Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận công pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.01 KB, 19 trang )

Đề tài số 20: Liên Hợp Quốc: tổ chức, hoạt động và vai trò trong giữ gìn
hòa bình và an ninh quốc tế.
Lời mở đầu
Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập hóa ngày càng được đẩy mạnh và phát triển
trên thế giới, với sự ra đời của hàng loạt các tổ chức quốc tế. Theo đó, các quốc
gia muốn phát triển cần phải hội nhập, “mở cửa”, không một quốc gia nào có thể
đứng ngoài xu thế tất yếu này. Bên cạnh những mặt tích cực mà quá trình này
mang lại, nó cũng kéo theo những bất ổn về chính trị, kinh tế, xã hội. Đặc biệt,
các vấn đề hòa bình và an ninh quốc tế ngày các được các quốc gia quan tâm.
Liên Hợp Quốc với sự ra đời của tổ chức này đã thể hiện rõ vai trò của mình
trong việc đánh dấu bước phát triển trong các mối quan hệ quốc tế giữa các quốc
gia một cách lành mạnh, hòa bình. Đến nay, Liên Hợp Quốc vẫn đang kiện toàn
tổ chức, hoạt động và tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong giữ gìn hòa
bình và an ninh quốc tế.

1


I. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của tổ chức Liên Hợp Quốc
1. Quá trình thành lập của Tổ chức Liên Hợp Quốc
Đầu năm 1945, khi Chiến tranh thế giới thứ 2 đã đi gần đến giai đoạn kết
thúc, thắng lợi nghiêng dần về phe Đồng Minh (Liên Xô, Anh, Mĩ), trong bối
cảnh đó, các nước Đồng Minh nhận thấy cần phải tổ chức một hội nghị để quyết
định những vấn đề đặt ra sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Theo đó, từ ngày
4/2/1945-11/2/1945, hội nghị quốc tế được triệu tập tại Yanta của Liên Xô, với
nội dung hội nghị gồm ba vấn đề chính: Tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức
và chủ nghĩa quân phiệt Nhật, để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, Liên Xô sẽ
tham gia chiến tranh chống Nhật ở Châu Á, sau khi đánh bại phát xít Đức
khoảng 2-3 tháng; thành lập một tổ chức quốc tế nhằm duy trì hòa bình và an
ninh thế giới; Thỏa thuận việc đóng quân tại các nước bại trận nhằm giải giáp
quân đội phát xít và phân chia phạm vi ảnh hưởng của các cường quốc thắng


trận ở Châu Âu và Châu Á. Đến tháng 4/1945, hội nghị quốc tế với tên gọi Hội
nghị các quốc gia liên hiệp về các tổ chức quốc tế (United Nations Conference
on International Organizations) với sự tham gia của đại biểu đại diện hơn 50
nước họp tại San Fransisco từ ngày 25/4 đến ngày 26/6/1945 để soạn thảo bản
Hiến chương với 111 điều khoản và kí kết để công bố thành lập tổ chức Liên
Hợp Quốc1. Đến ngày 24/10/1945, bản Hiến chương Liên Hợp quốc chính thức
có hiệu lực. Ngày này, Thế giới lấy ngày 24/10 hằng năm là ngày kỉ niệm ngày
Hiến chương Liên Hợp Quốc 2.
2. Sự phát triển của Tổ chức Liên Hợp Quốc
Về cơ sở hạ tầng, trụ sở của Liên Hợp Quốc cao 39 tầng nằm ở New York,
Mỹ trên một thử đất rộng 18 mẫu Anh. Ngay phiên họp đầu tiên, các
thành viên Liên Hợp Quốc đã chấp thuận chọn NewYork làm trụ sở do lời cam
1.
2.

/> />
kết của tỉ phú Mỹ Rockefeller tặng 8,5 triệu USD để mua mảnh đất đó. Ngày
21/11/1947, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua kế hoạch xây trụ sở kinh
2


phí với 65 triệu USD, và đến ngày 21/08/1950 những nhân viên của Ban thứ kí
đã đến làm việc tại trụ sở mới. Phòng lớn nhất của trụ sở là phòng họp của Đại
hội đồng chiếm chiếm ba tầng với chiều dài 50m, chiều rộng 35m, có 1092 chỗ
ngồi chính thức, 476 chỗ dành cho các đại biểu dự khuyết, đại diện các cơ quan
chuyên môn, 187 chỗ dành cho đại diện các đoàn thể quần chúng tham gia một
số phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng. Ngày nay, Liên Hợp Quốc có hơn
17.000 nhân viên, trong đó có hơn 7000 người làm việc tại trụ sở chính Liên
Hợp Quốc 1.
Về thành viên của Liên Hợp Quốc, tính đến nay, Quốc gia thành viên Liên

Hợp Quốc bao gồm 197 quốc gia có chủ quyền là thành viên 2, và có quyền đại
diện bình đẳng ở Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Tiêu chí kết nạp thành viên mới
vào của Liên Hợp Quốc được quy định ở Điều 4 chương II của Hiến chương
Liên Hợp Quốc, bao gồm: các quốc gia phải yêu chuộng hòa bình (peace-loving
states), đồng ý những nghĩa vụ ghi trong Hiến chương; phải được Liên Hợp
Quốc đánh giá có đủ khả năng và tự nguyện làm tròn những nghĩa vụ đó; để có
hiệu lực việc kết nạp bất cứ quốc gia nào thỏa mãn các tiêu chí trên là thành viên
thì phải được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua dựa theo đề nghị của Hội
đồng bảo an. Với mỗi đề cử kết nạp thành viên cần ít nhất 9/15 phiếu thuận từ
Hội đồng Bảo an, trong đó có đủ 5 phiếu thuận từ nước thành viên thường trực
của Hội đồng bảo an, và ít nhất 4 phiếu thuận từ 10 nước thành viên không
thường trực.
Về tài chính của Liên Hợp Quốc, Liên Hợp Quốc hoạt động nhờ tiền đóng
góp và tiền quyên góp tự nguyện từ các quốc gia thành viên 3. Đại hội đồng sẽ

