Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tiểu luận hình sự Hình phạt tử hình BLHS 2015 sđ bs 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.83 KB, 11 trang )

1

Đề số 20: Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam.

Lời mở đầu
Trong luật hình sự Việt Nam, cùng với tội phạm thì hình phạt cũng là một
trong hai nội dung chính của luật hình sự. Mỗi tội phạm có tính chất nguy hiểm và
mức độ nguy hiểm khác nhau thì theo nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự,
người phạm tội sẽ phải chịu hình phạt tương xứng với tội phạm mà bản thân người
phạm tội gây ra. Có nhiều loại hình phạt khác nhau, trong đó hình phạt nghiêm
khắc nhất là hình phạt tử hình. Bộ luật hình sự 2015 đã giảm số lượng hình phạt tử
hình đối với nhiều tội danh so với các Bộ luật hình sự trước đó, điều này nhằm đáp
ứng nhu cầu hội nhập chung, cũng như phù hợp với Chiến lược cải cách tư pháp
nước ta. Hiện tại, Bộ luật hình sự 2015 chỉ còn 15 điều quy định hình phạt tử hình.
Vấn đề hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam luôn được đem ra để cân
nhắc giữa loại bỏ hình phạt tử hình và giữ lại hình phạt tử hình trong mỗi lần làm
luật hình sự ở Việt Nam. Vậy hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam hiện
hành như thế nào?


2

Giải quyết vấn đề
I. Một số vấn đề lí luận chung về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt
Nam:
1. Khái quát chung về hình phạt và mục đích hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam:
Theo điều 30 Bộ luật hình sự 2015, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp
dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn
chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.


Tại điều 32 Bộ luật hình sự 2015 quy định nhiều loại hình phạt, trong đó có
hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương
mại phạm tội mà còn giáo dục ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn
trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
2. Khái quát chung về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam:
Hình phạt tử hình được quy định tại Chương VI: Hình phạt trong Bộ luật hình
sự Việt Nam. Theo đó, điều 40 Bộ luật hình sự 2015 quy định: “Tử hình là hình
phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một
trong các nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con
người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng khác do Bộ luật hình sự quy định”.
Do hình phạt tử hình cũng là một loại hình phạt trong hệ thống hình phạt quy
định trong Bộ luật hình sự, nên hình phạt tử hình trước tiên mang những đặc điểm


3

chung của hình phạt: là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước áp dụng đối với người
phạm tội; tử hình được quy định trong luật hình sự, được Tòa án áp dụng theo một
mô hình tố tụng chặt chẽ đối với người bị kết án; tất cả những người chịu hình phạt
do luật hình sự quy định đều phải chịu án tích. Song, hình phạt tử hình cũng có một
số đặc điểm riêng như sau: chỉ được áp dụng đối với trường hợp phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng thuộc một trong các nhóm tội quy định tại Bộ luật hình sự; tử hình là
hình thức phòng ngừa tái phạm tội của người bị kết án cao nhất do tước đi mạng
sống của người bị kết án, khiến cho họ không có cơ hội tái phạm; hình phạt tử hình
có tính chất không thay đổi, vì tước đi mạng sống của người khác nên nó tước đi
khả năng khắc phục sai lầm trong hoạt động tư pháp.
Theo quy định tại điều 40, hình phạt tử hình là loại hình phạt nghiêm khắc

nhất trong hệ thống các hình phạt trong Bộ luật hình sự. Tính nghiêm khắc nhất của
hình phạt này ở chỗ nó tước đi sinh mạng, tính mạng- quyền sống của người bị kết
án trong trường hợp cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội không còn khả năng
cảo tạo, giáo dục để hoàn lương. Vì vậy, chỉ có tử hình giúp loại bỏ họ vĩnh viễn ra
khỏi đời sống xã hội, giúp đem lại cho cuộc sống bình yên, hạnh phúc.
II.

Phân tích và bình luận hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt

Nam:
1. Phân tích hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam:
Tại khoản 1 điều 40 Bộ luật hình sự 2015 quy định: “Tử hình là hình phạt đặc
biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các
nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các
tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do
Bộ luật hình sự quy định”. Như đã thấy, hình phạt tử hình là hình phạt nghiêm khắc
nhất, chỉ áp dụng cho loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điều 9 Bộ luật hình sự 2015 phân loại tội phạm dựa trên tính chất nguy hiểm
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, bao gồm bốn loại tội phạm:


4

tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong đó, “tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm
có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của
khung hình phạt do Bộ luật hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20
năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” (khoản 4 điều 9). Hình phạt tử hình chỉ được
áp dụng với những người (cá nhân , pháp nhân thương mại pham tội) bị kết án
trong những trường hợp tội gây nguy hại đặc biệt nghiêm trọng cho các quan hệ xã

hội được luật hình sự bảo vệ. Cụ thể, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng phải thuộc
một trong các nhóm tội phạm được quy định tại Phần thứ hai Các Tội phạm của Bộ
luật hình sự, bao gồm: các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm xâm
phạm đến tính con người, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng và một số
loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác mà theo đòi hỏi chung phải bị trừng phạt
nghiêm khắc nhất. Nhà nước là người đứng ra đại diện cho nhân dân, thay mặt
nhân dân loại bỏ, tước bỏ mạng sống của những người thuộc trường hợp tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, việc tước bỏ mạng sống của người thuộc trường
hợp này là vì lợi ích của số đông dân cư, vì lợi ích chung, và như vậy, tử hình cũng
đã nhằm mục đích phòng ngừa chung, răn đe, cảnh báo để mọi người tôn trọng và
tuân thủ pháp luật.
Khoản 2 điều 40 Bộ luật hình sự quy định: “Không áp dụng hình phạt tử hình
đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới
36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử”.
-

Đối với người chưa thành niên (người chưa thành niên là người chưa đủ 18

tuổi- điều 21 Bộ luật dân sự 2015) phạm tội:
(1) Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được
áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không quá 18 năm tù… (khoản 1 điều 101 Bộ luật hình sự 2015);


5

(2) Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được
áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không quá 12 năm tù…. (khoản 2 điều 101 Bộ luật hình sự 2015);
Đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội

hoặc khi bị xét xử, căn cứ để chứng minh có thai là xác nhận của cơ quan y tế có
thẩm quyền, căn cứ để xác định phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi là Giấy
khai sinh, sổ hộ khẩu,… thì đều không được áp dụng hình phạt tử hình.
Đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử, có thể hiểu là
khi phạm tội người đó đủ 75 tuổi trở lên rồi hay khi phạm tội chưa đủ 75 tuổi trở
lên, nhưng khi được đem ra xét xử thì người phạm tội đó từ đủ 75 tuổi trở lên rồi
thì cũng đều không được áp dụng hình phạt tử hình đối với những trường hợp này.
Và với quy định tại khoản 3 điều 40 Bộ luật hình sự 2015: “Không thi hành án
tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;
b) Người đủ 75 tuổi trở lên;
c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị
kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ¾ tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác
tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lí tội phạm
hoặc lập công lớn”.
Quy định tại khoản 3 có thể hiểu rằng bản án kết án những trường hợp người
phạm tội mà hình phạt quy định trong bản án là hình phạt tử hình, trong quá trình
xét xử hay thời gian kháng nghị, kiến nghị, thời gian chờ thi hành án, những người
phạm tội đó chưa có một trong các dấu hiệu tại khoản 3 điều 40 và có thể áp dụng
hình phạt tử hình, thế nhưng đến thời gian thi hành án, thì người phạm tội lại có
một trong các dấu hiệu quy định tại khoản 3 điều 40 thì hình phạt tử hình quy định
trong bản án không được thi hành, nghĩa là những trường hợp trên được miễn hình
phạt tử hình, mà hình phạt tử hình chuyển thành hình phạt tù chung thân.
Một điểm nữa, người bị kết án tử hình có quyền xin ân giảm của Chủ tịch
nước. Nếu như Chủ tịch nước đồng ý chấp nhận đơn xin ân giảm án tử hình thì


6

người bị kết án tử hình chuyển thành tù chung thân. Nếu Chủ tịch nước bác đơn xin

