Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

MỐI QUAN hệ TƯƠNG tác GIỮA lợi NHUẬN và rủi RO tín DỤNG BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM từ các QUỸ tín DỤNG NHÂN dân ở AN GIANG (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.21 KB, 12 trang )

64 Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 64-75

MỐI QUAN HỆ TƯƠNG TÁC GIỮA LỢI NHUẬN
VÀ RỦI RO TÍN DỤNG: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM
TỪ CÁC QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN Ở AN GIANG
PHAN ĐÌNH KHÔI
Trường Đại học Cần Thơ –
NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN
Ngân hàng Nhà nước chi nhánh An Giang –
(Ngày nhận: 19/05/2017; Ngày nhận lại: 03/08/2017; Ngày duyệt đăng: 04/08/2017)
TÓM TẮT
Mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro tín dụng ảnh hưởng phức tạp đến kết quả hoạt động của các tổ chức tín
dụng. Mục tiêu của bài viết nhằm phân tích mối quan hệ tương tác giữa lợi nhuận và rủi ro tín dụng tại các quỹ tín
dụng nhân dân ở tỉnh An Giang. Mô hình FEM, REM điều chỉnh sai số được ước lượng đồng thời bằng phương
pháp hồi quy tổng quát 2 bước (G2SLS) đối với 2 phương trình: lợi nhuận (NIM) và rủi ro tín dụng (NPL). Sử dụng
số liệu thu thập từ báo cáo của 24 quỹ tín dụng nhân dân ở tỉnh An Giang trong giai đoạn 2010 – 2014, kết quả cho
thấy không tồn tại mối quan hệ tương tác giữa NIM và NPL và tồn tại mối tương quan nghịch giữa ro tín dụng và lợi
nhuận. Theo đó, rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của các quỹ tín dụng nhân dân; mối quan hệ tương tác theo
chiều ngược lại không tồn tại. Ngoài ra, bài viết cũng xác nhận những yếu tố khác như tỷ lệ vốn chủ sở hữu, tốc độ
tăng trưởng kinh tế và lạm phát ảnh hưởng đến lợi nhuận. Một số biến kiểm soát như tốc độ tăng trưởng tín dụng,
quy mô và tỷ lệ tài sản sinh lời ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của quỹ tín dụng nhân dân.
Từ khóa: An Giang; Lợi nhuận; quỹ tín dụng nhân dân; rủi ro tín dụng.

The simultaneous relationship between profitability and credit risk: Empirical
evidence of people’s credit funds in An Giang
ABSTRACT
The relationship between profitability and credit risk complicates the performance of credit institutions. This
study aims to investigate the simultaneous relationship between profitability and credit risk of People’s Credit Funds
(PCFs) in An Giang. Fixed Effect Model (FEM), Random Effect Model (REM) and Generalized Two Stage Least
Squares (G2SLS) were used to estimate two simultaneous equations namely profitability and credit risk. Data were
collected from 24 People’s Credit Funds in An Giang from 2010 to 2014. This result indicates that the simultaneous


relationship between profitability does not exist. Particularly, credit risk negatively influences on profitability but
not vice versa. In addition, this study also confirms that capital ratio, economic growth and inflation had
significantly infulence on net interest margin. Meanwhile, credit growth rate, PCF’s size and earing asset ratio
negatively influence non-performing loan.
Keywords: An Giang; credit risk; People’s Credit Funds; Profitability.

1. Giới thiệu
Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân
(QTDND) tỉnh An Giang được thành lập theo
Quyết định số 325/QĐ-UB ngày 10/8/1993 của
Ủy ban nhân dân tỉnh với mục đích đa dạng
hóa các loại hình tổ chức tín dụng trên địa bàn
nông thôn. Hiện tại, An Giang có 24 QTDND

hoạt động tại 2 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện
của tỉnh. Kết quả tổng hợp số liệu từ các
QTDND tại thời điểm 31/12/2014 cho thấy hệ
thống QTDND đã thu hút hơn 145.000 thành
viên tham gia, chủ yếu là các hộ sản xuất nông
nghiệp, kinh doanh dịch vụ và buôn bán nhỏ.
Tuy nhiên, thị phần tín dụng của cả hệ thống


Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 64-75 65

QTDND chỉ chiếm khoảng 6,25% so với tổng
dư nợ của toàn hệ thống TCTD trên địa bàn
(Bích Vân, 2015). Một số nguyên nhân chính
do các QTDND có quy mô nhỏ, công nghệ huy
động vốn và cho vay còn lạc hậu, trình độ của

cán bộ quản lý chưa cao. Bên cạnh đó, các
QTDND không được lợi thế như các ngân
hàng thương mại do phải chịu các điều kiện
ràng buộc về địa bàn hoạt động. Những hạn
chế này đã tác động đến sự phát triển thị
trường tín dụng nông thôn. Điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động cũng
như sự tồn tại và phát triển của các QTDND.
Để phát triển, các QTDND luôn cố gắng
mở rộng quy mô bằng cách tăng doanh số cho
vay. Trước mắt, việc chạy theo chỉ tiêu tăng
trưởng tín dụng sẽ làm tăng dư nợ và lợi
nhuận kỳ vọng. Thực tế cho thấy việc gia tăng
lợi nhuận sẽ làm tăng mức độ rủi ro. Một
khoản vay có lãi suất cao thì rủi ro tín dụng
cũng tăng lên do chỉ còn những những khách
hàng có rủi ro cao xin vay hoặc sau khi nhận
vốn khách hàng có xu hướng đầu tư vào các
dự án có mức sinh lời cao để bù bắp chi phí
vay vốn. Tuy nhiên, khả năng chấp nhận rủi
ro tín dụng tăng đến một ngưỡng nhất định,
nếu rủi ro tiếp tục gia tăng sẽ làm cho lợi
nhuận giảm xuống do chi phí hoạt động tăng
lên. Vì vậy, mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi
ro trong hoạt động tín dụng được cho là có tác
động qua lại lẫn nhau.
Bài viết này phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến lợi nhuận và rủi ro tín dụng tại các
QTDND ở tỉnh An Giang, trong đó tập trung
nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa lợi