1. />option=com_content&view=article&id=60:tc2001so2lhqvtantg&catid=28:ctc20012&Itemid=62
2. />3. />
3


thông qua ngân sách chính thức và quyết định khoản đóng góp của mỗi quốc gia
thành viên. Đại hội đồng đưa ra nguyên tắc Liên Hợp Quốc sẽ không quá phụ
thuộc vào bất kì một quốc gia thành viên nào trong lĩnh vực tài chính cho những
hoạt động cần thiết của mình. Một số chương trình đặc biệt của Liên Hợp Quốc
không được tính vào ngân sách chính thức của tổ chức này, như các chương
trình: UNICEF, UNDP do việc hoạt động nhờ những khoản quyên góp tự
nguyện từ các chính phủ thành viên.
II. Cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tổ chức Liên Hợp Quốc
1. Cơ cấu tổ chức của Tổ chức Liên Hợp Quốc
Cơ cấu tổ chức của Liên Hợp Quốc bao gồm các cơ quan chính: Đại Hội

đồng (The General Assembly), Hội đồng Bảo an (The Security Council), Hội
đồng kinh tế- Xã hội (The Economic and Social Council- ECOSOC), Tòa án
Quốc tế (The International Court of Justice) và Ban thư kí (The Secretariat).
1.1. Đại Hội đồng (The General Assembly):
Đại hội đồng (viết tắt là: UNGA/GA) là một trong các cơ quan chính của
Liên Hợp Quốc, là cơ quan duy nhất của Liên Hợp Quốc có đại diện của tất cả
quốc gia thành viên; được thành lập bởi các quốc gia thành viên, Đại hội đồng
triệu tập các kì họp thường niên dưới quyền của vị Chủ tịch Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc được bầu chọn trong số các đại biểu đến từ các quốc gia thành viên.
Kì họp thường niên của Đại hội đồng thường bắt đầu vào ngày thứ ba của tuần
thứ ba của tháng 9 và kết thúc vào khoảng nửa sau tháng 12. Đại hội đồng biểu
quyết bằng cách bỏ phiếu trong các vấn đề quan trọng: hòa bình, an ninh quốc
tế, tuyển chọn thành viên cho các cơ quan, các vấn đề nhân quyền, những xúc
tiến về kinh tế- văn hóa- xã hội… với số phiếu thuận được thông qua chiếm 2/3
số đại biểu có mặt; các vấn đề khác chỉ cần đa số đại biểu tham gia với số phiếu
quá bán. Ngoài ra, Đại hội đồng có thể đề xuất các sự việc khác trong khuôn khổ
của Liên Hợp Quốc, ngoại trừ việc liên quan đến hòa bình và an ninh thuộc
thẩm quyền xem xét của Hội đồng Bảo an. Tuy nhiên, có những việc Đại hội
đồng được phép thực hiện để duy trì hòa bình quốc tế mà trong trường hợp Hội
4


đồng Bảo an không có khả năng làm việc này, thường là do sự bất đồng quan
điểm giữa các nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an. Bên cạnh
những kì họp thường niên, Đại hội đồng có thể triệu tập họp những kì họp đặc
biệt theo yêu cầu của Hội đồng Bảo an, Chủ tịch Đại hội đồng, hay theo đa số ý
kiến của thành viên Liên Hợp Quốc.
1.2. Hội đồng Bảo an (The Security Council):
Hội đồng Bảo an (viết tắt là: UNSC) là cơ quan chính quan trọng nhất và
hoạt động thường xuyên, thường trực của Liên Hợp Quốc, chịu trách nhiệm

chính trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Các quốc gia thành viên
Liên Hợp Quốc thừa nhận khi thực hiện những nghĩa vụ được giao thì Hội đồng
Bảo an hành động với tư cách thay mặt các thành viên. Do có nhiệm vụ như vậy,
nên Hội đồng Bảo an có quyền điều tra bất cứ vụ tranh chấp hoặc tình thế căng
thẳng nào mà có thể dẫn đến bất hòa hoặc đe dọa xảy ra chiến tranh giữa các
quốc gia. Việc tiến hành điều tra, xem xét kết quả điều tra và đi đến yêu cầu các
bên giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình 1. Ngoài ra, những
biện pháp khác mà Hội đồng Bảo an có quyền quyết định bao gồm 2: yêu cầu
các thành viên áp dụng các biện pháp kinh tế và các biện pháp khác (không bao
gồm dùng vũ lực) cấm vận, đình chỉ, cắt đứt quan hệ ngoại giao để ngăn chặn
hành động xâm lược; Hội đồng bảo an thực hiện hành động quân sự đối với
quốc gia có hành động xâm lược như dùng các lực lượng hải quân, không quân,
lục quân mà các quốc gia thành viên có nghĩa vụ cung cấp cho Liên Hợp Quốc,
việc sử dụng vì mục đích giữ gìn hòa bình, an ninh quốc tế.

1.

