Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

anh chị hãy phân tích các nguyên tắc của luật biển quốc tê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.92 KB, 16 trang )

BÀI TIỂU LUẬN LUẬT CÔNG PHÁP
ĐỀ TÀI: anh chị hãy phân tích các nguyên tắc của luật biển quốc tê.


KẾT CẤU TIỂU LUẬN
A/ MỞ ĐẦU
B/ NỘI DUNG
I/ LUẬT BIỂN
1. Hoàn cảnh ra đời của luật biển quốc tế
2. Với 320 điều khoản và 9 phụ lục Công ước Luật Biển năm 1982 một số
nội dung quan trọng đã được quy định:
II/ CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT BIỂN:
1. Nguyên tắc tự do biển cả:
a. Lịch sử hình thành nguyên tắc tự do biển cả
b. nội dung
2. Nguyên tắc đất thống trị
a. Lịch sử hình thành:
b. Nội dung
3. Nguyên tắc di sản chung của loài người
a. Lịch sử hình thành
b. Nội dung
4. Nguyên tắc công bằng
a. Lịch sử hình thành
b. Nội dung
C/ KẾT LUẬN
D/ DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO.


A/ MỞ ĐẦU
Để đáp ứng nhu cầu cuộc sống, xa xưa con người đã có nhiều hoạt động trên
biển, đơn giản nhất là hoạt động đánh bắt thủy sản, vận chuyển hàng hóa và con


người khai thác tài nguyên thiên nhiên từ biển. Sự phát triển của xã hội loài
người ngày càng nhanh, khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển . đòi hỏi nhu cầu
thiết yêu của con người ngày càng lên cao. Trong đó nguồn tài nguyên trên đất
liền ngày càng khan hiếm .con người bắt đàu hướng ra biển . Các nguồn lợi từ
biển mỗi năm mang lại cho các quốc gia ven biển một khối lượng lớn tài sản
như các hoạt động đánh bắt thủy hải sản, khai thác khoáng sản từ biển… Với xu
thế phát triển ngày nay các quốc gia có xu thế hướng ra biển mở rộng quyền lực
của các quốc gia ven biển hướng gia biển nhằm chiếm lấy tài nguyên biển phục
vụ cho lợi ích quốc gia mình. Từ đó xuất hiện các vấn đề về quyền và lợi ích của
các quốc gia với nhau đối với biển. Đến thế kỷ XV, các nguyên tắc lớn của luật
biển đã bắt đàu hình thành. Và quá trình pháp điển hóa luật biển phát triển mạnh
sau Đại chiến thế giới thứ hai. Thông qua ba hội nghị của liên hợp quốc năm
1958, 1960, 1973-1982. Đã thông qua công ước luật biển năm 1982 của liên hợp
quốc về luật biển gồm 320 điều khoản, 17 phần và 9 phụ luc, . Công ước đã đề
cập toàn diện đến tất cả các vấn đề thuộc pháp ly, kinh tến khoa khọc kỹ thuật,
hợp tác, giải quyết, tranh chấp,... đối với các quốc gia. Sự ra đời của công ước
luật biển và các tập quán hiện hành đã khẳng định sự tồn tại của luật biển quốc
tế trong hệ thống pháp luật quốc tê. Luật biển quốc tế là tổng hợp các nguyên tắc
và quy phạm luật quốc tê, được thiết lập bởi các quốc gia dựa trên cơ sở thỏa
thuận thống nhất ý kiến nhằm điều chỉnh quy chế pháp lý các vùng biển cũng
như quan hệ hợp tác của các quốc gia.
Trong bài tiểu luận này em sẽ trình bày về những nguyên tắc cơ bản của
công ước Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982. Do kiến thức có hạn nên trong
bài tiểu luận này chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót em rất mong thầy cô đóng góp
ý kiến sửa chữa để cho bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.


