Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ tỉnh Thái Nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ SỸ BÁCH

VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN NGỌC HÀ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Luận văn
được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này trung thực và chưa được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 01 tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Hồ Sỹ Bách


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................................1
Chương 1. CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DUỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO
CÁN BỘ Ở VIỆT NAM ...............................................................................................................9
1.1. Các khái niệm cán bộ, cán bộ cơ sở, đào tạo, bồi dưỡng, lý luận chính trị cho
cán bộ ...................................................................................................................... 9
1.2 Nội dung, phương pháp, hình thức đào tạo và bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ .................................................................................................................... 13
1.3 Tầm quan trọng của công tác đào tạo và bồi dưỡng lý luận chính trị đối với
cán bộ .................................................................................................................... 15
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN ....................................................... 23
2.1. Kết quả thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ
tỉnh Thái Nguyên hiện nay.................................................................................... 23
2.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị ở các trung tâm bồi dưỡng
chính trị các huyện, thành, thị ............................................................................... 31
2.3. Những ưu điểm của công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ
tỉnh Thái nguyên hiện nay .................................................................................... 34
2.4. Những nhược điểm của công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán
bộ tỉnh Thái Nguyên hiện nay .............................................................................. 37
2.5. Nguyên nhân của ưu điểm, nhược điểm ........................................................ 42
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN
NAY ................................................................................................................................................ 49
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ ....................................................................... 49
3.2. Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính
trị cho cán bộ......................................................................................................... 52
3.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên ................................. 59
3.4. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật, có chế độ chính sách phù hợp
cho cả chủ thể và đối tượng trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị 63

3.5. Đổi mới chế độ đối với cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính
trị ........................................................................................................................... 66
3.6. Phải xây dựng được quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
cụ thể, sát với điều kiện thực tế ............................................................................ 66
3.7. Nắm chắc đặc điểm của từng loại đối tượng học viên để có phương pháp
giảng dạy, quản lý phù hợp ................................................................................... 68
KẾT LUẬN................................................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 72
PHỤ LỤC...................................................................................................................................... 79


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

ĐT, BD

Đào tạo, bồi dưỡng

ĐT, BDLLCT

Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị

LLCT

Lý luận chính trị

TCLLCT-HC


Trung cấp lý luận chính trị - hành
chính

TTBDCT

Trung tâm bồi dưỡng chính trị

PPGDTC

Phương pháp giảng dạy tích cực


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế đổi mới hiện nay, những chuyển biến căn bản trong đời
sống kinh tế - xã hội với nhiều thuận lợi và thách thức đang đặt ra nhiều
vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn. Để giải đáp những vấn đề đó đòi hỏi
sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động trong Đảng, sự đồng thuận của
toàn xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng. Thực tiễn yêu cầu phải tăng cường đổi
mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác ĐT, BDLLCT cho cán
bộ. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới hết sức nặng nề, khó khăn;
đòi hỏi mỗi cán bộ phải có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực
phù hợp với yêu cầu mới của cách mạng; phải nâng cao trình độ về mọi
mặt, nhất là trình độ LLCT.
Là người lãnh đạo, tổ chức đưa cách mạng Việt Nam đến mọi thắng lợi,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng vai trò của lý luận đối với thực tiễn
cách mạng. V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì
không có phong trào cách mạng” và “Chỉ Đảng nào có được lý luận tiền

phong hướng dẫn, thì mới có khả năng làm tròn vai trò vai trò của chiến sỹ
tiên phong” [66, tr.31,32]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã sớm khẳng định vai
trò quan trọng của lý luận khoa học đối với sự phát triển phong trào cách
mạng. Người nhấn mạnh: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông” [38, tr. 496]. Theo Người, giáo dục lý luận sẽ góp
phần nâng cao trình độ văn hóa và chuyên môn, học tập lý luận không phải là
để thuộc làu sách Mác-Lênin, không phải học một cách giáo điều mà là học
cái tinh thần xử trí đối với mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân

1


mình. LLCT là bộ phận quan trọng của lý luận, phản ánh những tính quy luật
chính trị, các quan hệ chính trị - xã hội, đời sống kinh tế - chính trị - xã hội.
Chính trị là lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, đảng phái, dân tộc, quốc gia;
về mặt nhà nước LLCT thể hiện lợi ích và thái độ của giai cấp cầm quyền đối
với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt chú trọng đến việc ĐT, BD lý luận cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên và nhân dân, coi đây là yếu tố tiên quyết cho sự thành công của cách
mạng.
Học tập và vận dụng tư tưởng của Người, trong quá trình lãnh đạo cách
mạng. Đảng luôn xác định công tác ĐT, BD cán bộ nói chung và công tác
ĐT, BD về LLCT cho đội ngũ cán bộ nói riêng là một bộ phận quan trọng của
công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Năng lực và trình độ lý luận của cán bộ nói chung và CBCCS nói riêng
có vai trò quan trọng nhất trong lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội. Trình độ
LLCT đối với người cán bộ cơ sở là yếu tố “then chốt” cho hoạt động nhận
thức và thực tiễn của họ. CBCCS có nắm vững, hiểu biết sâu sắc LLCT mới

