã đưa tiến trình xây dựng nông
thôn mới thực sự trở thành cuộc vận động cách mạng rộng lớn nhằm tạo ra những
giá trị mới về kinh tế, văn hóa, xã hội… góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nông thôn là địa bàn chiến lược, nông thôn
có phát triển sẽ tác động trực tiếp đến sản xuất và đời sống người dân.
Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới ở nước ta
Sau hơn 30 năm đổi mới, nông nghiệp, nông thôn nước ta đã có những thay
đổi lớn lao, đời sống cư dân nông thôn đã được cải thiện vượt bậc. Tuy nhiên, nếu
so với mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, so với các nước phát
triển trong khu vực thì nông nghiệp, nông thôn nước ta đang bộc lộ nhiều mặt yếu
kém. Nổi bật là: nông thôn phát triển thiếu quy hoạch và tự phát, kết cấu hạ tầng
kinh tế- xã hội lạc hậu. Mức sống vật chất, văn hóa, y tế, giáo dục của cư dân nông
thôn tuy có cải thiện nhưng còn ở mức thấp và đặc biệt vẫn còn khoảng cách xa so
với đô thị. Cảnh quan sinh thái nông thôn ngày càng biến dạng xấu, ô nhiễm nhanh
và ngày càng nghiêm trọng. Chất lượng hệ thống chính trị cơ sở (xã, thôn, bản, ấp),
nhất là năng lực quản lý điều hành rất yếu kém. Củ thể:
Do kết cấu hạ tầng nông thôn (điện, đường, trường, trạm, chợ, thủy lợi, còn
nhiều yếu kém, vừa thiếu, vừa không đồng bộ); nhiều hạng mục công trình đã
xuống cấp, tỷ lệ giao thông nông thôn được cứng hoá thấp; giao thông nội đồng ít
15



được quan tâm đầu tư; hệ thống thuỷ lợi cần được đầu tư nâng cấp; chất lượng lưới
điện nông thôn chưa thực sự an toàn; cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hoá còn
rất hạn chế, mạng lưới chợ nông thôn chưa được đầu tư đồng bộ, trụ sở xã nhiều nơi
xuống cấp. Do sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, bảo quản chế biến còn hạn
chế, chưa gắn chế biến với thị trường tiêu thụ sản phẩm; chất lượng nông sản chưa
đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng khoa học
công nghệ trong nông nghiệp còn chậm, tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp còn
thấp; cơ giới hoá chưa đồng bộ. Do thu nhập của nông dân thấp; số lượng doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn ít; sự liên kết giữa người sản xuất và
các thành phần kinh tế khác ở khu vực nông thôn chưa chặt chẽ. Kinh tế hộ, kinh tế
trang trại, hợp tác xã còn nhiều yếu kém. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn cao, cơ
hội có việc làm mới tại địa phương không nhiều, tỷ lệ lao động nông lâm nghiệp
qua đào tạo thấp; tỷ lệ hộ nghèo còn cao.
Do đời sống tinh thần của nhân dân còn hạn chế, nhiều nét văn hoá truyền
thống đang có nguy cơ mai một (tiếng nói, phong tục, trang phục…); nhà ở dân cư
nông thôn vẫn còn nhiều nhà tạm, dột nát. Hiện nay, kinh tế – xã hội khu vực nông
thôn chủ yếu phát triển tự phát, chưa theo quy hoạch. Do yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, cần 3 yếu tố chính: đất đai, vốn và lao
động kỹ thuật. Qua việc xây dựng nông thôn mới sẽ triển khai quy hoạch tổng thể,
đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa. Mặt khác, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.Vì vậy, một nước công nghiệp không
thể để nông nghiệp, nông thôn lạc hậu, nông dân nghèo khó.
Các mặt yếu kém trên đang là những cản trở cho con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đe dọa sự phát triển bền vững. Vì vậy để góp phần khắc phục
một cách cơ bản tình trạng trên, đưa Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp Hành
Trung ương Đảng khóa X về nông thôn đi vào cuộc sống, một trong những việc cần
làm trong giai đoạn này là xây dựng mô hình nông thôn mới đáp ứng nhu cầu và hội
nhập công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế thế giới.