ân giảm án từ hình thì hình phạt án tử hình sẽ được thi hành.
2. Bình luận hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam:
Thứ nhất, như đã nói, do tử hình là hình phạt đặc biệt, nghiêm khắc nhất trong
các hình phạt, nên trình tự, thủ tục thi hành hình phạt này cũng được quy định chặt
chẽ, để đảm bảo mặc dù tước bỏ mạng sống của người khác, nhưng vẫn nhân đạo
nhất, tránh được tối đa việc vi phạm quyền con người, quyền công dân. Điều đó
được thể hiện ở một số điểm sau:
Một, bản án phạt tử hình chỉ được thi hành khi không có kháng nghị theo thủ
tục Giám đốc thẩm, không có đơn xin ân giảm của người bị thi hành án được CHủ
tịch nước chấp nhận ân giảm. Trong trường hợp người bị kết án tử hình không có
đơn xin ân giảm thì Ban giám thị trại giam phải lập biên bản và yêu cầu người bị
kết án kí vào biên bản. Điều này đảm bảo tối thiểu nhất cơ hội cho người bị kết án
tử hình được miễn hình phạt tử hình, được chuyển sang hình phạt tù chung thân.
Hai, trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Chánh án
Tòa án sơ thẩm ra quyết định thi hành án, lập biên bản có rõ ràng thông tin, gửi đến
các cơ quan có thẩm quyền quyền khác, đồng thời Chánh án Tòa án đã xét xử sơ
thẩm ra quyền định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình…
Ba, hình phạt tử hình được thi hành bằng hình thức tiêm thuốc độc.
Thứ hai, trong Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948, tại điều 3
và cụ thể hóa tại điều 6 ICCPR (Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
năm 1966): Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống; Quyền này phải được
pháp luật bảo vệ; Không ai có thể bị tước đoạt mạng sống một cách tùy tiện. Ngoài
ra, việc áp dụng hình phạt tử hình không được trái với những quy định của ICCPR
và Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng (CPPCG);… Như vậy, Việt
Nam đã là thành viên của các Công ước này, mặc nhiên, phải tuân thủ theo. Các


7

công ước hướng tới việc bảo vệ tối đa quyền cơ bản nhất của công dân là quyền

sống. Tuy nhiên, điều 6 ICCPR cũng không thể được coi là cơ sở pháp lí để viện
dẫn trong việc bảo vệ ý kiến cho việc trì hoãn hình phạt tử hình đối với những
người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội đã bị kết án tử hình, chuẩn bị thi
hành án. Hay điều 6 ICCPR cũng không thể coi là căn cứ pháp lí để ngăn cản việc
xóa bỏ hình phạt tử hình ở pháp luật hình sự mỗi quốc gia thành viên, trong đó có
Việt Nam.
Thứ ba, trong mối quan hệ giữa hình phạt tử hình và quyền sống, Công ước
quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) cũng không bắt buộc các
quốc gia thành viên phải xóa bỏ hình phạt tử hình, thế nhưng mặc nhiên cũng
không được lạm dụng hình phạt này một cách bừa bãi mà phải hạn chế sử dụng nó,
chỉ được sử dụng đối với “những tội ác nghiêm trọng nhất” và đặt ra những giới
hạn trong việc áp dụng hình phạt này. Pháp luật Việt Nam hình phạt tử hình vẫn
được duy trì trong Bộ luật hình sự, tuy nhiên đã được giảm đi đáng kể, cụ thể: Bộ
luật hình sự 1985 từ 44 điều xuống còn 29 điều trong bộ luật hình sự 1999, và còn
22 điều trong Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009; đến nay, Bộ luật
hình sự năm 2015 đã bỏ tiếp đi 7 điều, hiện chỉ còn 15 điều quy định hình phạt tử
hình. Như vậy, việc giới hạn áp dụng hình phạt tử hình được Việt Nam tuân thủ rất
triệt để, cũng theo xu hướng nhân đạo chung của Quốc tế có thể những lần sửa đổi
luật tiếp theo Việt Nam sẽ còn giảm tiếp những quy định tội phạm với hình phạt tử
hình.
Thứ tư, quá trính áp dụng hình phạt tử hình, Công ước ICCPR cũng yêu cầu
các quốc gia thành viên có nghĩa vụ bảo đảm những thủ tục tố tụng trong những vụ
việc bị cáo bị xét xử với mức án tử hình phải được thực hiện công bằng nhất. Trong
hệ thống luật pháp Việt Nam, những vấn đề này được quy định khá chặt chẽ từ
Hiến pháp tới Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự…,
có thể kể tới: quyền không bị tra tấn (điều 20 Hiến pháp 2013; điều 10, điều 11 BL


8


TTHS 2015), quyền được suy đoán vô tội và quyền không bị áp dụng hồi tố (điều
31 Hiến pháp 2013; điều 13, điều 3 BL TTHS 2015…), quyền được kháng cáo
(điều 331 BL TTHS 2015),….
III.