nắm chắc và vận dụng một cách sáng tạo các quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào tình hình cụ thể ở địa phương,
từ đó mới góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung, phát triển lý luận, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay, trình độ học vấn, LLCT, chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực tổ chức, điều hành công việc của CBCCS đã được nâng
lên một bước. Phần lớn cán bộ được rèn luyện, thử thách trong quá trình đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách
nhiệm trong công tác. Thông qua hoạt động thực tiễn, nhiều cán bộ đã tích lũy
được kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu

2


quả hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh ưu điểm đó, CBCCS ở tỉnh
Thái Nguyên còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa ngang tầm với nhiệm vụ chính
trị của mình. CBCCS chưa được ĐT, BD đầy đủ những kiến thức cần thiết;
trình độ LLCT của đội ngũ này còn yếu; công tác ĐT, BDLLCT cho CBCCS
chưa được quan tâm đúng mức. Vì lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Vấn đề đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ tỉnh Thái Nguyên hiện nay” làm
luận văn thạc sỹ, ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ tỉnh Thái Nguyên hiện nay. Trong đó có
các công trình tiêu biểu sau.
- Kỷ yếu khoa học đề tài cấp Bộ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, phân viện Hà Nội (2004): Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (qua khảo sát một số
tỉnh, thành phố phía Bắc nước ta). Kỷ yếu gồm tập hợp nhiều bài viết của

nhiều tác giả đề cập đến các vấn đề như sau: một số vấn đề chung về hệ thống
chính trị và hệ thống chính trị cơ sở; một số vấn đề chung về ĐT, BD cán bộ;
một số vấn đề chung về xây dựng cán bộ cơ sở thời kỳ đổi mới; thực trạng
nhu cầu ĐT, BD LLCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay;
đổi mới nội dung, chương trình ĐT, BD LLCT ở hệ thống Trường Đảng - vấn
đề cấp bách hiện nay; phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng ĐT,
BDLLCT của hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đề tài cấp Bộ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, phân viện
Hà Nội (2004): Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (qua khảo sát một số tỉnh, thành phố
phía Bắc nước ta). Đề tài đã đề cập đến: cơ sở xác định nhu cầu ĐT,
BDLLCT cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay ở nước ta; thực trạng

3


nhu cầu ĐT, BDLLCT cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay ở nước
ta; quan điểm chỉ đạo, phương hướng nhiệm vụ cơ bản và giải pháp chủ yếu
đáp ứng nhu cầu ĐT, BDLLCT cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện
nay ở nước ta.
- Lê Văn Minh (2007), Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo công tác đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở miền
núi từ năm 1996 đến năm 2006, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Luận văn đã phân tích: thực trạng tình hình công tác ĐT, BDLLCT cho cán
bộ chủ chốt các huyện miền núi của Đảng bộ tỉnh Bình Đình trước năm 1996;
hệ thống chủ trương của Đảng về công tác ĐT, BDLLCT; những thành tựu,
hạn chế và rút ra bài học kinh nghiệm bước đầu về sự lãnh đạo công tác ĐT,
BDLLCT cho cán bộ chủ chốt các huyện miền núi của Đảng bộ tỉnh Bình
Định từ năm 1996 đến năm 2006.

- Bùi Đức Lý (2010), Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo công tác đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ năm 1996 đến
năm 2006, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt
Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận văn đã phân
tích: vị trí, vai trò của việc ĐT, BDLLCT; thực trạng công tác ĐT, BDLLCT
cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Quảng Ninh; kết quả và một số kinh
nghiệm về lãnh đạo công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ CBCCS ở tỉnh Quảng
Ninh từ năm 1996 đến năm 2006.
- Cầm Thị Lai (2012), Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị hành chính
cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc giai đoạn hiện
nay, Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội. Luận án đã đề cập đến: khái niệm, vị trí, vai trò, nội dung,
phương thức của ĐT, BDLLCT-HC cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã ở

4


các tỉnh Tây Bắc; thực trạng công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ
chuyên trách cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc những năm qua; dự báo, mục tiêu,
phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác ĐT,
BDLLCT-HC cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc đến
năm 2020.
- Đề tài khoa học cấp tỉnh của Trường Chính trị tỉnh Thái Nguyên
(2011), Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức xã phường, thị trấn tỉnh Thái Nguyên.
Đề tài đã nêu thực trạng công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn ở tỉnh Thái Nguyên từ năm 2005 đến năm 2010;
đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ĐT, BD đội ngũ
cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn ở tỉnh Thái Nguyên từ năm 2012 đến
năm 2015 và những năm tiếp theo.