nhuận và rủi ro tín dụng. Mặc dù các QTNND
tồn tại nhưng do hạn chế về số liệu nên ít
được quan tâm nghiên cứu. Do vậy, kết quả
nghiên cứu cung cấp một góc nhìn mới về mối
quan hệ của 2 chỉ tiêu này trong hoạt động
kinh doanh của các QTDND.
Phần còn lại của bài viết gồm 3 mục sau.
Mục 2 trình bày phương pháp nghiên cứu bao
gồm cơ sở lý thuyết và các mô hình thực
nghiệm, mô hình phân tích, và số liệu. Mục 3
trình bày kết quả và thảo luận. Mục 4 kết luận

và đề xuất một số khuyến nghị.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu
thực nghiệm
Kết quả hoạt động của các tổ chức tín
dụng (TCTD) luôn gắn chặt với rủi ro. Tác
động qua lại giữa hai yếu tố này được cho là
do thông tin bất đối xứng và chi phí giao dịch
(Stiglitz và Weiss, 1981). Thông tin bất đối
xứng hiện diện trong thị trường tín dụng làm
cho người cho vay không thể đánh giá chính
xác mức độ rủi ro của người vay bằng chính
bản thân người vay. Điều này có nghĩa các
TCTD sẽ yêu cầu người vay trả lãi suất cao
hơn để bù đắp thiệt hại do rủi ro mất vốn và
các chi phí giao dịch phát sinh như chi phí
thẩm định tài sản đảm bảo, phương án vay
vốn và giám sát vốn vay. Tuy nhiên, lãi suất

cho vay có ảnh hưởng đến rủi ro của các
khoản cho vay thông qua hai hiệu ứng là chọn
lựa bất lợi và tâm lý ỷ lại.
Một mặt, tăng lãi suất cho vay có thể làm
giảm lợi nhuận của các TCTD do sự chọn lựa
sai lầm của chính các TCTD. Vì các dự án
đầu tư càng rủi ro thì khả năng sinh lợi càng
cao và ngược lại nên khi lãi suất tăng dẫn đến
trường hợp những khách hàng với dự án ít rủi
ro sẽ không vay vì khả năng sinh lợi không đủ
để trả nợ. Nếu các TCTD tăng lãi suất thì chỉ
có khách hàng rủi ro cao chấp nhận vay. Điều
này dẫn đến kết quả là rủi ro của TCTD cũng
tăng. Hiện tượng này gọi là sự chọn lựa bất
lợi. Mặt khác, lãi suất cho vay tăng sẽ làm
thay đổi cách lựa chọn dự án đầu tư của người
vay và thường có ảnh hưởng bất lợi đến các
dự án có khả năng sinh lợi thấp. Sau khi được
vay vốn, người vay sẽ có xu hướng thay đổi
hành vi đầu tư và nhắm vào các dự án nhiều
rủi ro với tỉ suất sinh lợi kỳ vọng cao hơn.
Đây chính là vấn đề tâm lý ỷ lại trong hoạt
động cho vay. Hai vấn đề này làm phát sinh
rủi ro trong hoạt động cho vay. Mối quan hệ
giữa lợi nhuận và rủi ro được được hình thành
dựa trên lãi suất. Theo đó, lợi nhuận kỳ vọng
sẽ tăng chậm hơn tốc độ tăng của lãi suất và
vượt qua một mốc nào đó, lợi nhuận của



66 Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 64-75

TCTD sẽ giảm nếu lãi suất tiếp tục tăng
(Stiglitz và Weiss, 1981).
Hiệu ứng lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại
ảnh hưởng đến lợi nhuận và rủi ro của các
TCTD. Điều này dẫn đến mối quan hệ đồng
thời giữa lợi nhuận và rủi ro trong hoạt động
của các TCTD. Khi lợi nhuận kỳ vọng của
TCTD tăng sẽ làm tăng mức độ rủi ro do
người vay có xu hướng thực hiện các dự án
rủi ro hơn để bù đắp sự gia tăng của lãi suất.
Đồng thời, nếu lãi suất tăng cao hơn một giới
hạn nào đó thì chỉ còn những người có rủi ro
xin vay, bởi những người ít rủi ro đã bị loại ra
khỏi thị trường do không có khả năng trả nợ.
Khi đó, lợi nhuận của TCTD sẽ giảm.
Cơ sở lý thuyết thông tin bất đối xứng và
chi phí giao dịch cho thấy có sự ảnh hưởng
lẫn nhau giữa lợi nhuận và rủi ro của các
TCTD. Thông qua sự thay đổi của lãi suất, lợi
nhuận làm gia tăng rủi ro bởi chọn lựa bất lợi
của TCTD và tâm lý ỷ lại từ khách hàng vay.
Trước tiên, tăng lãi suất làm tăng lợi nhuận
đồng thời làm tăng rủi ro của các khoản vay.
Điều này dẫn đến mối tương quan thuận giữa
lợi nhuận và rủi ro. Tuy nhiên, nếu rủi ro tiếp
tục tăng vượt quá ngưỡng giới hạn, tác động
của rủi ro làm giảm lợi nhuận của TCTD do
khả năng thua lỗ trong sản xuất, kinh doanh

của người vay tăng lên.
Những nghiên cứu thực nghiệm về mối
quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro tín dụng tại
các ngân hàng thương mại cho thấy luôn tồn
tại mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro tín
dụng nhưng mối quan hệ này thường không
nhất quán. Chẳng hạn, Bukhari và Qudous
(2012) chỉ ra rủi ro tín dụng có mối quan hệ
thuận chiều với lợi nhuận tại các ngân hàng
thương mại ở Pakistan. Trong khi đó, Badola
và Verma (2006) chứng minh rủi ro tín dụng
tăng là nguyên nhân làm giảm lợi nhuận tại
các TCTD ở Ấn Độ do phải tăng trích lập dự
phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu. Các
nghiên cứu của Nahang và Araghi (2013) tại
Iran; Nawaz và Munir (2012) tại Nigeria; Said
và Tumin (2011) tại Trung Quốc và Malaysia;
và Akhtar và cộng sự (2011) tại Pakistan cho

kết quả tương tự về sự tác động ngược chiều
của rủi ro tín dụng đến lợi nhuận của các
TCTD. Ở trong nước, Nguyễn Thanh Dương
(2013) chỉ ra sự tác động ngược chiều của rủi
ro tín dụng đến lợi nhuận tại các ngân hàng
thương mại ở Việt Nam. Mặt khác, kết quả
các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy tốc độ
tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ tài sản sinh lời ảnh
hưởng đến rủi ro tín dụng (Ahmad và cộng sự,
2004; Castro, 2012; và Das và Ghosh, 2007).
Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa chứng minh