B/ NỘI DUNG
I/ LUẬT BIỂN
1. Hoàn cảnh ra đời của luật biển quốc tế

Biển và đại dương luôn đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị,
kinh tế - xã hội của các quốc gia. Vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, khoa
học - công nghệ đã có những bước phát triển vượt bậc, cho phép con người
vươn tới những vùng biển sâu và xa bờ để khai thác tài nguyên. Để tạo cơ sở
pháp lý cho các hoạt động đó, các quốc gia ven biển ban hành luật lệ mở rộng
phạm vi quyền tài phán đối với các vùng biển và thềm lục địa.
Trong bối cảnh đó, nếu không có một văn bản pháp lý quốc tế điều chỉnh
phạm vi cũng như chế độ triển khai các hoạt động trên biển và đại dương phù
hợp với xu hướng phát triển chung, đồng thời duy trì an ninh, trật tự trên biển,
bảo vệ lợi ích lâu dài của cộng đồng quốc tế, sẽ dẫn đến tình trạng bất công,
nguy cơ khai thác cạn kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường biển.
Với cách đặt vấn đề nói trên, ngài Đại sứ Arvid Pardo, một luật gia của
Malta (một quốc gia ven biển nhỏ bé ở châu Âu) đã khởi xướng đề nghị Liên
Hiệp quốc bảo trợ một Hội nghị quốc tế soạn thảo Công ước Luật Biển.
Đáp ứng nguyện vọng chính đáng trên, Liên Hiệp quốc đã tổ chức 3 hội
nghị lớn và quan trọng để bàn về luật biển:
+ Hội nghị lần thứ I được tổ chức tại Geneva (Thụy Sĩ) vào năm 1958 và
thông qua 4 công ước: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp; Công ước về
biển cả; Công ước về đánh cá và bảo tồn tài nguyên sinh vật ở biển cả và Công
ước về thềm lục địa.
+ Hội nghị lần thứ II cũng được tổ chức tại Geneva vào năm 1960 với
mục đích thống nhất về chiều rộng của lãnh hải. Tuy nhiên, do lập trường của
các nhóm nước khác nhau, nên hội nghị đã không đạt được mục tiêu đề ra.
+ Hội nghị lần thứ III chủ yếu được tổ chức tại New York (Mỹ) và
Geneva với hai giai đoạn khác nhau: giai đoạn trù bị từ năm 1967 đến năm 1973
và giai đoạn chính thức từ năm 1973 đến năm 1982.


Sau hơn 4 năm chuẩn bị và 9 năm đàm phán, ngày 10/12/1982, Công ước
Liên Hiệp quốc về Luật Biển được 107 quốc gia ký kết năm 1982, trong đó có

Việt Nam, được nhiều tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và những quốc
gia không có biển chấp nhận. Tính đến ngày 5/6/2012, công ước có 162 thành
viên từ khắp các châu lục trên thế giới tham gia.
Sau Hiến chương Liên Hiệp quốc, Công ước Luật Biển 1982 được đánh
giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ
hai, có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Công ước Luật Biển 1982 gồm 320 điều
khoản và 9 Phụ lục, với hơn 1.000 quy phạm pháp luật. Công ước Luật Biển
1982 ra đời đã đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một
trật tự pháp lý quốc tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao
gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.( trích dẫn />
2. Với 320 điều khoản và 9 phụ lục Công ước Luật Biển năm
1982 một số nội dung quan trọng đã được quy định:
1. Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền đầy đủ đối với vùng lãnh hải mà họ có
quyền thiết lập với chiều rộng không quá 12 hải lý. Tuy vậy, chủ quyền này
không phải là tuyệt đối vì tầu thuyền nước ngoài được phép “đi qua vô hại”
trong vùng lãnh hải. Tầu thuyền và máy bay được phép “đi quá cảnh” qua các
dải hẹp, eo biển được sử dụng cho hàng hải quốc tế.
2. Ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế (ĐQKT) và thềm lục địa được xác
định dựa trên các quy tắc áp dụng cho lãnh thổ đất liền, nhưng đối với đá không
thể có con người sinh sống hoặc không có đời sống kinh tế sẽ không có vùng
ĐQKT hoặc thềm lục địa. Quốc gia có biên giới với eo biển có thể điều tiết lưu
thông hàng hải và các khía cạnh khác liên quan đến đi lại, lưu thông..
3. Quốc gia quần đảo, được tạo thành bởi nhóm hoặc các nhóm đảo liên quan
gần gũi và những vùng nước tiếp liền, sẽ có chủ quyền đối với vùng biển nằm
trong các đường thẳng được vẽ bởi các điểm xa nhất của các đảo, vùng nước bên
trong các đảo được gọi là vùng nước quần đảo, và các quốc gia này có thể thiết