- Ban Tuyên giáo Trung ương: Chương trình bồi dưỡng chuyên đề:
Phương pháp giảng dạy lý luận chính trị dành cho giáo viên giảng dạy lý luận
chính trị tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, Nxb Lao động xã hội
năm 2008. Cuốn sách này tập trung nêu các phương pháp giảng dạy lý luận,
tập trung cho trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, ít đề cập đến tầm quan
trọng của công tác lý luận chính trị đối với cán bộ nói chung, cán bộ cấp cơ sở
nói riêng.
- Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng cho cán bộ cơ sở”
Nxb Chính trị quốc gia, 2003; “Một số vấn đề đổi mới phương pháp giáo dục
lý luận chính trị”, Nxb thông tấn, 2009. Hai cuốn sách này đã nêu ra những
nội dung chung về phương pháp giáo dục chính trị tư tưởng, đưa ra một số
giải pháp cơ bản trên cơ sở nghiên cứu lý luận và yêu cầu chung.
- Đề tài “Đổi mới tư duy lý luận vào việc đổi mới nội dung, chương trình
bài giảng và giáo trình giảng dạy lý luận Mác - Lênin trong Nghị quyết Đại

5


hội Đảng toàn quốc lần thứ V” (Đề tài do giáo sư Nguyễn Đức Bình làm chủ
nhiệm năm 1991). Mục tiêu của đề tài nhằm hình thành một hệ thống giáo
trình giáo khoa mới về lý luận Mác - Lênin vận dụng ở nước ta.
- Đề tài “ Những luận cứ khoa và thực tiễn cho việc hình thành chương
trình trung cấp lý luận chính trị trong các trường đào tạo cán bộ của Đảng và
Nhà nước ở tỉnh, thành phố năm 2000” (Chủ nhiệm: thạc sỹ Tống Trần Sinh Đề tài cấp bộ, tháng 4 năm 1995). Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này góp
phần đóng góp xây dựng chương trình học trung cấp lý luận cho Trường
Chính trị tỉnh, thành phố và các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, đáp ứng
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp cơ
sở trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Đề tài 0206 - KHXH “Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
cấp huyện thuộc diện Tỉnh ủy quản lý trong thời kỳ phát triển mới của Tỉnh

hà Tĩnh” (Cơ quan chủ trì: Ban tuyên giáo tỉnh ủy, chủ biên: Nguyễn Thiện,
tháng 6 năm 2006). Đề tài này đề cập đến một số nội dung về lý luận, tầm
quan trọng và vai trò của công tác cán bộ trước yêu cầu mới, đặc biệt là trình
độ của cán bộ chủ yếu là cán bộ cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh.
- Đỗ Cao Quang: “Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã miền núi hiện nay”, Luận văn thạc sỹ, mã số: LA MSR - 140
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996. Luận văn này đã phân
tích việc nâng cao trình độ tư duy lý luận của cán bộ cấp cơ sở, nêu lên những
khó khăn đặc thù của miền núi; đề ra những yêu cầu, phương pháp tiếp cận
mới trong việc dạy và học tập lý luận chính trị.
Ngoài ra còn nhiều công trình khác. Các công trình khoa học nói trên đã
đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về giáo dục chính trị và ĐT, BDLLCT
cho đội ngũ cán bộ; chỉ ra vai trò quan trọng trong việc định hướng tư tưởng
cho cán bộ trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Tuy nhiên về thực trạng và

6


giải pháp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ tỉnh Thái Nguyên
hiện nay thì chưa có công trình nào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích vai trò tầm quan trọng và thực trạng của công tác
ĐTBDLLCT luận văn nhằm đề xuất những giải pháp nhằm giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác ĐT, BDLLCT cho cán bộ của tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bày quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác ĐT, BDLLCT
cho đội ngũ cán bộ nói chung và CBCCS nói riêng.
- Phân tích thực trạng công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ tỉnh
Thái Nguyên hiện nay.

- Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác ĐT, BDLLCT cho đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Về thời gian: từ năm 2015 đến nay.
5. cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài của luận văn là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác
tổ chức cán bộ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

7


Phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn là: so sánh, phân tích, tổng hợp,
quy nạp, diễn dịch.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
và học tập các chuyên đề về chính trị học hoặc sử dụng trong các Trường
Chính trị.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn cung cấp cơ sở khoa học nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm có 3 chương

Chương 1: Công tác đào tạo, bồi duỡng lý luận chính trị cho cán bộ ở
Việt Nam
Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng
lý luận chính trị cho cán bộ tỉnh Thái Nguyên hiện nay

8


Chương 1
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DUỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO CÁN BỘ Ở VIỆT NAM
1.1. Các khái niệm cán bộ, cán bộ cơ sở, đào tạo, bồi dưỡng, lý luận
chính trị cho cán bộ
1.1.1. Khái niệm cán bộ
Từ cán bộ được du nhập vào nước ta từ Trung Quốc và được dùng phổ
biến trong thời kỳ kháng chiến, nó được dùng để phân biệt với nhân dân. Từ
cán bộ có hai nghĩa chủ yếu. Nghĩa thứ nhất là cái khung, cái khuân. Nghĩa
thứ hai là người nòng cốt, người chỉ huy. Trong một thời gian dài, ở nước ta
từ cán bộ gần như được dùng thay thế cho từ công chức.
Trong Từ điển Tiếng Việt, khái niệm Cán bộ được hiểu như sau:“Cán bộ
là người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, đảng
và đoàn thể”. Khoản 1, Điều 4, Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 quy định:
“Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước” [48, tr.1].

1.1.2. Khái niệm cán bộ cơ sở
Khoản 3, Điều 4, Luật Cán bộ, công chức 2008 quy định: Cán bộ xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được
bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một

9


chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [48, tr.2].
Trong số cán bộ cơ sở có: cán bộ chuyên trách cấp xã, công chức cấp xã,
những người hoạt động chuyên trách cấp xã. Cán bộ chuyên trách cấp xã là
những người giữ chức vụ bầu cử theo nhiệm kỳ ở cấp xã. Cán bộ chuyên
trách cấp xã gồm có: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam, Chủ tịch
Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Công chức cấp xã là những người được tuyển dụng. Công chức cấp xã
gồm: Trưởng công an; Chỉ huy trưởng quân sự; Văn phòng - Thống kê; Địa
chính - Xây dựng - Đô thị - Môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc Địa
chính Nông nghiệp - Xây dựng và Môi trường (đối với xã); Tài chính - Kế
toán; Tư pháp - Hộ tịch; Văn hóa - Xã hội.
Những người hoạt động chuyên trách cấp xã gồm: Chủ tịch Hội người
cao tuổi; Chủ tịch Hội chữ thập đỏ; Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc;
Phó chủ tịch các đoàn thể; Phó Trưởng Công an, Phó Chỉ huy trưởng quân sự,
cán bộ Văn phòng Đảng ủy, cán bộ Dân số - Gia đình - Trẻ em.
1.1.3. Các khái niệm đào tạo và bồi dưỡng
Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ

năng theo quy định của từng cấp học, bậc học.
Bồi dưỡng là quá trình bổ sung, cập nhật, nâng cao kiến thức và kỹ năng
làm việc trên nền tảng kiến thức đã được đào tạo.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội thì
“đào tạo” được hiểu là “dạy dỗ, rèn luyện để trở thành ngời có hiểu biết, có
nghề nghiệp” [63, tr.593]. Điều 5, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày

10


05/3/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức định nghĩa: “Đào
tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo
quy định của từng cấp học, bậc học” [22, tr.2].
Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội thì
“bồi dưỡng” là “làm cho tốt hơn giỏi hơn” [63, tr.191]. Theo Điều 5, Nghị
định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi
dưỡng công chức đã nêu rõ: “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng
cao kiến thức, kỹ năng làm việc” [22, tr.2].
Như vậy, đào tạo cán bộ và bồi dưỡng cán bộ là quá trình tác động đến
tâm lý, nhân cách của cán bộ, làm cho họ tốt hơn về đạo đức và giỏi hơn về
năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, bồi dưỡng cán bộ có những đặc
điểm cơ bản khác với đào tạo cán bộ. Bồi dưỡng cán bộ chủ yếu là bổ sung,
cập nhật kiến thức, thông tin và những tri thức mà cán bộ đã có.
1.1.4. Khái niệm lý luận chính trị
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ những kinh nghiệm
thực tiễn, phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên mang tính quy luật
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan và được biểu đạt bằng hệ
thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật [47, tr.88]. “Chính trị theo
nguyên nghĩa của nó là những công việc của Nhà nước, là phạm vi hoạt động
gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc, các nhóm xã hội khác nhau mà hạt

nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [1, tr.507].
Lý luận là một phạm trù khoa học phản ánh hiện thực khách quan, tồn tại và
phát triển cùng với sự phát triển của trí tuệ loài người trên mọi lĩnh vực tự
nhiên và xã hội. Theo Từ điển Triết học: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức
về tự nhiên và xã hội tích lũy được trong quá trình lịch sử”; là “Hệ thống tư
tưởng chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức”. Lý luận là sự tổng hợp về những
tri thức tự nhiên và xã hội được tích lũy trong quá trình lịch sử nhân loại. Hồ