sự tác động của 2 yếu tố này đến lợi nhuận. Vì
vậy, khi ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến
lợi nhuận, bên cạnh sử dụng mô hình FEM và
REM điều chỉnh sai số, phương pháp 2SLS
được sử dụng để kiểm soát sự tác động của
biến nội sinh là tỷ lệ nợ xấu. Kiểm định sự
nhận dạng quá xác nhận tồn tại hai biến công
cụ là tốc độ tăng trưởng tín dụng và tỉ lệ tài
sản sinh lời.
Rủi ro tín dụng còn chịu tác động các yếu
tố khác như tỷ lệ thu nhập lãi cận biên, tỷ lệ
an toàn vốn, quy mô và các yếu tố kinh tế vĩ
mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát
(Altunbas và cộng sự, 2007); Castro, 2012;
Das và Ghosh, 2007; Koehn và Santomero,
1980; và Zribiand và Boujelbène, 2011).
Trong đó, Koehn và Santomero (1980),
Zribiand và Boujelbène (2011) chỉ ra lợi
nhuận tại các tổ chức tín dụng tác động thuận
chiều đến rủi ro tín dụng. Ngoài ra, Molyneux
và Thornton (1992) và những nghiên cứu thực
nghiệm khác chỉ ra tỷ lệ vốn chủ sở hữu ảnh
hưởng đến lợi nhuận. Tuy nhiên, chưa có
nghiên cứu nào cho thấy tỷ lệ vốn chủ sở hữu
ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Vì vậy,
phương pháp 2SLS được sử dụng để kiểm
soát sự tác động của biến nội sinh là lợi
nhuận, biến công cụ được sử dụng là tỷ lệ vốn
chủ sở hữu.
2.2. Mô hình phân tích

Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu về mối
quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro cho thấy rủi
ro tín dụng ảnh hưởng đến lợi nhuận theo mối
quan hệ tương tác. Bên cạnh đó, lợi nhuận và
rủi ro tín dụng lại chịu sự tác động của các


Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 64-75 67

yếu tố khác. Để nghiên cứu mối quan hệ
tương tác giữa lợi nhuận và rủi ro tín dụng tại
các QTDND ở tỉnh An Giang, mô hình nghiên
cứu gồm 2 phương trình được đề xuất. Trong
đó, phương trình 1 thể hiện mối quan hệ giữa
lợi nhuận và các yếu tố ảnh hưởng đến lợi
nhuận (bao gồm rủi ro tín dụng) và phương
trình 2 thể hiện mối quan hệ giữa rủi ro tín
dụng và các yếu tố ảnh hưởng (trong đó có lợi
nhuận). Mô hình nghiên cứu này không chỉ
cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận
và rủi ro tín dụng mà còn cho phép kiểm tra
mối quan hệ tương tác giữa lợi nhuận và rủi ro
tín dụng thông qua đặc tính nội sinh của 2
biến phụ thuộc.
Mô hình phân tích mối quan hệ tương
tác giữa lợi nhuận và rủi ro tín dụng tại các
QTDND ở tỉnh An Giang cụ thể như sau:
(1)
(2)
trong đó, Y1 là biến số đo lường lợi

nhuận, được xác định bằng tỉ lệ thu nhập lãi
cận biên (NIM) và Y2 là biến số đo lường rủi
ro tín dụng, được xác định bằng tỉ lệ nợ xấu
trên tổng dư nợ (NPL). Các biến độc lập X1k
và X2γ là các biến có thể ảnh hưởng đến lợi
nhuận và rủi ro tín dụng ở phương trình 1 và
2, tương ứng. Hệ số α, β là các hệ số tương

quan của các biến độc lập với biến phụ thuộc;
u1 , u2 là sai số của mô hình. Để đơn giản, các
chỉ số i và t biểu diễn số quan sát theo năm
được giản lược trong mô hình. Định nghĩa các
biến và dấu kỳ vọng được trình bày ở Bảng 1.
Đo lường lợi nhuận bằng tỉ lệ thu nhập lãi
cận biên (NIM) giúp tổ chức tín dụng tối đa
hóa lợi nhuận bằng cách kiểm soát chặt chẽ tài
sản sinh lời và tận dụng các nguồn vốn có chi
phí thấp nhất. Tiêu chí này được cho là phù
hơp với đặc điểm hoạt động của các QTDND
ở An Giang bởi vì cho vay là hoạt động kinh
doanh chính nhưng lại có mức chi phí dự
phòng rủi ro thấp. Biến rủi ro tín dụng được
đo lường bằng tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
(NPL). Ưu điểm của chỉ tiêu này là phản ánh
tổng quan về tình hình hoạt động tín dụng.
Tuy nhiên, NPL chưa thể hiện đúng mức độ
rủi ro trong trường hợp TCTD cho khách hàng
vay với mục đích trả nợ cũ để che giấu nợ
xấu. Đối với các QTDND ở Việt Nam, NPL là
chỉ tiêu được Ngân hàng Nhà nước cho phép

để xác định chất lượng tín dụng và là một
trong những điều kiện quan trọng khi xếp loại
QTDND hàng năm và duy trì địa bàn hoạt
động. Ngoài ra, các QTDND chủ yếu cho vay
những món nhỏ ở khu vực nông thôn với thời
hạn theo mùa vụ nên hành vi cho vay đảo nợ
ít xảy ra so với các ngân hàng thương mại. Vì
vậy, NPL phù hợp để đo lường rủi ro tín dụng
tại các QTDND ở An Giang.