Hiến chương Liên Hợp Quốc, Chương VI: Giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp, điều 33 khoản 1, về các phương pháp giải
quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình: đàm phán (neogotiation), điều tra (enquiry), trung gian (mediation), hòa giải
(conciliation), trọng tài (arbitration), tòa án (judicial settlement), sử dụng những cơ quan hoặc những điều ước khu vực, hoặc
bằng các biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn.

2.

Trường đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, 2015, trang 309-310.

5


Trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, Hội đồng Bảo an được đưa ra những

nghị quyết có tính ràng buộc với các nước thành viên mà nghị quyết đó không
trái với Hiến chương Liên Hợp Quốc. Cũng cần phải thấy rằng, việc đưa ra nghị
quyết của Hội đồng bảo an phải được bỏ phiếu theo tỉ lệ 9/15, trong đó phải đủ 5
phiếu của nước là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an. Theo đó, chỉ cần
4/5 nước thành viên thường trực không tán thành thì nghị quyết không được
thông qua. Đối với vấn đề không phải là vấn đề thủ tục, ủy viên thường trực Hội
đồng Bảo an có quyền sử dụng Quyền phủ quyết khi biểu quyết. Quyết định của
Hội đồng Bảo an bị phủ quyết sẽ không được coi là quyết định được thông qua
tại Hội đồng bảo an.
1.3. Hội đồng kinh tế- Xã hội (The Economic and Social Council- ECOSOC):
Theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, tại Chương I, điều 1 khoản 3 có quy
định Hội đồng kinh tế- xã hội có mục tiêu là: “Thực hiện hợp tác quốc tế trong
việc giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc nhân đạo, thúc đẩy
và khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền và những tự do căn bản nhất của tất
cả mọi người, không phân biệt giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo”. Theo đó,
ECOSOC có nhiệm vụ nâng cao mức sống và các điều kiện làm phát triển kinh
tế xã hội, giải quyết những vấn đề về kinh tế xã hội, hợp tác quốc tế, tôn trọng
và thực hiện quyền con người, quyền tự do cơ bản của công dân… Điều 60 Hiến
chương Liên Hợp Quốc quy định ECOSOC đặt dưới quyền của Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc và là cơ quan soạn theo và điều phối các chính sách thúc đẩy
hợp tác quốc tế được Đại hội đồng giao trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ về
kinh tế, xã hội, nhân quyền của Liên Hợp Quốc. Cụ thể như sau: thực hiện hoặc
đề xuất những nghiên cứu điều tra và làm báo cáo về các vấn đề quốc tế trong
các lĩnh vực được giao, đưa ra những khuyến nghị về các vấn đề với Đại hội
đồng, các nước thành viên; phối hợp hoạt động với những tổ chức chuyên môn
của Liên Hợp Quốc; có quyền tiến hành mọi biện pháp thích hợp để các tổ chức
chuyên môn phải báo cáo công việc; với sự đồng ý của Đại hội đồng, ECOSOC
có thể làm những việc do các thành viên của Liên Hợp Quốc yêu cầu; ECOSOC
6



có nghĩa vụ thực hiện những chức năng khác được quy định trong Hiến chương
Liên Hợp Quốc.
Cơ cấu thành viên ECOSOC không yêu cầu số lượng cụ thể. Mỗi nước
thành viên có một phiếu bầu, ECOSOC thông qua quyết định theo đa số những
thành viên có mặt tham gia bỏ phiếu. ECOSOC có hai phiên họp trong một năm:
phiên họp về nội dung và phiên họp về tổ chức. Trong phiên họp về nội dung,
ECOSOC có 4 ngày họp cấp Bộ trưởng của các nước thành viên Hội đồng để
xem xét những vấn đề lớn, 1 ngày để đối thoại về những chính sách hợp tác
quốc tế. Sau phần họp cấp cao là phần họp phối hợp về hoạtđộng tác nghiệp và
họp chung để xem xét những vấn đề kinh tế, xã hội liên quan. Phiên họp về tổ
chức thường bầu ra chủ tịch và các phó chủ tịch ECOSOC, bầu bổ sung ra các
thành viên của các cơ quan chức năng Hội đồng.
1.4. Tòa án Quốc tế (The International Court of Justice):
Tòa án Quốc tế Liên Hợp Quốc ra đời trên cơ sở kế thừa từ Tòa án thường
trực quốc tế của Hội Quốc liên. Các nước thành viên Liên Hợp Quốc đương
nhiên là thành viên của quy chế Tòa án Quốc tế, các nước không phải là thành
viên cũng có thể tham gia quy chế Tòa án Quốc tế nếu được Hội đồng Bảo an đề
nghị và được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc chấp thuận. Ngoài ra, các nước
không tham gia quy chế cũng có thể yêu cầu Tòa án Quốc tế xét xử tranh chấp
nếu được Hội đồng bảo an đồng ý. Thành phần của Tòa án Quốc tế gồm 15 thẩm
phán là công dân của các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, với nhiệm kì 9
năm và cứ 3 năm bầu lại 5 thẩm phán, về nguyên tắc, trong cơ cấu Tòa án Quốc
tế phải có đủ đại diện của tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới và là những
người có trí tuệ cao.
Nhiệm vụ của Tòa án Quốc tế được Hiến chương Liên Hợp Quốc quy
định rõ tại điều 33, theo đó, Tòa án Quốc tế giải quyết các tranh chấp giữa các
quốc gia và giữ các tổ chức quốc tế trên cơ sở luật pháp quốc tế; làm chức năng
tư vấn pháp lí cho hội đồng Bảo an và các tổ chức khác của Liên Hợp Quốc. Tòa
án Quốc tế đưa ra các quyết định bằng phương thức biểu quyết trên nguyên tắc