11


Chí Minh cho rằng : “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài
người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá
trình lịch sử”. Lý luận xuất phát từ thực tiễn và có vai trò định hướng, soi
đường cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Theo Từ điển tiếng Việt: “Lý
luận là tổng kết có hệ thống những kinh nghiệm của loài người phát sinh từ
thực tiễn để chi phối và cải tạo thực tiễn”. Theo Lênin, lý luận có vai trò hết
sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng: “Không có lý luận cách mạng thì
cũng không thể có phong trào cách mạng” và “chỉ đảng nào được một lý luận
tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên
phong”. Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “Đảng không có chủ nghĩa cũng như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
LLCT là lý luận trong lĩnh vực chính trị. LLCT ra đời khi xã hội có giai
cấp và đấu tranh giai cấp để đại diện cho một lợi ích của một đảng, một giai
cấp nhất định trong xã hội. LLCT là một hệ thống các quan điểm, chủ trương
của một đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước [14,
tr.54]. LLCT của giai cấp vô sản là hệ tư tưởng chân chính nhất của giai cấp
vô sản trong cuộc đấu tranh giải phóng mình, giải phóng nhân dân lao động
khỏi áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản. Lý luận chính trị của giai cấp vô sản
là sự khái quát tri thức nhân loại và tổng kết kinh nghiệm của phong trào công

nhân thế giới làm công cụ đắc lực cho việc giành và giữ chính quyền của giai
cấp công nhân ở mỗi quốc gia, dân tộc. Lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay
là hệ thống những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
cùng những tinh hoa tư tưởng chính trị của dân tộc và nhân loại.

12


1.2 Nội dung, phương pháp, hình thức đào tạo và bồi dưỡng lý luận
chính trị cho cán bộ
1.2.1. Nội dung đào tạo và bồi dưỡng
Nội dung đào tạo và bồi dưỡng LLCT gồm đào tạo và bồi dưỡng trung
cấp lý luận chính trị - hành chính và đào tạo và bồi dưỡng cao cấp lý luận
chính trị.
Nội dung đào tạo và bồi dưỡng trung cấp lý luận chính trị - hành chính
thực hiện theo Chương trình đào tạo Trung cấp lý luận Chính trị -Hành chính
mới do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã ban hành theo quyết định
số: 1479/QĐ-HVCTQGHCM ngày 21/4/2014 (chương trình này được gọi là
chương trình 2014, thay thế cho chương trình 2009 được ban hành theo quyết
định số: 1845/QĐ-HVCT-HCQG ngày 29/7/2009).
Nội dung đào tạo và bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị - hành chính
hiện nay áp dụng từ tháng 8 năm 2014; chương trình đó bao gồm 4 khối kiến
thức: 1, Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh; 2, Đường lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; 3, Các vấn đề khoa học chính trị và lãnh
đạo, quản lý; 4, Các chuyên đề đặc thù và bổ trợ (được cấu tạo thành 2
phần: Các chuyên đề bắt buộc và Các chuyên đề tự chọn). Chương trình này
là có tính thực tiễn cao hơn, cung cấp kiến thức toàn diện hơn, dành nhiều
thời gian cho thảo luận, tự nghiên cứu, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người
học. Về lôgic thiết kế, gần đây Học viện áp dụng chương trình có sự tích hợp

cả hình thức môn học và hình thức học theo chuyên đề. Chương trình đào tạo
mới này đã thể hiện những ưu điểm lớn so với các chương trình áp dụng trước
đây. Tuy nhiên, qua thực tế sử dụng, chương trình mới này cũng đã bộc lộ
những hạn chế nhất định, cần được tiếp tục điều chỉnh. Bởi vì các bộ tài liệu
kèm theo chương trình này (do đội ngũ giảng viên làm công tác lý luận đảm