Bảng 1
Định nghĩa và dấu kỳ vọng của các biến độc lập ảnh hưởng đến lợi nhuận và rủi ro tín dụng tại
các QTDND ở tỉnh An Giang
Các biến độc lập ảnh hưởng đến lợi nhuận
Tên biến

Mô tả

Kỳ
vọng

Các biến độc lập ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
Tên biến

Biến phụ thuộc

Biến phụ thuộc

(Thu nhập lãi – Chi phí
Tỉ lệ thu nhập lãi

lãi)/Tổng tài sản sinh lời
cận biên (NIM)
bình quân (%)

Tỉ lệ nợ xấu (NPL)

Biến độc lập (Các

Biến độc lập (Các

Mô tả

Nợ xấu bình quân/Tổng
dư nợ bình quân (%)

Kỳ
vọng


68 Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 64-75

Các biến độc lập ảnh hưởng đến lợi nhuận
Tên biến

Mô tả

Kỳ
vọng

yếu tố vi mô)


Các biến độc lập ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
Tên biến

Mô tả

Kỳ
vọng

yếu tố vi mô)

Tỉ lệ nợ xấu
(NPL)

Nợ xấu bình quân/Tổng
dư nợ bình quân (%)

-

Tỉ lệ thu nhập lãi
cận biên (NIM)

(Thu nhập lãi – Chi phí
lãi)/Tổng tài sản sinh lời
bình quân (%)

+

Tỉ lệ vốn chủ sở
hữu


Vốn chủ sở hữu bình
quân/Tổng nguồn vốn
bình quân (%)

+

Tỉ lệ an toàn vốn

Vốn tự có/Tổng tài sản
“Có” rủi ro quy đổi (%)

-

Tỉ lệ vốn huy
động

Vốn huy động bình
quân/Tổng nguồn vốn
bình quân (%)

+

(Dư nợ tín dụng t – Dư nợ
Tốc độ tăng trưởng tín dụng t-1) bình quân/Dư
tín dụng
nợ tín dụng t-1 bình quân
của QTDND (%)

Quy mô QTDND


Logarit của tổng tài sản
bình quân (triệu đồng)

-

Quy mô QTDND

Logarit của tổng tài sản
bình quân (triệu đồng)

+

Đáp ứng tỉ lệ an
toàn vốn

Biến giả, bằng 1 nếu
TCTD đảm bảo ở mức
lớn hơn hoặc bằng quy
định tỉ lệ an toàn vốn tối
thiểu, bằng 0 cho trường
hợp ngược lại.

-

Tỉ lệ tài sản sinh
lời

Tài sản sinh lời bình
quân/Tổng tài sản bình

quân (%)

+

+

Biến độc lập (Các
yếu tố vĩ mô)

Biến độc lập (Các yếu tố vĩ mô)
Tốc độ tăng
trưởng kinh tế

Tốc độ tăng trưởng GDP
của tỉnh An Giang (%)

+

Tốc độ tăng trưởng Tốc độ tăng trưởng GDP
kinh tế
của tỉnh An Giang (%)

+

Lạm phát

Chỉ số giá tiêu dùng CPI
của tỉnh An Giang (%)

+


Lạm phát

Chỉ số giá tiêu dùng CPI
của tỉnh An Giang (%)

+

2.3. Số liệu
Số liệu thu thập từ bảng cân đối kế toán
và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của
24 QTDND ở tỉnh An Giang trong khoảng
thời gian 5 năm (2010 – 2014). Số lượng
QTDND trên địa bàn được xác định dựa theo
công bố của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chi
nhánh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long,
tính đến ngày 31/12/2014. Các QTDND tập
trung chủ yếu tại thành phố Long Xuyên và
huyện Thoại Sơn. Các chỉ tiêu liên quan đến
lợi nhuận và rủi ro tín dụng được tổng hợp từ
các báo cáo tài chính của QTDND bao gồm
tiền gửi tại TCTD khác, dư nợ, nợ xấu, tổng
tài sản, tài sản sinh lời, vốn chủ sở hữu, vốn
huy động, lợi nhuận tín dụng, tỷ lệ an toàn

vốn và các chỉ tiêu khác có liên quan. Các chỉ
tiêu liên quan đến các yếu tố kinh tế vĩ mô
như tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát
được thu thập từ Niên giám thống kê tỉnh An
Giang năm 2014.

3. Kết quả và thảo luận
3.1. Kết quả hoạt động của các QTDND
ở tỉnh An Giang giai đoạn 2010 – 2014
Các QTDND phải đối mặt với vấn đề
giảm rủi ro tín dụng và tăng lợi nhuận. Do lợi
nhuận và rủi ro tín dụng có mối tương quan
hai chiều, các QTDND không thể đồng thời
tăng lợi nhuận và giảm rủi ro trong một
khoảng thời gian dài. Lợi nhuận và rủi ro tín
dụng của các QTDND ở tỉnh An Giang giai
đoạn 2010 – 2014 được đánh giá lần lượt


Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 64-75 69

thông qua tỉ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) và
tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ (NPL).
Bảng 2 cho thấy NIM bình quân của các
QTDND ở An Giang giai đoạn 2010 – 2014
có xu hướng giảm, trong khi đó chỉ tiêu NPL
có xu hướng tăng nhưng vẫn ở mức thấp. Cụ
thể là, NIM giảm từ 6,28% ở năm 2010 xuống

còn 5,32% ở năm 2014. Xét về mức độ rủi ro,
mặc dù tỉ lệ nợ xấu bình quân trung bình của
hệ thống QTDND trên địa bàn tăng từ 0,95%
ở năm 2010 lên 1,42% ở năm 2014 nhưng ở
mức dưới 3%. Tuy nhiên, tỉ lệ nợ xấu của một
số QTDND trong từng năm quan sát có sự
biến động mạnh so với giá trị trung bình.


Bảng 2
Tỉ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) và tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ bình quân của các QTDND ở
tỉnh An Giang (2010 – 2014)
Chỉ tiêu

NIM
(%)

NPL
(%)

Năm

Số quan sát

Trung bình

Lớn nhất

Nhỏ nhất

Độ lệch chuẩn

2010

24

6,28


10,18

3,30

1,59

2011

24

6,89

12,46

4,57

1,77

2012

24

7,36

11,49

1,08

2,43


2013

24

6,10

8,45

2,35

1,66

2014

24

5,32

7,82

-0,09

1,73

2010
2011
2012
2013
2014


24
24
24
24
24

0,95
1,20
1,34
1,42
1,42

2,54
6,34
10,13
10,70
9,08

0,00
0,00
0,00
0,00
0,07

0,77
1,38
2,05
2,18
1,92


Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các QTDND tỉnh An Giang (2010 – 2014)