7


quá bán với số đại biểu không được ít hơn 9 người. Quyết định của tòa án mang
tính bắt buộc, là quyết định chung thẩm và có hiệu lực ngay. Trong trường hợp
quyết định không được thi hành, Tòa án Quốc tế có quyền yêu cầu Hội đồng bảo
an giúp đỡ để quyết định được thi hành. Ngoài ra, tòa án Quốc tế còn có nhiệm
vụ chung với các cơ quan khác là bảo vệ hòa bình, giám sát các nước thành viên
Liên Hợp Quốc thực hiện nghĩa vụ của mình theo Hiến chương.
Chức năng của Tòa án Quốc tế được quy định tại điều 13 Hiến chương
Liên Hợp Quốc: “thúc đẩy việc pháp điển hóa và sự phát triển của luật quốc tế
theo hướng tiến bộ”, thiết lập các tập quán quốc tế thành các quy tắc, thông lệ
được chấp nhận; Tòa án khuyến nghị Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an trong các
lĩnh vực về pháp luật.
Phiên tòa tại Tòa án Quốc tế của Liên Hợp Quốc là công khai, trừ trường
hợp các bên tranh chấp có yêu cầu Tòa án quốc tế họp kín. Tòa án Quốc tế họp
kín để đưa ra kết luận theo nguyên tắc đa số của những thẩm phán có mặt; trong
trường hợp số phiếu ngang nhau thì Tòa án Quốc tế chọn giải pháp theo bên có
phiếu thuận của chủ tọa phiên tòa. Quyết định của Tòa án Quốc tế Liên Hợp
Quốc được tuyên công khai; thẩm phán có quyền có ý kiến đặc biệt của mình
đính kèm quyết định được tuyên.
1.5. Ban thư kí (The Secretariat):
Ban thứ kí là cơ quan có trách nhiệm bảo đảm cho các cơ quan chính của
Liên Hợp Quốc và các cơ quan khác hoạt động bình thường. Việc bảo đảm đó
được thể hiện thông qua phục vụ các cơ quan, tổ chức thực hiện các quyết định,
chính sách, chương trình của Liên Hợp Quốc.
Về cơ cấu tổ chức, Ban thư kí gồm một Tổng thư kí Liên Hợp Quốc và
một số nhân viên. Tổng thư kí do Đại hội đồng bổ nhiệm có nhiệm kì 05 năm, là
viên chức cao cấp nhất của Liên Hợp Quốc. Giúp việc cho Tổng thư kí có các
Phó tổng thư kí, các trợ lí Tổng thư kí, các vụ phòng, ban do các quan chức cấp

cao chịu trách nhiệm trực tiếp với Tổng thư kí, các quan chức cao cấp khác: điều
8


phối viên về an ninh, điều phối viên về cải tổ… Ngoài ra, Tổng thư kí còn có thể
cử các đặc phái viên đại diện cho mình ở các nước, các khu vực nếu cần thiết.
Bên cạnh cơ cấu tổ chức chủ chốt, Liên Hợp Quốc còn hàng trăm tổ chức
chuyên môn khác. Các tổ chức chuyên môn khác của Liên Hợp Quốc là các tổ
chức liên chính phủ, độc lập, có tính phổ cập, thực hiện hợp tác quốc tế trong
các lĩnh vực chuyên biệt, nhưng hoạt động của các cơ quan này chịu sự điều phố
của Liên Hợp Quốc thông qua ECOSOC và Cơ quan Tổng trưởng thực thi công
vụ điều phối trong hệ thống Liên Hợp Quốc (CEB). Có thể kể tới một số cơ
quan chuyên môn như: FAO, ILO, IMF, WB, UNESCO, UPU, WHO,…
2. Hoạt động của Tổ chức Liên Hợp Quốc
Ngay từ đầu, các Quốc gia sáng lập Liên Hợp Quốc đã lên ý định thành
lập một tổ chức nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế giới, do đó Liên Hợp Quốc
ra đời với mục đích và tôn chỉ của mình hoạt động vì mục đích duy trì hòa bình,
giữ ổn định an ninh quốc tế là lẽ tất yếu. Mục đích và nguyên tắc hoạt động của
Liên Hợp Quốc được quy định lần lượt tại điều 1, điều 2 Hiến chương Liên Hợp
Quốc. Đầu tiên về mục đích hoạt động: Thứ nhất, Liên Hợp Quốc duy trì hòa
bình và an ninh thế giới thông qua thi hành các biện pháp quốc tế mang tính tập
thể để phòng ngừa và loại trừ mối đe dọa đến hòa bình, giải quyết các tranh chấp
bằng biện pháp hòa bình theo các nguyên tắc và pháp luật quốc tế. Thứ hai, phát
triển mối quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình
đẳng, quyền tự quyết dân tộc, độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia. Thứ ba,
thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế,
văn hóa, xã hội cũng như vấn đề nhân đạo và quyền con người. Thứ tư, Liên
Hợp Quốc là trung tâm, cầu nối phối hợp hợp tác cho mọi hoạt động của các
quốc gia dân tộc.
Để thực hiện được những mục đích nêu trên, đòi hỏi phải có cơ chế điều

chỉnh, những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Liên Hợp Quốc đóng vai
trò quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động để đạt được mục đích đã nêu.
Liên Hợp Quốc hoạt động dựa trên những nguyên tắc sau: thứ nhất, bình đẳng
9