16


Chức năng nông thôn mới
Chức năng sản xuất nông nghiệp hiện đại. Xây dựng nông thôn mới không có
nghĩa là biến nông thôn trở thành thành thị. Nông thôn mới phải là nơi sản xuất ra
sản phẩm nông nghiệp có năng suất, chất lượng cao theo hướng sản xuất hàng hóa,
không phải là tự cung, tự cấp, phát huy được đặc sắc của địa phương. Đồng thời,
việc này là phát triển sản xuất ngành nghề, trước hết là ngành nghề truyền thống của
địa phương. Sản phẩm nghành nghề vừa chứa đựng yếu tố văn hóa vật thể và phi
vật thể của từng làng quê Việt Nam, tạo việc làm, tăng thu nhập cho cư dân nông
thôn…
Chức năng giữ gìn văn hóa truyền thống. Trải qua hàng nghìn năm phát triển,
làng xóm ở nông thôn được hình thành dựa trên những cộng đồng có cùng phong
tục, tập quán, huyết thống. Quy tắc hành vi của xã hội gồm những người quen này
là những phong tục tập quán đã được hình thành từ lâu đời, ở đó con người đối xử
tin cậy lẫn nhau trên quy phạm phong tục tập quán đó. Ở đó quan hệ huyết thống là
mối quan hệ quan trọng nhất. Chính các tập thể nông dân cùng huyết thống đã giúp
họ khắc phục được những nhược điểm của kinh tế tiểu nông, giúp bà con nông dân
chống chọi với thiên tai đại họa. Cũng chính văn hoá quê hương đã sản sinh ra
những sản phẩm văn hoá tinh thần quý báu như lòng kính lão yêu trẻ, giúp nhau
canh gác bảo vệ, giản dị tiết kiệm, thật thà đáng tin, yêu quý quê hương.vv.., tất cả
được sản sinh trong hoàn cảnh xã hội nông thôn đặc thù. Các truyền thống văn hoá
quý báu này đòi hỏi phải được giữ gìn và phát triển trong một hoàn cảnh đặc thù.
Môi trường thành thị là nơi có tính mở cao, con người cũng có tính năng động cao,
vì thế văn hoá quê hương ở đây sẽ không còn tính kế tục. Do vậy, chỉ có nông thôn
với đặc điểm sản xuất nông nghiệp và tụ cư theo dân tộc, dòng tộc mới là môi
trường thích hợp nhất để giữ gìn và kế tục văn hoá quê hương. Ngoài ra, các cảnh
quan nông thôn với những đặc trưng riêng đã hình thành nên màu sắc văn hoá làng
xã đặc thù, thể hiện các tư tưởng triết học như trời đất giao hoà, thuận theo tự nhiên

với sự tôn trọng tự nhiên, mưu cầu phát triển hài hoà cũng như chú trọng sự kế tục
phát triển của các dân tộc.
17


Chức năng sinh thái. Nền văn minh nông nghiệp được hình thành từ những
tích luỹ trong suốt một quá trình lâu dài, từ khi con người thích ứng với thiên nhiên,
lợi dụng, cải tạo thiên nhiên, cho đến khi phá vỡ tự nhiên dẫn đến phải hứng chịu
các ảnh hưởng xấu và cuối cùng là tôn trọng tự nhiên. Trong nông thôn truyền
thống, con người và tự nhiên sinh sống hài hoà với nhau, chức năng người tôn trọng
tự nhiên, bảo vệ tự nhiên và hình thành nên thói quen làm việc theo quy luật tự
nhiên. Thành thị là hệ thống sinh thái nhân tạo phản tự nhiên ở mức độ cao nhất.
Quá trình mưu cầu cuộc sống đầy đủ về vật chất đã khiến người thành thị càng ngày
càng xa rời tự nhiên. Nền văn minh công nghiệp đã phá vỡ mối quan hệ hài hoà vốn
có giữa con người với thiên nhiên, dẫn đến phá vỡ môi trường một cách nghiêm
trọng. Chức năng này chính là một trong những tiêu chí quan trọng phân biệt giữa
thành thị với nông thôn. Thông qua sự tuần hoàn của tự nhiên và năng lượng, cuối
cùng, thành thị cũng là nơi thu được lợi ích từ chức năng sinh thái của nông thôn.
Các tiêu chí thể hiện nội dung xây dựng nông thôn mới
Nghị quyết 26/TQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã đề ra
chủ trương xây dựng nông thôn mới với mục tiêu: “ xây dựng nông thôn mới có kết
cấu hạ tầng kinh tế- xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất
hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy
hoạch. Xã hội nông thôn ổn định giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng
cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh
đạo của Đảng được tăng cường [33, tr.126]. Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17
tháng 10 năm 2016 ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn
2016- 2020. Bao gồm 5 nhóm và 19 tiêu chí, củ thể như sau:
5 nhóm là: Nhóm 1: Quy hoạch, nhóm 2: Hạ tầng kinh tế xã hội, nhóm 3: Kinh
tế và tổ chức sản xuất, nhóm 4: Văn hóa- xã hội- môi trường, nhóm 5: Hệ thống