13


nhiệm) còn thiếu tính thực tiễn và ít trang bị kỹ năng làm việc cụ thể cho các
chức danh.
1.2.2. Hình thức đào tạo và bồi dưỡng
Cho đến nay, ở Việt Nam, việc ĐT, BD cán bộ nói chung và ĐT,
BDLLCT nói riêng thường là qua mấy hình thức sau đây: Một là, tự đào tạo,
bồi dưỡng không qua trường lớp. Hai là, được đào tạo, bồi dưỡng theo trường,
lớp, theo bài bản có hệ thống, liên thông từ thấp đến cao. Trong thời kỳ cách
mạng Việt Nam sau năm 1954, nhiều cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng theo
cách này, thậm chí còn được đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài. Hệ thống các
lớp đào tạo của Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc trước đây, nay là Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, đóng một vài trò cực kỳ quan
trọng đối với quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hình thức này. Không
phải ngẫu nhiên mà Trường được mang tên Nguyễn Ái Quốc, mang tên Hồ
Chí Minh, và không phải ngẫu nhiên Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt đến hoạt
động của Trường. Ba là, vừa được đào tạo, bồi dưỡng theo trường lớp, vừa
được rèn luyện trong thực tế, vừa là quá trình tự đào tạo.
Nghiên cứu cuộc đời Hồ Chí Minh, chúng ta thấy bản thân Người đã trải
qua cả ba hình thức đó. Hình thức chủ yếu và thành công nhất của Người là tự
đào tạo, rèn luyện trưởng thành trong thực tế. Hồ Chí Minh rất coi trọng công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Sau khi tìm thấy con đường cứu nước, con
đường theo chủ nghĩa Mác - Lênin, con đường theo cách mạng vô sản, Hồ

Chí Minh đã tích cực chuẩn bị về mọi mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hồ Chí Minh đã lập ra tổ chức Hội Việt Nam Cách mệnh Thanh
niên từ năm 1925 và mở các lớp huấn luyện cho thanh niên Việt Nam yêu
nước cho tổ chức đó ở Quảng Châu (Trung Quốc). Người trực tiếp giảng bài
và sau này đến năm 1927, những bài giảng đó được tập hợp trong cuốn
sách Đường cách mệnh. Ngoài việc đào tạo, huấn luyện ở các lớp của Hội

14


Việt Nam Cách mệnh Thanh niên, Hồ Chí Minh còn lựa chọn một số thanh
niên yêu nước gửi đi học ở Trường quân sự Hoàng Phố (của Quốc dân đảng
Trung Quốc), một số sang hoạt động, rèn luyện ở Đảng Cộng sản Trung
Quốc, một số sang học ở Trường Đại học cộng sản Phương Đông của Quốc tế
Cộng sản tại Mátxcơva (Liên Xô). Hồ Chí Minh còn biên soạn nhiều tài liệu,
trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng các loại cán bộ.
1.3 Tầm quan trọng của công tác đào tạo và bồi dưỡng lý luận chính
trị đối với cán bộ
Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn đạt được sau
hơn 30 năm đổi mới. Có được những kết quả đó là do Đảng đã vận dụng đúng
đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực tiễn cách mạnh Việt Nam. Có thể thấy, công tác ĐT, BDLLCT trong thời
gian qua đã góp phần không nhỏ vào kết quả trên. ĐT, BDLLCT là tuyên
truyền, giáo dục những vấn đề thuộc LLCT, giải thích các sự vật hiện tượng
diễn ra trong tự nhiên, xã hội. ĐT, BDLLCT đem đến cho mọi người những
hiểu biết về quy luật phát triển xã hội, về thế giới quan, nhân sinh quan,
đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, ĐT,
BDLLCT còn là việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, xây dựng thành hệ thống
quan điểm LLCT và phát triển tư tưởng xã hội.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác-Ph.Ănghen đã nêu lên

hai đặc điểm cơ bản của người cộng sản, đó là lòng trung thành và sự nghiệp
cách mạng của giai cấp công nhân và sự hiểu biết về lý luận.Về mặt thực tiễn,
những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở
các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên. Về mặt lý luận
họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu những điều kiện,
tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản [27, tr.614-615]. Bên cạnh
đó, C. Mác-Ph.Ăngghen cũng nhận định rằng giáo dục, bồi dưỡng LLCT cho

15


đội ngũ cán bộ là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mỗi Đảng Cộng
sản, là điều kiện dẫn đến mọi thắng lợi của các phong trào cách mạng; nhờ
được ĐT, BDLLCT mà giai cấp vô sản “sẽ có khả năng đảm nhận vai trò lãnh
đạo nhờ sự hơn hẳn về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của mình” [26, tr.32].
V.I.Lênin nhận định: không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không
làm công tác lý luận, cũng như không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại
không hướng công tác đó theo những nhu cầu của sự nghiệp, mà lại không
tuyên truyền trong công nhân những kết luận của lý luận đó và không giúp đỡ
họ tổ chức nhau lại [66, tr.382]. Người khẳng định “Trong lịch sử, chưa hề có
một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được
trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [65, tr.143].
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt
xuất, đồng thời cũng là nhà LLCT, luôn coi trọng và quan tâm đến công tác
ĐT, BDLLCT. Theo Người, đây là hoạt động quan trọng quyết định đến sự
thành bại của sự nghiệp cách mạng xuyên suốt mọi giai đoạn lịch sử. Với ý
nghĩa đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương
hướng cho chúng ta trong công việc thực tế” [37, tr.233] và “Huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng” [37, tr.269]. Do nhận thức rõ tầm quan trọng