chủ quyền giữa các quốc gia thành viên và quyền tự quyết của dân tộc; thứ hai,
tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước; thứ ba,
không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kì nước thành viên nào; thứ tư,
chung sống hòa bình, giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình,
cấm đe dọa vũ lực, sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; thứ năm, các nước
thành viên của Liên Hợp Quốc phải làm tròn những nghĩa vụ mà họ đã cam kết
theo Hiến chương; thứ sáu, các nước thành viên Liên Hợp Quốc giúp đỡ đầy đủ
Liên Hợp Quốc trong mọi hành động của Liên Hợp Quốc theo đúng các quy
định của Hiến chương và không giúp đỡ bất kì nước nào bị Liên Hợp Quốc áp
dụng hành động phòng ngừa hoặc hạn chế; cuối cùng, bảo đảm để các nước dù
không phải là thành viên của Liên Hợp Quốc cũng hành động theo các nguyên
tắc trên vì nó là cần thiết để duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
III. Vai trò của Tổ chức Liên Hợp Quốc trong giữ gìn hòa bình và an ninh
quốc tế
Giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế được Liên Hợp Quốc cho một cách
hiểu là “một cách giúp đỡ những nước bị tàn phá do xung đột để tạo ra các điều
kiện cho hòa bình”. Bản chất của giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế là những
đóng góp cho các hoạt động an ninh trong quá trình giải quyết và thiết lập nền
hòa bình.
1. Liên Hợp Quốc xây dựng khung pháp lí nhằm duy trì
hòa bình và an ninh thế giới
Việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế có thể được thực hiện bằng nhiều
cách thức khác nhau, tuy nhiên, pháp luật quốc tế được coi là phương thức hữu
hiệu hơn cả. Bởi lẽ, xu hướng chung thế giới là xây dựng nhà nước pháp quyền,

với tinh thần thượng tôn pháp luật, nên việc các quốc gia tham gia các quan hệ
quốc tế cũng sẽ mong muốn có bộ quy tắc ứng xử chung là khung pháp lí để
điều chỉnh các quan hệ quốc tế đó. Với vai trò là cơ quan chính của quốc tế
trong việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới, Liên Hợp Quốc đã ban hành hàng
loạt các điều ước quốc tế: Hiệp ước về cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển,
trong vũ trụ, dưới nước năm 1963; Hiệp ước về cấm đặt vũ khí hạt nhân và vũ
10


khí giết người hàng loạt ở đáy biển, đáy đại dương năm 1971; Công ước về bảo
vệ an toàn vật liệu hạt nhân năm 1979; Công ước về đánh dấu vật liệu nổ để
nhận biết năm 1991; Công ước về cấm phát triển, sản xuất, tàng trữ, sử dụng vũ
khí hóa học năm 1997; Công ước về việc trừng trị khủng bố bằng bom năm
1998; Công ước về trừng trị những hành vi khủng bố bằng hạt nhân năm 2005;
Công ước về chống bắt cóc con tin năm 1979 với vấn đề bảo vệ quyền con
người trong cuộc chiến chống khủng bố và rất nhiều các văn bản pháp luật khác.
2. Liên Hợp Quốc trong các hoạt động giải quyết trannh
chấp quốc tế nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế giới
Bên cạnh việc ban hành các tuyên bố, nghị quyết, công ước, Liên Hợp
Quốc đã bày tỏ mối quan ngại đối với những hoạt động tiêu cực của các hành vi
khủng bố, hành vi chế tạo, thử nghiệm vũ khí hạt nhân…Đại hội đồng Liên Hợp
Quốc đã khẳng định việc sử dụng vũ khí hạt nhân và vũ khí nhiệt hạch là hành
vi trái với pháp luật quốc tế. Do đó, Đại hội đồng đã liên tục thông qua và thừa
nhận, khuyến khích các quốc gia thành viên tham gia nhiều điều ước quốc tế về
vũ khí nguyên tử, các tuyên bố về tăng cường hòa bình và an ninh quốc tế. Đặc
biệt để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc đã
ra nhiều nghị quyết có tính chất bắt buộc đối với các quốc gia thành viên: nghị
quyết số 340 năm 1973, nghị quyết số 341 năm 1973, nghị quyết số 1373 năm
2001, nghị quyết số 1340 năm 2002...thông qua đó, đề ra các biện pháp có tính
pháp lí chung giúp ngăn ngừa và trừng trị các hoạt động khủng bố, trừng phạt

các quốc gia có hành vi đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế, giúp nâng cao ý
thức và trách nhiệm của các quốc gia đối với việc bảo vệ hòa bình và an ninh
chung trong môi trường quốc tế.
Trong hoạt động giải quyết các tranh chấp quốc tế, vị trí và vai trò quan
trọng của Liên Hợp Quốc được quy định tại chương VI Hiến chương Liên Hợp
Quốc. Theo đó, các cơ quan của Liên Hợp Quốc đều tham gia vào quá trình giải
quyết các tranh chấp quốc tế nhưng ở các mức độ khác nhau, trong đó, Hội đồng
bảo an giữ vai trò chủ đạo. Với những phương thức giải quyết tranh chấp mềm
dẻo linh hoạt, trong mỗi vụ tranh chấp, Liên Hợp Quốc yêu cầu các bên phải tìm
11