chính trị.
19 tiêu chí: 1: Quy hoạch, 2: Giao thông, 3: Thủy lợi, 4: Điện, 5: Trường học,
6: Cơ sở vật chất văn hóa, 7: Chợ, 8: Bưu điện, 9: Nhà ở dân cư, 10: Thu nhập, 11:
Tỷ lệ hộ nghèo, 12: Cơ cấu lao động, 13: Hình thức tổ chức sản xuất, 14: Giáo dục,
18


15: Y tế, 16: Văn hóa, 17: Môi trường, 18: Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững
mạnh, 19: An ninh, trật tự xã hội. ( Xin xem thêm phụ lục 1)
Bộ 19 tiêu chí trong Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn
mới được cụ thể hóa trên 11 nội dung chính sau:
1. Quy hoạch xây dựng nông thôn mới.
Quy hoạch sản xuất trong đồ án quy hoạch xã nông thôn mới gắn với tái cơ
cấu nông nghiệp cấp huyện, cấp vùng và cấp tỉnh; bảo đảm chất lượng, phù hợp với
đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và tập quán sinh hoạt từng
vùng, miền. Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường nông thôn
trong đồ án quy hoạch xã nông thôn mới đảm bảo hài hòa giữa phát triển nông thôn
với phát triển đô thị; phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư
hiện có trên địa bàn xã. Mục tiêu đạt yêu cầu tiêu chí số 01 về quy hoạch và thực
hiện quy hoạch trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Đến năm 2018, có 100%
số xã đạt chuẩn tiêu chí số 01 về quy hoạch và thực hiện quy hoạch.
2. Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội.
Hoàn thiện hệ thống giao thông trên địa bàn thôn, xã. Đến năm 2020, có ít
nhất 55% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 2 về giao thông. Hoàn thiện hệ thống thủy lợi
nội đồng. Đến năm 2020, có 77% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 3 về thủy lợi. Cải tạo,
nâng cấp, mở rộng hệ thống lưới điện nông thôn. Đến năm 2020, có 100% số xã đạt
chuẩn tiêu chí số 4 về điện. Đến năm 2020, có 80% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 5 về
cơ sở vật chất trường học. Hoàn thiện hệ thống Trung tâm văn hóa - thể thao, Nhà
văn hóa - Khu thể thao thôn, bản. Đến năm 2020, có 75% số xã đạt chuẩn tiêu chí
số 6 về cơ sở vật chất văn hóa; 80% số xã có Trung tâm văn hóa, thể thao xã; 70%

số thôn có Nhà văn hóa - Khu thể thao. Đến năm 2020, có 70% số xã đạt chuẩn tiêu
chí số 7 về cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn. Đến năm 2020, có 90% trạm y tế
xã có đủ điều kiện khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Tăng cường cơ sở vật chất cho hệ thống thông tin và truyền thông cơ sở. Đến
năm 2020, có 95% số xã đạt chuẩn các nội dung khác của tiêu chí số 8 về thông tin
và truyền thông. Hoàn chỉnh các công trình đảm bảo cung cấp nước sinh hoạt cho
19