Một số kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình trong luật hình sự
Việt Nam:

Thứ nhất, tại Việt Nam, hình phạt tử hình chưa thể bỏ được vì thực trạng tội
phạm diễn ra ngày càng phức tạp, tăng cường về quy mô và mức độ nguy hiểm,
việc duy trì hình phạt tử hình còn chưa thể đảm bảo được tội phạm sẽ giảm, vì thế
chưa thể bỏ được hình phạt tử hình. Loại hình phạt nghiêm khắc nhất này khi được
áp dụng vẫn nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân và vẫn có tác dụng tốt
trong việc ngăn ngừa, phòng chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của chế độ. Tuy nhiên,
đối với những tội phạm nào mà không bao giờ áp dụng hình phạt tử hình trên thực
tế, cũng như đã trải qua nhiều lần sửa đổi mà chưa áp dụng hay không thực sự
nghiêm trọng, không phù hợp với tình hình chính trị, kinh tế xã hội thì nên xem xét
loại bỏ tiếp tục hình phạt tử hình đối với những tội danh này và có những biện pháp
thay thế phù hợp, thích đáng đối với những tội danh này.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 3 điều 40, đối với những trường hợp phạm
tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ tài sản… thì nên loại bỏ khỏi hình phạt tử hình, kể
cả trong trường hợp người phạm tội không “nộp lại được ít nhất ¾ tài sản tham ô,
nhận hối lộ…” mà nên khuyến khích họ có các biện pháp khôi phục lại càng nhiều
tài sản đã tham ô, hối lộ càng có ích cho ngân sách Quốc gia, và có biện pháp thay
thế phù hợp để trừng phạt họ phạm tội tham ô, nhận hối lộ, cũng như răn đe đối với
những trường hợp phạm tội khác; mặt khác cũng đã giảm thiểu hẳn hình phạt tử
hình đối với loại hình phạt này.
Thứ ba, trong điều luật quy định về hình phạt tử hình trong Bộ luật hình sự
vẫn chưa quy định cụ thể chi tiết, chưa giải thích rõ nghĩa “tử hình” nghĩa là như



9

thế nào, mặc dù trong các văn bản khác đã giải thích khi tiến hành thi hành biện
pháp tử hình sẽ áp dụng như thế nào. Đây là điểm thiếu sót, cần phải được sửa đổi
bổ sung.
Thứ tư, cần thống nhất, đồng bộ, nhất quán trong quá trình sửa đổi hình phạt
tử hình khi đặt nó trong mối quan hệ giữa hình phạt tử hình với các hình phạt khác
(hình phạt chính, hình phạt bổ sung), trong mối quan hệ giữa chế định hình phạt và
các chế định của Bộ luật hình sự, giữa Bộ luật Hình sự với Bộ luật tố tụng hình
sự…
Thứ năm, luật hình sự là một phần trong hệ thống pháp luật nước ta, phục vụ
cho mục đích đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ giai cấp. Vì thế, việc hoàn
thiện, sửa đổi, rà soát pháp luật hình sự nói chung trong đó có chế định hình phạt,
hình phạt tử hình cần phải tiến hành đồng bộ, thống nhất với các đạo luật có liên
quan, nếu không sẽ dẫn tới tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, hay những lỗ hổng
pháp luật.


10

Kết luận
Tóm lại, với tính chất là hình phạt nghiêm khắc nhất, song cũng là loại hình
phạt truyền thống và có từ lâu đời, tử hình là hình phạt tước đi quyền sống của con
người, chỉ được áp dụng đối với những trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng,
được quy định trong Bộ luật hình sự và được áp dụng với trình tự thủ tục chặt chẽ
do Tòa án nhân dân quyết định. Trong thời kì ngày nay, tại Việt Nam, hình phạt tử
hình vẫn có tác dụng là phương tiện mạnh mẽ để bảo vệ con người, công dân, bảo
vệ chế độ Xã hội Chủ nghĩa trước những hành vi nguy hiểm đặc biệt đáng kể của
xã hội. Bởi như một tính tất yêu khách quan, tội phạm đe dọa đến sự tồn tại của xã

hội thì phải có những cách trừng trị thích đáng với người phạm tội. Như C.Mác đã
viết: “Nếu như khái niệm tội phạm giả định phải có sự trừng phạt, thì tội phạm thực
tế lại giả định phải có một mức độ trừng phạt nhất định. Tội phạm thực tế là có giới
hạn, Vì vậy, cả sự trừng phạt cũng phải có giới hạn…” vậy nên hình phạt tử hình
vẫn đóng vai trò quan trọng trong chế định hình phạt của Bộ luật hình sự Việt Nam.
Ngày nào vẫn còn những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, thì ngày đó hình phạt tử
hình vẫn còn phát huy tính trừng phạt, răn đe, giáo dục của nó.


11

Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần chung), Trường đại học Kiểm Sát
Hà Nội- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- tr240, tr260-262.
2. Giáo trình Lí luận và pháp luật về quyền con người, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, tr158-160.
3. Bộ luật Hình sự 2015.
4. Luật thi hành án hình sự 2010.
5. Nghị định số 82/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 của Chính phủ quy định về thi
hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc.
6. />


×