3.2. Mô tả các biến trong mô hình
Bảng 3 mô tả các biến sử dụng trong mô
hình ước lượng. Trong đó, tỉ lệ thu nhập lãi cận
biên (NIM) có giá trị bình quân trung bình là
6% và dao động trong khoảng từ -0,1% đến
12%. Tỉ lệ nợ xấu bình quân ở mức 1,26%, chỉ
duy nhất 1 QTDND có NPL là 10,7%. Điều
này cho thấy hệ thống QTDND ở tỉnh An
Giang đang hoạt động tốt, đảm bảo thực hiện
đúng định hướng của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam về việc duy trì tỉ lệ nợ xấu dưới 3%.
So với tổng nguồn vốn, vốn chủ sở hữu luôn
chiếm tỉ trọng thấp do vốn hoạt động chủ yếu
là vốn huy động từ tổ chức và cá nhân. Số liệu
còn cho thấy tỉ lệ vốn chủ sở hữu bình quân
trung bình của QTNDND là 9%, trong khi tỉ lệ
vốn huy động bình quân trung bình lên đến
79%. Khả năng huy động vốn giữa các
QTDND có sự chênh lệch khá lớn, tỉ lệ vốn

huy động thấp nhất là 32%, cao nhất là 96%.
Trong cơ cấu tổng tài sản, tài sản sinh lời
chiếm tỷ trọng cao, tỉ lệ bình quân trung bình
là 95%, cao nhất là 99% và thấp nhất là 86%.
Hoạt động tín dụng luôn giữ vị trí quan trọng
đối với sự tồn tại và phát triển của các QTDND
ở tỉnh An Giang. Tuy nhiên, mức độ mở rộng
quy mô hoạt động giữa các QTDND trên địa

bàn khác nhau đáng kể. Điều này thể hiện qua
tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân.
Bảng 3 còn cho thấy có QTDND không
tăng trưởng được dư nợ, có đơn vị tăng trưởng
với tốc độ hơn 80%. Từ năm 2013, các
QTDND đều tăng nguồn vốn tự có, đảm bảo
thực hiện đúng quy định của Ngân hàng Nhà
nước trong việc duy trì tỉ lệ an toàn vốn tối
thiểu ở mức 8%. Các yếu tố kinh tế vĩ mô
không biến động mạnh, phù hợp với sự thay
đổi nền kinh tế chung của cả nước. Mức tăng


70 Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 64-75

trưởng kinh tế trung bình là 6%, tỉ lệ lạm phát
Bảng 3

được kiểm soát tốt.

Thống kê mô tả các biến trong mô hình
Tên biến

Trung bình Lớn nhất Nhỏ nhất Độ lệch chuẩn

Biến phụ thuộc
Tỉ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM)
Tỉ lệ nợ xấu (NPL) §

6,39

1,26

12,46
10,70

-0,09
0,00

1,96
1,72

8,52
79,40
10,98
0,65
8,73
18,19
94,83

24,13
95,51
13,27
1,00
21,02
82,21
99,08

2,55
31,51
9,52

0,00
4,02
-8,73
86,27

3,80
13,03
1,01
0,48
3,20
12,30
2,90

6,29
8,22

9,36
16,93

4,82
0,91

1,72
5,93

Biến độc lập (Các yếu tố vi mô)
Tỉ lệ vốn chủ sở hữu §
Tỉ lệ vốn huy động
Quy mô QTDND §
Đáp ứng tỉ lệ an toàn vốn

Tỉ lệ an toàn vốn
Tốc độ tăng trưởng tín dụng §
Tỉ lệ tài sản sinh lời §
Biến độc lập (Các yếu tố vĩ mô)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế §
Tỉ lệ lạm phát §
Tổng số quan sát

120

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các QTDND tỉnh An Giang (2010 – 2014)
Ghi chú: § biến độc lập có ảnh hưởng đến tỉ lệ thu nhập lãi cận biên và tỉ lệ nợ xấu

Nhìn chung, trong giai đoạn 2010 – 2014,
hệ thống QTDND hoạt động trong môi trường
thuận lợi và phát triển khá ổn định. Ngoại trừ
1 QTDND có tỷ lệ nợ xấu cao, phần lớn các
QTDND kinh doanh có lợi nhuận và đảm bảo
an toàn trong hoạt động.
3.3. Mô hình ước lượng và các kiểm định
Mô hình ước lượng mối quan hệ tương
tác giữa lợi nhuận và rủi ro tín dụng của các
QTDND ở An Giang được ước lượng đồng
thời bằng phương pháp bình phương bé nhất
tổng quát hai bước (G2SLS) dựa theo Hsiao
(1997). Hệ phương trình được mô tả như sau:
6

1  10  112   1k 1k  u1


(1)

k 1
6

2   20   211    2  2  u2

(2)

 1

trong đó, các biến phụ thuộc và độc lập

được định nghĩa và mô tả ở Bảng 1.
Kiểm định đa cộng tuyến, phương sai sai
số thay đổi và tự tương quan được thực hiện
cho từng phương trình của mô hình cho thấy
hệ số tương quan (corr) từng cặp giữa các
biến độc lập đều nhỏ hơn 0,8; kiểm định
Wooldridge cho thấy không tồn tại hiện tượng
tự tương quan; kiểm định Modified Wald xác
nhận có hiện tượng phương sai sai số thay đổi
ở mức ý nghĩa 1% (phương trình lợi nhuận).
Trong khi đó, hệ số tương quan (corr) từng
cặp giữa các biến độc lập đều nhỏ hơn 0,8;
kiểm định Wooldridge và Modified Wald xác
nhận có hiện tượng tự tương quan và phương
sai sai số thay đổi ở mức ý nghĩa 1% (phương
trình rủi ro tín dụng).
Để loại bỏ tác động của hiện tượng

phương sai sai số thay đổi và tự tương quan
đến kết quả nghiên cứu, bài viết ước lượng


Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 64-75 71

từng phương trình bằng mô hình FEM và
REM theo sai số chuẩn điều chỉnh (Robust
standard error).
3.4. Kết quả ước lượng và thảo luận
Kiểm định Hausman cho thấy mô hình
REM ước lượng bằng phương pháp bình
phương bé nhất tổng quát hai bước (G2SLS)
phù hợp để giải thích kết quả mô hình lợi
nhuận và mô hình rủi ro tín dụng. Kết quả ước
lượng mô hình hồi quy được trình bày ở Bảng
4. Trong đó, phương trình lợi nhuận (NIM)
được giải thích bởi 4 biến độc lập có ý nghĩa,
với R2 ở mức 43,2% và phương trình rủi ro tín
dụng (NPL) được giải thích bởi 3 biến có ý
nghĩa, với R2 ở mức 28,08%.
Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận:
Các yếu tố ảnh hưởng đến NIM bao gồm:
tỉ lệ nợ xấu, tỉ lệ vốn chủ sở hữu, tốc độ tăng
trưởng kinh tế và lạm phát. Thứ nhất, tỉ lệ nợ
xấu (NPL) có quan hệ nghịch biến với NIM ở
mức ý nghĩa 10%. Trong điều kiện các yếu tố
khác không đổi, khi tỉ lệ nợ xấu của các
QTDND tăng 1 điểm % sẽ làm cho NIM giảm
0,4092 điểm % và ngược lại. Tỉ lệ nợ xấu tăng

làm giảm tỉ lệ thu nhập lãi cận biên do thu
nhập lãi giảm. Kết quả ước lượng này tương
đồng với kỳ vọng ban đầu và các kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Thanh Dương (2013);
Akhtar và cộng sự (2011); Badola và Verma
(2006); Nahang và Araghi (2013); Nawaz và
Munir (2012); Said và Tumin (2011) về sự tác
động ngược chiều của rủi ro tín dụng đến khả
năng sinh lời của các TCTD. Kết quả cho thấy
mối quan hệ nghịch chiều giữa rủi ro tín dụng
và lợi nhuận, trong đó rủi ro tín dụng tăng là
nguyên nhân làm giảm lợi nhuận tại các
QTDND ở tỉnh An Giang.
Thứ hai, tỉ lệ vốn chủ sở hữu có mối
tương quan tỉ lệ thuận với NIM ở mức ý nghĩa
1%. Trong điều kiện các yếu tố khác không
đổi khi tỉ lệ vốn chủ sở hữu tại các QTDND
tăng 1 điểm % sẽ làm cho NIM tăng 0,2463
điểm % và ngược lại. Kết quả này phù hợp
với kỳ vọng và các nghiên cứu thực nghiệm

của Mamatzakis và Remoundos (2003);
Obamuyi (2013); Sufian và Chong (2008);
Said và Tumin (2011); Vong và Chan (2009);
và Dietrich và Wanzenried (2011). Tỉ lệ vốn
chủ sở hữu góp phần tăng lợi nhuận thông qua
hai kênh chủ yếu: khả năng chống đỡ rủi ro
tốt trong điều kiện hoạt động kinh doanh gặp
khó khăn và khả năng cạnh tranh với chi phí
huy động vốn thấp.

Hai yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến NIM là
tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh (GRDP) và
tỉ lệ lạm phát. Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng
kinh tế có mối quan hệ nghịch chiều với NIM
của các QTDND ở mức ý nghĩa 1%. Kết quả
này lại trái ngược với kỳ vọng ban đầu và các
nghiên cứu thực nghiệm của (Gul và cộng sự,
2011; Dietrich và Wanzenried, 2011;
Obamuyi, 2013; và Sufian và Chong, 2008).
Kết quả ước lượng cho thấy, trong điều kiện
các yếu tố khác không đổi, khi tốc độ tăng
trưởng kinh tế của tỉnh tăng 1 điểm % thì
NIM tại các QTDND ở tỉnh An Giang giảm
0,3338 điểm % và ngược lại. Mối quan hệ này
được giải thích do khả năng cạnh tranh của
các QTDND trên địa bàn còn thấp. Khi nền
kinh tế tăng trưởng, thu nhập của người dân
cao hơn, nhu cầu vốn và các tiện ích sản phẩm
dịch vụ ngân hàng cũng tăng lên. Trong khi
đó, các QTDND không đủ nguồn lực tài chính
và nhân lực để giữ khách hàng. Sản phẩm
dịch vụ của QTDND không đa dạng, chủ yếu
là cho vay. Thứ hai, lạm phát có tác động
thuận chiều với NIM ở mức ý nghĩa 1%.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi,
lạm phát tăng 1 điểm % làm cho NIM tăng
0,0817 điểm% và ngược lại. Điều này được
giải thích do sự điều chỉnh lãi suất của các
QTDND theo hướng có lợi để bù đắp chi phí
tăng thêm do lạm phát. Kết quả này phù hợp

với các kết quả nghiên cứu thực nghiệm của
(Gul và cộng sự, 2011; Dietrich và
Wanzenried, 2011; và Frederick, 2014) và kỳ
vọng ban đầu về mối quan hệ giữa lạm phát
và lợi nhuận của TCTD.


Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 64-75

72

Bảng 4
Kết quả hồi quy các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận và rủi ro tín dụng tại các QTDND ở tỉnh An Giang theo mô hình REM điều chỉnh sai số và 2SLS
Robust
REM
Tên biến
Hệ số

S.E

2SLS
REM
Giá trị
P

Hệ số

S.E

Giá

trị P

Kết quả hồi quy các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận tại các QTDND
Tỷ lệ nợ xấu (NPL)
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ vốn huy động
Quy mô QTDND
Đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn

-0,3673*** 0,1096

0,001

-0,4092* 0,2222

Robust
REM

Tên biến
Hệ số

S.E

2SLS
REM
Giá trị
P

Hệ số


S.E

Giá
trị P

Kết quả hồi quy các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các QTDND
0,066

Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
(NIM)

-0,1955 0,1289

0,129

-0,1601

0,1848

0,386

0,004 0,2463*** 0,0604

0,000 Tỷ lệ an toàn vốn

-0,0534 0,0588

0,364

-0,0592


0,0615

0,335

-0,0191 0,0135

0,157

-0,0189 0,0145

0,194 Tốc độ tăng trưởng tín dụng

-0,0137 0,0084

0,103

-0,0136*

0,0077

0,075

-0,3427* 0,1914

0,073

-0,3668 0,2842

0,197 Quy mô QTDND


-0,5095 0,3288

0,121

-0,4865*

0,2890

0,092

0,1336 0,3789

0,724

0,1282 0,2963

0,665 Tỷ lệ tài sản sinh lời

-0,1796 0,1235

0,146

-0,1800***

0,0425

0,000

0,2471*** 0,0850


Tốc độ tăng trưởng kinh tế -0,3287*** 0,0622

0,000 -0,3338*** 0,0755

0,000 Tốc độ tăng trưởng kinh tế

-0,1093 0,0729

0,133

-0,0981

0,0842

0,244

Lạm phát

0,0825** 0,0323

0,011 0,0817*** 0,0258

0,002 Lạm phát

-0,0019 0,0136

0,889

-0,0064


0,0266

0,811

11,3315*** 2.9847

0,000 11,6796*** 3,5636

0,001 Hằng số

26,5554 16,2972

0,103 26,13635*** 4,533934 0,0000

Hằng số
2

R (%)
Giá trị thống kê F
Pr >

2

43,22

43,20

R (%)