giải pháp để giải quyết, những giải pháp đó được quy định tại điều 33 Hiến
chương Liên Hợp Quốc. Ngoài ra, Hội đồng bảo an còn có thẩm quyền áp dụng
các biện pháp cần thiết khác để giải quyết tranh chấp như điều tra các hoạt động
đó nếu như xét thấy diễn biến có thể gây ra bất ổn trong quan hệ quốc tế. Trong
việc triển khai các hoạt động để thiết lập sự hiện diện của Liên Hợp Quốc tại nơi
có xung đột nhằm duy trì ổn định tình hình tại khu vực xung đột, đồng thời tạo
ra những điều kiện thuận lợi để giải quyết xung đột, khôi phục hòa bình. Việc
kết hợp hài hòa các biện pháp là trung gian để duy trì thực hiện ổn định hòa bình
trên tinh thần tự nguyện, chứ không phải mang tính cưỡng chế “cá lớn nuốt cá
bé”. Như vậy, Liên Hợp Quốc đã phát huy tối đa vai trò của mình trong việc duy
trì hòa bình và an ninh quốc tế trong giải quyết các tranh chấp thông qua các
hoạt động.
Trong trường hợp có sự đe dọa hòa bình, hoặc có hành vi xâm lược thì
Hội đồng bảo an phải thực hiện những hành động cụ thể cần thiết để ngăn ngừa
chiến tranh có thể xảy ra, điều này được ghi nhận tại chương VII Hiến chương
Liên Hợp Quốc. Hội đồng bảo an có vai tò “xác định sự tồn tại và sự đe dọa hòa
bình, phá hoại hòa bình hoặc hành vi xâm lược và đưa ra những kiến nghị hoặc
quyết định áp dụng các biện pháp để duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh

quốc tế”, có thể là: yêu cầu các bên phải thi hành các biện pháp tạm thời như
ngừng bắn, thiết lập giới tuyến tạm thời nhằm ngăn chặn không cho tình hình
nghiêm trọng hơn; khi xét thấy tình hình không ổn, Hội đồng bảo an có quyền
áp dụng các biện pháp phi vũ trang, trừng phạt về kinh tế, đường sắt, đường
biển, hàng không bưu chính, điện tín…nhằm trừng trị và làm cho các quốc gia
có hành vi vi phạm không thể thực hiện vi phạm; cao nhất, Hội đồng bảo an
thực hiện quyền áp dụng hoạt động quân sự nếu xét thấy các biện pháp phi vũ
trang không có tác dụng để cần thiết cho việc duy trì hòa bình và an ninh quốc
tế. Mọi hành động của Liên Hợp Quốc nhằm trừng phạt các quốc gia có hành vi
đe dọa, phá hoạt hòa bình hoặc hành vi xâm lược, hạn chế việc các quốc gia tiếp
tục vi phạm hòa bình và an ninh chung.

12


3. Liên Hợp Quốc trong hoạt động xét xử tội phạm quốc
tế và bảo đảm nhân quyền nhằm duy trì hòa bình và an
ninh thế giới
Để thực hiện vai trò của mình, Liên Hợp Quốc đã thành lập các tòa án xét
xử tội phạm chiến tranh. Với sự ra đời của hàng loạt tòa án Nuremberg, tòa án
Tokyo, tòa án Adhoc, tòa án Ruanda…các tòa án này chỉ xét xử đối với cá nhân,
không xét xử đối với tổ chức, hình phạt cao nhất đưa ra là tù chung thân. Các tòa
án có nhiệm vụ xét xử góp phần thực hiện vai trò giữ gìn hòa bình của Liên Hợp
Quốc. Bên cạnh đó, Tòa án hình sự quốc tế (ICC) được thành lập theo quy chế
ROME năm 1998, có hiệu lực từ năm 2002 đã thể hiện vai trò của Liên Hợp
Quốc nói chung. Đối với bên cho rằng có sự đe dọa phá hoại hòa bình hoặc có
hành vi xâm lược thì có quyền khởi kiện ra tòa án. Với những nỗ lực của Liên
Hợp Quốc và các tổ chức chuyên môn trong thời gian qua đã bảo đảm, tăng
cường sự hỗ trợ cho vai trò xét xử tội phạm, đem lại hòa bình công lí.
Trong vấn đề nhân quyền, đây là một trong các mục đích chính của việc

thành lập Liên Hợp Quốc. Sự khốc liệt của Chiến tranh thế giới thứ II và nạn
diệt chủng, khủng bố dẫn tới một kết quả tất yếu chung là cần phải hoạt động để
ngăn chặn thảm họa xâm phạm đến quyền cơ bản nhất của con người “quyền
sống”. Bộ luật nhân quyền quốc tế của Liên Hợp Quốc ban hành bao gồm:
Tuyên bố chung về nhân quyền năm 1948(UDHR), Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền
kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 (ICESCR) là quy chuẩn chung để hướng tới
mọi nước thành viên trong việc bảo vệ giữ gìn nhân quyền, bởi việc giữ gìn hòa
bình an ninh quốc tế cũng chính là việc bảo đảm nhân quyền. Năm 2006, Hội
đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc ra đời với mục tiêu chính là giải quyết các vụ
vi phạm nhân quyền. Liên Hợp Quốc và các cơ quan chủ chốt của mình đã thúc
đẩy và áp dụng các nguyên tắc chung của luật nhân quyền quốc tế, như trong
việc hỗ trợ các quyền trẻ em, quyền của phụ nữ được tham gia vào đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Liên Hợp Quốc thông qua các hiệp ước,
tuyên bố, nghị quyết của Đại hội đồng, Hội đồng bảo an, Tòa án Công lí quốc tế
13