của LLCT và vai trò của công tác giáo dục LLCT, nên trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm tới
tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin cho các chiến sỹ cách mạng và
nhân dân Việt Nam từ những năm 20 của thế kỷ XX. Năm 1925, Nguyễn Ái
Quốc bắt đầu mở các lớp giáo dục lý luận cách mạng cho những người yêu
nước của Việt Nam. Những bài giảng của Người được tập hợp lại và xuất bản
thành tác phẩm Đường Kách mệnh do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các
dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản năm 1927. Ngay trang bìa dưới tên

16


Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã trích câu của V.I.Lênin trong tác
phẩm Làm gì? Như một lời tựa: “không có lý luận cách mệnh, thì không có
cách mệnh vận động…Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách
mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiên phong” [19. tr, 259]. Theo
Người, cách mạng muốn thành công, đảng phải vững mạnh, đảng muốn vững
mạnh phải có lý luận soi đường và tất cả cán bộ, đảng viên cần phải hiểu và
thực hành theo lý luận đó. Người viết: Đảng có vững, cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững
thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo
chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí
khôn, tàu không có bàn chỉ nam [38, tr.268]. Nguyễn Ái Quốc đã tuyên truyền
LLCT để thành lập Đảng và Người cùng với Đảng liên tục giáo dục LLCT
cho các đối tượng người Việt Nam yêu nước, dẫn đến Cách mạng Tháng tám
thành công, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hồ Chí Minh cho
rằng ĐT, BDLLCT góp phần nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng
viên và quần chúng nhân dân; làm cho chủ nghĩa Mác-Lê nin trở thành hệ tư
tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, giúp cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân xây dựng thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn.

Tháng 5/1966, tại lớp huấn luyện đảng viên mới do Thành ủy Hà Nội tổ chức,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội
khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các
chú phải chịu khó học tập lý luận Mác-Lê nin, học tập đường lối, chính sách
của Đảng; đồng thời phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ” [39, tr.92].
Người chỉ rõ: “Mỗi đảng viên phải tích cực học tập. Phải thực hiện lời dạy
của Lênin là học, học nữa, học mãi. Học phải đi đôi với hành. Học để hành
ngày càng tốt hơn; phải coi việc học tập lý luận chính trị là một nhiệm vụ
quan trọng của mình” [39, tr.94]. Người nhấn mạnh: “Đối với công việc

17


kháng chiến và kiến quốc, lý luận là rất quan trọng. Không hiểu lý luận thì
như người mù đi đêm” [37, tr.231]. Người cũng chỉ rõ rằng phải chống thói
xem nhẹ học tập lý luận chính trị, vì “không học tập lý luận thì chí khí kém
kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương
hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hú hóa xa rời cách mạng” [37, tr.
234]. Đồng thời với việc quán triệt chủ nghĩa Mác-Lênin, các chủ trương
chính sách của Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn yêu cầu cán bộ,
đảng viên phải học kinh nghiệm của nhân dân, phải tổng kết phong trào của
quần chúng để phát triển thành lý luận. Được ĐT, BDLLCT, mỗi người mới
có trình độ giác ngộ cách mạng, nhận thức được quyền lợi và trách nhiệm của
mình. Người giải thích: “Có nắm vững đường lối cách mạng…mới hiểu rõ
mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của
Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay” [37, tr.94]. ĐT, BDLLCT còn tác
động trực tiếp đến con người, đến tư tưởng đạo đức và khả năng thực hành
công việc của mỗi người, giúp họ khắc phục những tư tưởng lạc hậu, nâng
cao tinh thần tự giác và tính tích cực trong quá trình cải tạo, xây dựng con
người mới. Vì thế, Hồ Chí Minh căn dặn: những tư tưởng và hành động có

lợi ích cho Tổ quốc cho đồng bào là bạn; những tư tưởng và hành động có hại
cho Tổ quốc cho đồng bào là kẻ thù; chẳng những ở ngoài, mà chính trong
mình ta cũng có bạn và thù; chúng ta cần phải ra sức tăng cường bạn ở trong
và ở ngoài, kiên quyết chống lại kẻ thù ở ngoài và ở trong mình ta [6, tr.454].
Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động
của mình. Điều đó được Đảng khẳng định rõ trong Cương lĩnh đầu tiên (1930)
và sau này trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
(6/1991): “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền

18


tảng tư tưởng, kim chỉ nan cho mọi hành động” [28, tr.127]. Trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trước xu thế toàn cầu hóa, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII đều khẳng định: “Chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
của Đảng” [2, tr.83]. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, khóa IX chỉ rõ: Trong tình hình hiện nay, với việc thực hiện cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta coi trọng việc học tập và
nghiên cứu lý luận: con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa; đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị; xây dựng chỉnh
đốn Đảng trong điều kiện mới; phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân
lực; đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và sự phát
triển kinh tế tri thức; những tác động mặt trái của toàn cầu hóa; dự báo xu thế
phát triển chủ yếu của thế giới và khu vực; những vấn đề lý luận phục vụ
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch [31, tr.135]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X của Đảng tiếp tục khẳng định: Phải nâng cao ban lĩnh chính trị và trình độ
trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong
hoạt động thực tiễn của Đảng. Nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận và đổi
mới công tác giáo dục lý luận, công tác tư tưởng trong Đảng, nhất là cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp [32, tr.49]. Tại Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X nêu rõ quan điểm chỉ đạo
về công tác LLCT: Một là, công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận cấu
thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng
yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo
dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, khẳng

19


định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn
hóa và đạo đức; thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Hai là, công tác tư tưởng, lý luận, báo chí phải đóng vai
trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, làm cho hệ tư tưởng của Đảng,
của giai cấp công nhân, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những giá trị tốt đẹp trong
truyền thống văn hóa dân tộc, những tinh hoa văn hóa thế giới chiếm vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Ba là, công tác tư tưởng là nhiệm vụ
của toàn Đảng, của tất cả đảng viên, trước hết là của cấp ủy các cấp và đồng
chí Bí thư cấp ủy, của cả hệ thống chính trị với sự tham gia, đóng góp của
nhân dân, trong đó lực lượng nòng cốt là đội ngũ chuyên trách làm công tác
tư tưởng, lý luận, báo chí của Đảng; phải phát huy dân chủ, hai thác mọi tiềm
năng sáng tạo của Đảng và toàn xã hội để tạo bước phát triển mạnh mẽ trên
lĩnh vực tư tưởng, lý luận, báo chí. Bốn là, công tác tư tưởng của Đảng là
công tác đối với con người, một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải

nắm vững những quy luật riêng của tư tưởng, có thái độ, phương pháp khoa
học, kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu định hướng tư tưởng với sự tự nguyện,
giữa lý trí và tình cảm, giữa lời nói và việc làm, giữa “xây” và “chống”, lấy
“xây” làm chính, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, phải gắn bó mật thiết và phục
vụ có hiệu quả công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao đời sống và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. [4, tr.17-19]. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Đổi mới, nâng cao chất lượng công
tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục công dân trong hệ thống các trường
chính trị, các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Mỗi cán bộ, đảng viên
đều phải học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị” [5, tr.256-257].
Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đổi mới vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,

20


văn minh, trong điều kiện quốc tế và trong nước có những thuận lợi nhưng
cũng đầy khó khăn và thách thức. Trong điều kiện đó, trình độ tự giác của cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhiều hay ít, cao hay thấp tùy thuộc
vào sự giác ngộ của họ về mục tiêu, con đường, biện pháp và phương thức
thực hiện mục tiêu đó. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu phát triển mới, đòi hỏi
càng phải đẩy mạnh công tác ĐT, BDLLCT, tạo ra sự thống nhất cao về nhận
thức để có quyết tâm đưa sự nghiệp cách mạng nước ta phải triển vững mạnh
và đúng hướng.
Hiện nay, nước ta đang có một lực lượng CBCCS khá đông đảo. Họ có
phẩm chất đạo đức tốt, có nhiệt tâm cách mạng, có động cơ phấn đấu trong
sáng, lành mạnh, có ý chí phấn đấu vươn lên. Trong thực tiễn, họ cũng đã
đóng góp tích cực với tất cả ý thức trách nhiệm của mình để giải quyết các
nhiệm vụ chính trị của Đảng ở các địa phương, cơ sở. Tuy nhiên, trên thực tế
vẫn còn những cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở năng lực chuyên môn, năng

lực lãnh đạo, quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn
cách mạng mới, vì thế hiệu quả công tác chỉ đạo, lãnh đạo quần chúng của họ
còn hạn chế. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã
chỉ ra một trong số 9 biểu hiện để nhận diện sự suy thoái về tư tưởng chính trị
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan
trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác-Lê
nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước”. Chính vì thế, trong bối cảnh hiện tại việc ĐT,
BDLLCT cho cán bộ cơ sở là vô cùng cần thiết nhằm nâng cao nhận thức, hình
thành thái độ đúng đắn, tạo tâm lý sẵn sàng vượt khó khăn, ý chí sẵn sàng hành
động nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó.

21


×