218,20

85,67

Giá trị thống kê F

0,0000

Pr > 

0,0000

Kiểm định Hausman
Pr >

2

2

2

28,20

28,08

3,89

41,06

0,7922


0,0000

0,4051

0,8437

Kiểm định Hausman
0,3846

0,1688

Số quan sát
Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các QTDND tỉnh An Giang (2010 – 2014)
Ghi chú: *, **, *** tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%

Pr > 

2

120


Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 64-75 73

Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro
tín dụng:
Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín
dụng bao gồm: tốc độ tăng trưởng tín dụng,
quy mô QTDND và tỉ lệ tài sản sinh lời. Thứ

nhất, tốc độ tăng trưởng tín dụng có tương
quan nghịch với NPL ở mức ý nghĩa 10%.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi,
tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng 1 điểm % sẽ
làm cho NPL giảm 0,0136 điểm % và ngược
lại. Kết quả này trái ngược với kỳ vọng ban
đầu và kết quả nghiên cứu của Das và Ghosh
(2007). Nguyên nhân được giải thích do tăng
trưởng tín dụng kéo theo tổng dư nợ tăng, làm
cho tỷ lệ nợ xấu giảm. Thứ hai, quy mô
QTDND có quan hệ tỉ lệ nghịch với NPL ở
mức ý nghĩa 10%. Trong điều kiện các yếu tố
khác không đổi, khi tổng tài sản tại QTDND
tăng 1% sẽ làm cho tỉ lệ nợ xấu tại các tổ chức
này giảm 0,4865 điểm % và ngược lại. Kết
quả này không tương đồng với kết quả nghiên
cứu của Das và Ghosh (2007), Altunbas và
cộng sự (2007); và Zribiand và Boujelbène
(2011). Nguyên nhân được giải thích do quy
mô QTDND thể hiện khả năng cạnh tranh của
đơn vị trên địa bàn. Một QTDND có quy mô
lớn sẽ thuận lợi trong việc huy động vốn với
chi phí thấp nên chủ động tìm kiếm các khoản
cho vay ít rủi ro. Thứ ba, tỉ lệ tài sản sinh lời
có tương quan nghịch với NPL ở mức ý nghĩa
1%. Khi tỉ lệ tài sản sinh lời tăng 1 điểm % thì
NPL tại các QTDND giảm 0,1800 điểm % và
ngược lại. Kết quả này trái ngược với kết quả
nghiên cứu của Ahmad và cộng sự (2004). Tỷ
lệ tài sản sinh lời tăng cho thấy chất lượng các

khoản đầu tư, cho vay của đơn vị tốt.
Mô hình rủi ro tín dụng cho thấy không
tồn tại mối quan hệ giữa tỷ lệ thu nhập lãi cận
biên và tỷ lệ nợ xấu. Điều này có nghĩa lợi
nhuận không tác động đến rủi ro tín dụng tại
các QTDND ở tỉnh An Giang. Kết quả này
trái ngược với kỳ vọng và nghiên cứu thực
nghiệm của Zribiand và Boujelbène (2011).
Kết quả ước lượng mô hình lợi nhuận và
mô hình rủi ro tín dụng xác nhận không tồn

tại mối quan hệ tương tác giữa lợi nhuận và
rủi ro tín dụng tại các QTDND ở tỉnh An
Giang. Kết quả ước lượng cho thấy rủi ro tín
dụng tác động đến lợi nhuận của các QTDND
trên địa bàn và không tồn tại sự ảnh hưởng
của lợi nhuận đến rủi ro tín dụng. Để dung
hòa mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro tín
dụng, các QTDND phải cố gắng nâng cao
chất lượng tín dụng, tăng dư nợ đồng thời
tăng cường kiểm soát rủi ro.
4. Kết luận và khuyến nghị
Hoạt động tín dụng của các QTDND ở
tỉnh An Giang có ý nghĩa quan trọng trong
việc cung cấp nguồn vốn phục vụ phát triển
kinh tế khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Nhiều hộ gia đình, cá nhân được vay vốn với
lãi suất thấp để phát triển sản xuất, chăn nuôi.
Kết quả là tình trạng cho vay nặng lãi giảm
thiểu, góp phần ổn định trật tự địa phương.

Trong giai đoạn 2010 – 2014, hoạt động của
hệ thống QTDND ở tỉnh An Giang phát triển
khá ổn định. Hầu hết các QTDND kinh doanh
an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, các QTDND
trên địa bàn hoạt động với quy mô nhỏ, năng
lực tài chính thấp, bị giới hạn về địa bàn hoạt
động theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
nên khả năng cạnh tranh với các TCTD khác
còn hạn chế. Tỷ lệ nợ xấu của cả hệ thống
QTDND có chiều hướng tăng. Thêm vào đó,
khả năng sinh lời của tài sản không cao, tỷ lệ
thu nhập lãi cận biên thấp.
Kết quả ước lượng cho thấy mô hình
REM theo phương pháp 2SLS phù hợp để giải
thích kết quả nghiên cứu cho phương trình lợi
nhuận và phương trình rủi ro tín dụng.
Phương trình lợi nhuận chỉ ra rủi ro tín dụng
tăng là nguyên nhân làm cho lợi nhuận tại các
QTDND ở tỉnh An Giang giảm. Cụ thể, trong
điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tỷ lệ
nợ xấu (NPL) tăng 1 điểm % thì tỷ lệ thu nhập
lãi cận biên (NIM) giảm 0,4092 điểm % và
ngược lại. Điều này xảy ra do thu nhập lãi từ
hoạt động cho vay giảm xuống. Bên cạnh đó,
mô hình REM theo phương pháp 2SLS đối
với phương trình rủi ro tín dụng chứng minh