(ICJ) góp phần vào việc hoàn thiện các khái niệm nhân quyền, bộ quy tắc pháp
lí chung về nhân quyền, tạo nền tảng cho việc hoàn thiệc bảo đảm quyền con
người ở các quốc gia thành viên.
IV. Đánh giá về tổ chức, hoạt động và vai trò giữ gìn hòa bình và an ninh
quốc tế của Liên Hợp Quốc
1. Về mặt tích cực
Về tổ chức và hoạt động, trong hơn 70 năm hoạt động, Liên Hợp Quốc đã
có những hoạt động để hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, đối với những tổ chức
chính vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, đối
với những tổ chức đã hết chức năng, nhiệm vụ thì giải tán để kiện toàn cơ cấu tổ
chức. Trong mục tiêu và nguyên tắc hoạt động, Liên Hợp Quốc vẫn tiếp tục duy
trì mục tiêu và tôn chỉ hoạt động trên cơ sở nguyên tắc chung được các quốc gia

thành viên thừa nhận.
Về vai trò giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, có thể thấy rằng Liên Hợp
Quốc ngày càng khẳng định được vị trí là tổ chức quan trọng của thế giới trong
việc giữ gìn hòa bình và duy trì an ninh quốc tế với hàng loạt các hoạt động mà
Liên Hợp Quốc đã giải quyết: những tranh chấp xung đột ở khu vực bằng biện
pháp hòa bình ở Pa-Na-Ma, Cam-Pu-Chia; giúp đỡ các dân tộc chậm phát triển,
kém phát triển ở Châu Phi… Mặt khác, Liên Hợp Quốc đã chủ động tích cực đối
phó với các vấn đề mới phát sinh và đưa ra những giải pháp như các vấn đề về
khủng bố, từng bước thiết lập được hệ thống chống khủng bố trên toàn thế giới
với sự hợp tác thiện chí của các nước thành viên.
2. Về mặt hạn chế
Thứ nhất, sự mất cân bằng trong thẩm quyền giữa các cơ quan, thẩm
quyền của Đại hội đồng còn ít so với tầm ảnh hưởng và tính quan trọng của nó,
bởi nếu so sánh với Hội đồng bảo an thì lại có quá nhiều ảnh hưởng trong vấn để
giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, nếu một trong năm nước là Ủy viên thường
trực của Hội đồng bảo an mà sử dụng quyền phủ quyết thì nghị quyết của Liên
Hợp Quốc sẽ bị phủ quyết, không thể thông qua.
14


Thứ hai, nhiều hoạt động của Liên Hợp Quốc mang danh nghĩa vì duy trì
hòa bình và an ninh quốc tế, nhưng nội hàm của nó lại bị lợi dụng để phục vụ
cho lợi ích riêng của một hoặc một vài quốc gia trong Hội đồng bảo an, dẫn
chứng rõ nhất là những nơi nào làm phát sinh nhiều lợi ích thì những nơi đó sẽ
nhận được sự quan tâm nhiều hơn. Đây là biểu hiện của sự lạm quyền. Thêm
nữa, với cơ cấu năm nước Ủy viên thường trực và mười nước Ủy viên không
thường trực không còn phản ánh đúng tính chất, tương quan trong quan hệ quốc
tế mới. Đó là biểu hiện của tính chất thiếu công bằng và bất bình đẳng, bởi vẫn
chỉ có năm nước có quyền lực đặc biệt trong việc đưa ra những quyết định quan
trọng ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế của thế giới. Điều này khiến cho hoạt động

của Liên Hợp Quốc nhiều khi không hiệu quả bởi chưa đáp ứng nguyện vọng
chung của cộng đồng quốc tế.
Thứ ba, trên cơ sở hạn chế trên, mặc dù đã có nhiều ý kiến từ các Tổng
thư kí Liên Hợp Quốc 1 đề cập vấn đề cải tổ Liên Hợp Quốc, vấn đề cải tổ Liên
Hợp Quốc vẫn không được tiến hành nhanh chóng, kịp thời bởi bị rằng buộc
nhiều bởi quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
V. Một số định hướng nhằm phát huy vai trò của Liên Hợp Quốc trong việc
giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế hiện nay
Thứ nhất, Liên Hợp Quốc cần tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đồng bộ
hoạt động, phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan với nhau cũng như với các
quốc gia thành viên trên cơ sở mục đích và nguyên tắc hoạt động được quy định
trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, và những nguyên tắc được toàn thể cộng
đồng quốc tế thừa nhận được ghi nhận trong các điều ước quốc tế. Đối với tổ
chức quốc tế giữ vai trò quan trọng trong nền an ninh- Tổ chức cảnh sát hình sự
quốc tế (INTERPOL), Liên Hợp Quốc sẽ được sử dụng các công cụ, cơ sở dữ

1. Tổng thư kí LHQ

Kofi Annan đề nghị cải tổ Liên Hợp Quốc.

/>
Tổng thư kí LHQ

Antosnio Guterres đề nghị cải tổ Liên Hợp Quốc.

15


liệu cũng như các chuyên gia của INTERPOL để phục vụ giữ gìn hòa bình và an
ninh thế giới 1.