lập các đường đi lại cho tầu thuyền và hàng không, trong đó các quốc gia khác
có thể được hưởng quyền qua lại các quần đảo bằng các tuyến đường biển đã

định.
4. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với vùng ĐQKT rộng tối đa 200
hải lý, đối với tài nguyên thiên nhiên và một số hoạt động kinh tế, và thực hiện
quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi
trường. Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải và tự do hàng không và tự do
đặt dây cáp ngầm và đường ống.
5. Quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý có quyền tham gia trên cơ sở
công bằng trong việc khai thác một phần thích hợp trong số phần dư dôi của các
tài nguyên sống trong vùng ĐQKT của quốc gia ven biển trong cùng khu vực
hoặc tiểu khu vực; các loài di cư như cá hoặc sinh vật biển được bảo vệ đặc biệt.
6. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa (khu vực đáy
biển của quốc gia) trong việc việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên
của thềm lục địa. Thềm lục địa có thể kéo dài ít nhất là 200 hải lý từ bờ biển, và
có thể kéo dài không quá 350 hải lý trong những điều kiện cụ thể. Quốc gia ven
biển chia sẻ với cộng đồng quốc tế phần lợi tức thu được do khai thác tài nguyên
từ bất cứ khu vực nào trong thềm lục địa của quốc gia đó khi nó kéo dài quá 200
hải lý. Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa (được thành lập theo Phụ lục II trong
Công ước Luật biển 1982) sẽ có ý kiến đối với quốc gia liên quan về ranh giới
ngoài của thềm lục địa khi nó kéo dài quá 200 hải lý.
7. Tất cả các quốc gia đều có quyền tự do truyền thống về hàng hải, bay qua,
nghiên cứu khoa học và đánh cá trên vùng biển quốc tế. Các quốc gia có trách
nhiệm hợp tác với nhau trong việc thông qua các biện pháp để quản lý và bảo
tồn các tài nguyên sống trên biển.
8. Các quốc gia có chung biên giới với biển kín hoặc nửa kín cần hợp tác với
nhau trong việc quản lý tài nguyên sống, có chính sách và hoạt động về môi


trường cũng như nghiên cứu khoa học. Các quốc gia không có biển có quyền
tiếp cận với biển và được tự do quá cảnh thông qua nước quá cảnh để ra biển.
Các quốc gia phải ngăn chặn và kiểm soát ô nhiểm môi trường biển và phải chịu

trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra do sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của
mình để kiềm chế những sự ô nhiễm đó.
9. Tất cả các nghiên cứu khoa học trong vùng ĐQKT và thềm lục địa phải có sự
đồng ý của quốc gia ven biển. Tuy vậy, hầu như trong tất cả mọi trường hợp,
quốc gia ven biển có trách nhiệm đồng ý với đề nghị của các quốc gia khác khi
việc nghiên cứu được tiến hành vì mục đích hoà bình và đã thực hiện một số yêu
cầu chi tiết. Các quốc gia cam kết tăng cường phát triển và chuyển giao kỹ thuật
biển trong những điều kiện “ công bằng và hợp lý” có tính đến đầy đủ những lợi
ích hợp pháp.
10. Các quốc gia thành viên phải giải quyết bằng biện pháp hoà bình các tranh
chấp liên quan đến việc hiểu và áp dụng Công ước. Các tranh chấp cần được
trình lên Toà án quốc tế về luật biển ( được thành lập theo Công ước), trình lên
Toà án công lý quốc tế hoặc trọng tài. Toà án có quyền tài phán riêng biệt đối
với những tranh chấp liên quan đến khai thác ở đáy biển.
(trích dẫn />
II/ CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT BIỂN:
5. Nguyên tắc tự do biển cả:
a. Lịch sử hình thành nguyên tắc tự do biển cả
- Từ thế kỷ thứ XV, khi các quốc gia mở rộng quyền lực của mình ra biển cả, sự
đua tranh trong việc chiếm lĩnh thị phần khai thác, sử dụng biển trở nên ngày
càng quyết liệt,lúc đó người ta nhận ra rằng” biển cả không phải là nguồn tài
nguyên vô tận mà biển cả là của chung, các quốc gia bình đẳng trong việc khai
thác sử dụng biển” từ đó hình thành hai quan điểm, hai học thuyết trái ngược
nhau đó là: tự do biển cả và chủ quyền quốc gia


Và trong công ước 1982 thì nguyên tắc tự do biển cả đã được thừa nhận
như một nguyên tắc cơ bản nhất của luật biển quốc tế. Do đó mà chế độ pháp lý
của biển cả được tập trung chủ yếu trong nguyên tự do ở biển cả. Theo nguyên
tắc này, biển cả được đề ngỏ cho tất cả các quốc gia có biển hay không có biển

đều bình đẳng và tự do trong việc sử dụng biển.
b. nội dung
Biển cả tồn tại khách quan cùng với các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán của quốc gia ven biển. Do không thuộc sở hữu của bất kỳ
quốc gia nào nên quy chế pháp lý của Biển cả là quy chế tự do, thể hiện trên hai khía
cạnh:
Thứ nhất, các quốc gia có quyền và lợi ích khác nhau trong khu vực biển cả;
Thứ hai, không có sự phân biệt đối xử giữa các quốc gia có vị trí và hoàn cảnh
địa lý khác nhau khi tham gia sử dụng và khai thác biển cả.

Theo quy định của Công ước Luật Biển 1982, nguyên tắc tự do biển cả
được cụ thể hóa thành các quyền tự do cơ bản, là cơ sở để hình thành quy chế pháp
lý của Biển cả và Vùng. Quyền tự do này đặc biệt bao gồm: Tự do hàng hải; Tự do
hàng không; Tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm; Tự do xây dựng các đảo nhân tạo
và các thiết bị khác được pháp luật cho phép; Tự do đánh bắt hải sản;Tự do nghiên
cứu khoa học. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích
của việc thực hiện quyền tự do trên biển cả của các quốc gia khác, cũng như các
quyền được Công ước thừa nhận liên quan đến hoạt động trong Vùng (Điều 87 Công
ước Luật Biển 1982).
“ĐIỀU 87. Tự do trên biển cả
1. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển.
Quyền tự do trên biển cả được thực hiện trong những điều kiện do các quy định của
Công ước hay và những quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định. Đối với các
quốc gia dù có biển hay không có biển, quyền tự do này đặc biệt bao gồm:
a) Tự do hàng hải;
b) Tự do hàng không;
c) Tự do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn ngầm với điều kiện tuân thủ Phần VI;
d) Tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác được pháp luật quốc
tế cho phép, với điều kiện tuân thủ phần VI;
e) Tự do đánh bắt hải sản trong các điều đã được nêu ở Mục 2;

f) Tự do nghiên cứu khoa học với các điều kiện tuân thủ các Phần VI và VIII.


2. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của việc
thực hiện tự do trên biển cả của các quốc gia khác, cũng như đến các quyền được
Công ước thừa nhận liên quân đến các hoạt động trong Vùng.”(công ước luật biển 1982).
Tự do hàng hải:
“ĐIỀU 90. Quyền hàng hải
1. Mỗi quốc gia quy định các điều kiện cho phép tàu thuyền mang quốc tịch của
nước mình, các điều kiện đăng ký các tàu thuyền trên lãnh thổ của mình và các điều
kiện cần phải có để cho tàu thuyền được quyền treo cờ của nước mình. Các tàu
thuyền mang quốc tính của quốc gia mà chúng được phép treo cờ. Cần phải có một
mối quan hệ thực chất giữa quốc gia và các con tàu.
2. Quốc gia nào cho phép tàu thuyền treo cờ nước mình thì cấp cho tàu thuyền
đó các tài liệu có liên quan đến mục đích đó” (công ước luật biển 1982).
Tự do dàng hải là các quyền liên quan đến đi lại di chuyển trên biển cả. Gồm
quyền tự do đi lại và phản đổi tự do đi lại.
+ các tàu thuyền có quyền tự do đi lại trên biển cả và chỉ chịu sự quản lý theo
hiến pháp và pháp luật mà tàu, thuyền đó mang cờ. Tàu quân sự hoặc các tàu Nhà
nước dùng cho hoạt động phi thương mại khi hoạt động trên biển cả được hưởng
quyền bất khả xâm phạm và quyền miễn trừ tài phán của bất kì quốc gia nào khác,
ngoài quốc gia mà tàu mang quốc kì theo điều 95, 96.
Tự do đánh bắt hải sản:
“ĐIỀU 116. Quyền đánh bắt ở biển cả
Tất cả các quốc gia đều có quyền cho công dân của mình đánh bắt ở biển cả,
với điều kiện:
a) Tuân theo các nghĩa vụ ghi trong công ước;
b) Tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cũng như các lợi ích của các quốc gia ven
biển như đã được trù định, đặc biệt là trong Điều 63, khoản 2 và trong các Điều từ 64
đến 67; và

c) Tuân theo mục này”.
Theo đó các quốc gia đều có quyền tự do đánh bắt tài nguyên sinh vật biển. Tàu
thuyền và công dân của mỗi quốc gia có thể sử dụng mọi nguồn tài nguyên thiên
nhiên của biển, trên khu vực biển cả có thể đánh bắt hải sản tùy theo khả năng của
con người vào bất cứ thời điểm nào mà họ muốn và bằng bất cứ phương tiện đánh
bắt nào. Áp dụng cho vùng biển cả.
Tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm:
Các quốc gia dù có biển hay không có biển đều có quyền đặt dây cáp và ống
dẫn ngầm trên biển cả và bất kỳ quốc gia nào cũng không được cản trở đến việc lắp
đặt sử dụng và sửa chữa các dây cáp và ống dẫn ngầm của các quốc gia khác.


Tự do hàng không:
Trong vùng trời quốc tế thì các quốc gia có quyền tự do hàng không. Các
phương tiện tàu bay có quyền tự do hoạt động trong vùng trời quốc tế chỉ chịu quyền
tài phán của quốc gia mang quốc tịch. Và phải tuân thủ các quy định của luật hàng
không, đảm bảo an toàn. Đây là quyền tự do được bổ sung trong quá trình phát
triển Luật biển quốc tế, đồng thời được thừa nhận đây là nguyên tắc chuyên biệt
của Luật Hàng không quốc tế.
Tự do nghiên cứu khoa học biển và tư do xây dựng các đảo nhân tạo và
các thiết bị khác được pháp luật cho phép:
Theo quy định của công ước luật biển 1982, các quốc gia có quyền tự do
nghiên cứu khoa học, tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được Luật
quốc tế cho phép. Tuy nhiên, việc vùng đặc quyền kinh tế được thành lập với chiều
rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở và quyền của quốc gia ven biển trong thềm lục
địa có chiều rộng tối thiểu là 200 hải lý và tối đa là 350 hải lý hoặc 100 hải lý tính từ
đường đẳng sâu 2500m vì thế quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc xây
dựng thiết bị, đảo nhân tạo và nghiên cứu khoa học nên đã hạn chế phần lớn phạm vi
không gian của quyền tự do này. Đây là hai quyền tự do mới được bổ sung cho nội
dung của nguyên tắc tự do biển cả,