74 Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 64-75


không tồn tại sự tác động của lợi nhuận đến
rủi ro tín dụng. Nói cách khác, tỷ lệ thu nhập
lãi cận biên không ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ
xấu. Kết quả ước lượng tổng hợp từ 2 phương
trình cho thấy không tồn tại mối quan hệ
tương tác giữa lợi nhuận và rủi ro tín dụng tại
các QTDND ở tỉnh An Giang.
Một số biến kiểm soát trong mô hình
cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận và rủi ro tín
dụng. Nghiên cứu xác nhận, ngoài tỷ lệ nợ
xấu, các yếu tố khác như tỷ lệ vốn chủ sở hữu,
tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát cũng
tác động đến tỷ lệ thu nhập lãi cận biên. Kết
quả hồi quy cho thấy tỷ lệ vốn chủ sở hữu và
lạm phát có quan hệ tỷ lệ thuận với biến phụ
thuộc (NIM) trong mô hình, trong khi đó tốc
độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh lại tác động
ngược chiều với lợi nhuận. Đối với yếu tố rủi
ro tín dụng, mặc dù tỷ lệ nợ xấu không chịu
ảnh hưởng bởi tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
nhưng lại chịu tác động ngược chiều với tốc
độ tăng trưởng tín dụng, quy mô và tỷ lệ tài
sản sinh lời. Như vậy, tỷ lệ nợ xấu (NPL) ảnh
hưởng tiêu cực đến tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
(NIM) tại các QTDND ở tỉnh An Giang. Các
QTDND cần kiểm soát nợ xấu và quan tâm
đến chất lượng tín dụng. Ngoài ra, tỷ lệ thu
nhập lãi cận biên và tỷ lệ nợ xấu chịu ảnh
hưởng bởi các yếu tố nội tại của chính các
QTDND và các yếu tố kinh tế vĩ mô trên

địa bàn.

Dựa vào kết quả nghiên cứu, một số
khuyến nghị được đề xuất nhằm giúp các
QTDND kiểm soát rủi ro tín dụng để nâng cao
lợi nhuận bao gồm: (i) kiểm soát đồng thời
vấn đề nợ xấu và quan tâm đến chất lượng tín
dụng để đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu
quả; (ii) để gia tăng lợi nhuận và hạn chế nợ
xấu, các QTDND cần chú trọng đến chất
lượng công tác thẩm định và tần suất kiểm tra,
giám sát vốn vay; (iii) xây dựng chính sách
chia cổ tức hợp lý, đặc biệt là cổ tức cổ phần
thường xuyên để thu hút các thành viên góp
vốn; và (iv) xây dựng mối quan hệ tốt với
chính quyền địa phương để nhận được sự hỗ
trợ trong việc tuyên truyền, phổ biến các
thông tin liên quan của đơn vị nhằm giúp các
QTDND nâng cao uy tín, xây dựng thương
hiệu, đồng thời tạo sự đồng thuận, ủng hộ của
người dân địa phương.
Sử dụng NIM để đo lường lợi nhuận của
các TCTD mặc dù có ưu điểm tuy vậy vẫn
chưa phản ánh đúng bản chất của lợi nhuận do
NIM chưa thể hiện mức sinh lời bình quân từ
toàn bộ hoạt động của đơn vị và chỉ tiêu này
chưa tính đến các khoản chi phí xuất phát từ
hoạt động tín dụng như dự phòng rủi ro và chi
phí xử lý nợ. Do vậy, hướng nghiên cứu tiếp
theo có thể dựa vào tập hợp các tiêu chí phản

ánh lợi nhuận để kiểm chứng mối quan hệ
tương tác giữa lợi nhuận và rủi ro trong các
TCTD

Tài liệu tham khảo
Ahmad, N. H., Ahmad, S. N. (2004). Key factors influencing credit risk of Islamic Bank: A Malaysian case. The
Journal of Muamalat and Islamic Finance Research, 1, 65-80.
Akerlof, G. A. (1970). The market for “Lemons”: Quality uncertainty and the market mechanism. The Quarterly
Journal of Economics, 84, 488-500.
Akhtar, M. F., Ali, K. and Sadaqat, S. (2011). Factors Influencing the Profitability of Conventional Banks of
Pakistan. International Research Journal of Finance and Economics, 66, 117-124.
Altunbas, Y., Carbo, S., Gardener, E. P.M. and Molyneux (2007). Examining the relationships between capital, risk
and efficiency in European banking. European Financial Management, 13, 49-70.
Badola, B. S. and Verma, R. (2006). Determinants of profitability of banks in India. Delhi Business Review, 7,
79-88.


Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 64-75 75
Bích Vân (2015). Hội nghị báo cáo kết quả tình hình hoạt động ngân hàng, các tổ chức tín dụng năm 2014 và triển
khai nhiệm vụ 2015. < [Ngày truy cập: 2 tháng 2 năm 2015].
Bukhari, S. and Qudous, R. (2012). Internal and external determinants of profitability of banks evidence from
Pakistan. Interdisciplinary Journal of Contemporary Research in Business, 3, 1037-1058.
Castro, V. (2012). Macroeconomic determinants of the credit risk in the banking system: The case of the GIPSI.
Economic Modelling, 31, 672-683.
Das, A. and Ghosh, S. (2007). Determinant of credit risk in Indian State – owned banks: An Empirical Investigation.
Munich Personal RePEc Archive, 12, 48-66.
Hsiao, C. (1997). Statistical properties of the two-stage least squares estimator under cointegration. Review of
Economic Studies, 64, 385-398.
Koehn, M. and Santomero, A. (1980). Regulation of bank capital and portfolio risk. The Journal of Finance, 5,
1235-1244.

Molyneux, P. and Thornton, J. (1992). Determinants of European bank profitability. Journal of Banking and
Finance, 16, 1173-1178.
Nahang, F. and Araghi, M. K. (2013). Internal factors affecting the profitability of City Banks. International
Research Journal of Applied and basic Sciences, 5, 1491-1500.
Nawaz, M. and Munir, S. (2012). Credit risk and the performance of Nigerian banks. Interdisciplinary Journal of
Contemporary Research in Business, 4, 49-63.
Nguyễn Thanh Dương (2013). Phân tích rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Tạp chí Nghiên cứu và Trao đổi, 9,
29-39.
Said, R. and Tumin, M. (2011). Performance and Financial Ratios of Commercial Banks in Malaysia and China.
International Review of Business Research Papers International Review of Business Research Papers, 7,
157-169.
Stiglitz, J. E. and Weiss, A. (1981). Credit Rationing in Markets with Imperfect Information. The American
Economic Review, 71, 393-410.
Zribiand, N. and Boujelbène, Y. (2011). The factors influencing bank credit risk: The case of Tunisia. Journal of
Accounting and Taxation, 3, 70-78.



×