Thứ hai, trong việc giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới, Liên Hợp Quốc
cần giải quyết triệt để, tận gốc các mầm mống, nguyên nhân làm phát sinh
những bất ổn trong nền hòa bình thế giới; khuyến khích các quốc gia giải quyết
các bất đồng, mâu thuẫn trên cơ sở các biện pháp hòa bình; đẩy mạnh vai trò của
Liên Hợp Quốc trong vai trò trung gian hòa giải, xoa dịu căng thẳng giữa các
bên kể cả sau khi đã giải quyết.
Thứ ba, Liên Hợp Quốc nên thúc đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ quốc tế
một cách lành mạnh, công bằng, tránh “ảnh hưởng lợi ích nhóm”, mọi hoạt động
phát triển, xây dựng các mối quan hệ cần đảm bảo trên cơ sở Hiến chương Liên
Hợp Quốc và luật pháp quốc tế.
Thứ tư, Liên Hợp Quốc một mặt giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn, tranh
chấp quốc tế, mặt khác cần chú trọng các chương trình phát triển hòa bình, giữ
gìn hòa bình (như các chương trình do Liên minh Châu Phi AU được Liên Hợp
Quốc ủy quyền) tăng cường kinh phí cho các dự án, kêu gọi các quốc gia thành
viên hỗ trợ các dự án, khai thác tốt các hoạt động từ chương trình.
Cuối cùng, như đã nói về vấn để thẩm quyền giữa Hội đồng bảo an và Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc, cần có chế độ tách bạch, rõ ràng hơn về thẩm quyền,
mặc dù trong Hiến chương đã quy định, nhưng trên thực tế, vẫn thấy vai trò của
Hội đồng bảo an rõ ràng hơn trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế.

1.

/>
tại

Hội

nghị cấp Bộ trưởng INTERPOL và Liên Hợp Quốc với chủ đề: “Vai trò của lực lượng cảnh sát quốc tế trong xây dựng an ninh
bền vững” diễn ra ngày 12/10/2009 tại Singapor


16


Kết luận
Từ khi được thành lập cho tới nay, đã hơn 70 năm trôi qua, Liên Hợp
Quốc đã thể hiện rất tốt vai trò chính của mình trong việc thúc đẩy, giữ gìn hòa
bình, an ninh quốc tế. Liên Hợp Quốc là “mái nhà chung” của gần 200 quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới, đây vừa là nơi để các quốc gia dân tộc gặp gỡ,
giao lưu, phát triển, vừa là cơ sở chung để tất cả đối thoại và giữ gìn an ninh,
thúc đẩy hòa bình quốc tế. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Liên Hợp
Quốc vẫn còn một số mục tiêu đề ra chưa thể thực hiện được như vấn đề xung
đột sắc tộc, tôn giáo vẫn chưa chấm dứt, tình trạng nghèo đói vẫn còn, bất bình
đẳng vẫn còn ở mức độ đáng kể, chiến tranh giữa các thế lực Hồi giáo… những
điều này vẫn đang nhen nhóm và có nguy cơ bùng phát ở rất nhiều nơi, vào bất
cứ thời gian nào. Đây là vấn đề chung trong đời sống quốc tế của mọi quốc gia,
Liên Hợp Quốc với mục đích và tôn chỉ hoạt động của mình trong tương lai vẫn
sẽ là “ngọn cờ đầu” tiên phong trong công cuộc giữ gìn hòa bình và an ninh
quốc tế. Vì vậy, mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra cho Liên Hợp Quốc trong thời gian
tới là vô cùng nặng nề, không chỉ Liên Hợp Quốc mà đòi hỏi các quốc gia thành
viên phải cùng nhau chung tay thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.

17


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Hiến chương Liên Hợp Quốc (có hiệu lực từ ngày 24/10/1945).
2. Trường đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, Hà Nội 2015.
3. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, NXB CAND, Hà
4.


5.
6.
7.
8.

Nội 2004.
- Thành viên Liên Hợp Quốc.
/> /> /> />option=com_content&view=article&id=60:tc2001so2lhqvtantg&catid=28
:ctc20012&Itemid=62
– Liên Hợp Quốc với vai trò giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới, Th.s

Trần Văn Phú, Khoa Luật Quốc tế, ĐH Luật TP.HCM.
9. />- Hội đồng kinh tế- xã hội Liên Hợp Quốc.
10.
/>-Tòa án Quốc tế Liên Hợp Quốc.
11. />-Tổng thư ký Kofi Annan đề nghị cải tổ Liên hợp quốc.
12.

/>
kien/2017/42890/Cai-to-Lien-hop-quoc-cau-chuyen-khong-moi.aspx
13.
/>
Mục lục
Lời mở đầu...........................................................................................................1
I. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của tổ chức Liên Hợp Quốc..............2
18


1. Quá trình thành lập của Tổ chức Liên Hợp Quốc...................................2
2. Sự phát triển của Tổ chức Liên Hợp Quốc..............................................2

II. Cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tổ chức Liên Hợp Quốc..............................4
1. Cơ cấu tổ chức của Tổ chức Liên Hợp Quốc...........................................4
2. Hoạt động của Tổ chức Liên Hợp Quốc..................................................9
III. Vai trò của Tổ chức Liên Hợp Quốc trong giữ gìn hòa bình và an ninh
quốc tế..............................................................................................................10
1. Liên Hợp Quốc xây dựng khung pháp lí nhằm duy trì hòa bình và an
ninh thế giới.................................................................................................10
2. Liên Hợp Quốc trong các hoạt động giải quyết trannh chấp quốc tế
nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế giới.................................................11
3. Liên Hợp Quốc trong hoạt động xét xử tội phạm quốc tế và bảo đảm
nhân quyền nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế giới............................13
IV. Đánh giá về tổ chức, hoạt động và vai trò giữ gìn hòa bình và an ninh quốc
tế của Liên Hợp Quốc......................................................................................14
1. Về mặt tích cực........................................................................................14
2. Về mặt hạn chế........................................................................................14
V. Một số định hướng nhằm phát huy vai trò của Liên Hợp Quốc trong việc
giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế hiện nay..................................................15
Kết luận..............................................................................................................17
Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................................18

19



×