người dân. Đến năm 2020, có 95% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt
hợp vệ sinh, trong đó 60% sử sụng nước sạch đạt quy chuẩn của Bộ Y tế; 100%
Trường học và trạm y tế xã có công trình cấp nước và nhà tiêu hợp vệ sinh.
3. Phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân.
Tiếp tục thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị sản xuất với tiêu thụ sản phẩm; thu
hút doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn, trong đó chú trọng công nghiệp chế
biến nông sản và công nghiệp thu hút nhiều lao động, phát triển nghành nghề nông
thôn, nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn: tuyên truyền, tư
vấn học nghề và việc làm; rà soát, cập nhật, bổ sung nhu cầu đào tạo nghề; phát
triển chương trình đào tạo; hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo, phương
tiện, trung tâm dịch vụ việc làm - giáo dục nghề nghiệp thanh niên, các trường trung
cấp thủ công mỹ nghệ, trường công lập ở những huyện chưa có trung tâm giáo dục
nghề nghiệp công lập; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục nghề
nghiệp ở trong và ngoài nước, giáo viên giảng dạy kiến thức kinh doanh khởi sự
doanh nghiệp cho lao động nông thôn;
+ Xây dựng các mô hình đào tạo nghề có hiệu quả cho lao động nông thôn
theo từng ngành, lĩnh vực để tổ chức triển khai nhân rộng.
+ Đào tạo nghề cho 5,5 triệu lao động nông thôn trong đó, hỗ trợ đào tạo trình
độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng cho 3,84 triệu lao động nông thôn, người khuyết
tật, thợ thủ công, thợ lành nghề gắn với nhu cầu của thị trường lao động.

4. Giảm nghèo và an sinh xã hội
Mục tiêu của Chương trình giảm nghèo và an sinh xã hội nhằm cải thiện và
từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng
bào dân tộc thiểu số, người nghèo thuộc huyện nghèo, xã biên giới, xã, thôn, bản
đặc biệt khó khăn. Đến năm 2020, có 60% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 11 về hộ
nghèo; giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước từ 1,0% - 1,5%/năm (riêng các
huyện, các xã đặc biệt khó khăn giảm 4%/năm) theo chuẩn nghèo quốc gia giai
đoạn 2016 - 2020.
20


5. Phát triển giáo dục ở nông thôn
Nội dung Chương trình nông thôn mới là tiếp tục thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia về giáo dục- đào tạo.
Một là: Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 05 tuổi. Bảo đảm hầu hết trẻ em 5
tuổi ở mọi vùng miền được đến lớp để thực hiện chăm sóc, giáo dục 02 buổi/ngày,
đủ một năm học, nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, tiếng
Việt và tâm lý sẵn sàng đi học, bảo đảm chất lượng để trẻ em vào lớp 1.
Hai là: Xóa mù chữ và chống tái mù chữ. Đến năm 2020, độ tuổi 15-60: tỷ lệ
biết chữ đạt 98%. 100% đơn vị cấp tỉnh, huyện, 95% đơn vị cấp xã đạt
chuẩn xóa mù chữ mức 2.
Ba là: Phổ cập giáo dục tiểu học. Đến năm 2020, duy trì vững chắc kết quả
phổ cập giáo dục tiểu học trên 63/63 đơn vị cấp tỉnh, trong đó ít nhất 40% số tỉnh,
thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học cấp độ 3; huy động được 99,7% trẻ 6
tuổi vào học lớp 1, tỉ lệ lưu ban và bỏ học ở tiểu học dưới 0,5%. 100% đơn vị cấp
tỉnh, 100% đơn vị cấp huyện và 99,5% đơn vị cấp xã phổ cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi theo quy định của Chính phủ.
Bốn là: Thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Đến năm 2020, duy trì
vững chắc kết quả phổ cập giáo dục trung học cơ sở trên 63/63 tỉnh, thành phố trong
đó ít nhất 40% số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục

trung học cơ sở mức độ 3. Mục tiêu là đạt yêu cầu tiêu chí số 14 về Giáo dục trong
Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Đến năm 2020, có 80% số xã đạt chuẩn tiêu
chí số 14 về giáo dục.
6. Phát triển y tế cơ sở, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân
nông thôn.
Xây dựng và Phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới đáp ứng yêu
cầu của Bộ Tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Mục tiêu đạt yêu cầu tiêu chí số 15
về Y tế trong Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Đến năm 2020, có 70% số xã
đạt chuẩn tiêu chí số 15 về Y tế.

21


×