6. Nguyên tắc đất thống trị
c. Lịch sử hình thành:
Nguyên tắc “đất thống trị biển” là sự thể hiện cụ thể của thuyết Mere
Clausum. Đây là nguyên tắc của Luật Tập quán, hình thành từ thực tiễn xét
xử của Tòa án Công lý Quốc tế. Trong phán quyết lịch sử của Tòa án về phân
định Thềm lục địa Biển Bắc ngày 20/02/1969, Tòa đã khẳng định: Thềm lục
địa của bất kỳ quốc gia nào cũng phải là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất
liền của nó và không được cản trở sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền
của nước khác.
d. Nội dung
Theo nguyên tắc, việc mở rộng chủ quyền quốc gia ra biển không thể
tách rời yếu tố chủ quyền lãnh thổ. Yếu tố lãnh thổ theo ghi nhận của nguyên
tắc này là lãnh thổ đất (bao gồm cả đảo tự nhiên và quần đảo). Nguyên tắc
“đất thống trị biển” có ý nghĩa quan trọng đối với các quốc gia ven biển nhất
là các quốc gia đang phát triển. Nó là cơ sở để khẳng định chủ quyền, quyền


tài phán của quốc gia trên biển, góp phần giải quyết công bằng và hiệu quả
tranh chấp trên biển giữa các quốc gia.

Tại Điều 76 Công ước Luật Biển 1982:
“ Định nghĩa thềm lục địa
1. Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài
tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục
địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý,
khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ờ khoảng cách gần hơn.
2. Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài các giới hạn nói ở các khoản từ 4
đến 6.

3. Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa của quốc gia ven
biển, cấu thành bởi đáy biển tương ứng với thềm, dốc và bờ, cũng như lòng
đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao gồm các đáy của đại dương ở
độ sâu lớn, với các dải núi đại dương của chúng, cũng không bao gồm lòng
đất dưới đáy của chúng.
4. a) Theo công ước, quốc gia ven biển xác định bờ ngoài của rìa lục địa mở
rộng ra quá 200 hải lý các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
bằng:
i. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định tận
cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần trăm khoảng
cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa hay,
ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định ở
cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý;
b) Nếu không có bằng chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng hợp với điểm
biến đồi độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc


5. Các điểm cố định xác định trên đáy biển, đường ranh giới ngoài cùng của
thềm lục địa được vạch theo đúng khoản 4, điểm a), điểm nhỏ i) và ii), nằm
cách điểm cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải một khoảng cách không vượt quá
350 hải lý hoặc nằm cách đường đẳng sâu 2500m là đường nối liền các điểm
có chiều sâu 2500m, một khoảng cách không quá 100 hải lý.
6. Mặc dù đã có khoản 5, một dải núi ngầm, ranh giới ngoài của thềm lục địa
không vượt quá một đường vạch ra ở cách đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản này không áp dụng cho các địa hình nhô cao
dưới mặt nước tạo thành các yếu tố tự nhiên của rìa lục địa, như các thềm,
ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm.
7. Quốc gia ven biển ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của mình, khi thềm
này mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải, bằng cách nối liền các điểm cố định xác định bằng hệ tọa độ kinh vĩ

độ, thành các đoạn thẳng dài không quá 60 hải lý.
8. Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục địa
của mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải, cho ủy ban ranh giới thềm lục địa được thành lập
theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý. Ủy ban gửi cho
các quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề liên quan đến việc ấn
định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới do một quốc gia ven
biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát và có tính chất bắt buộc.
9. Quốc gia ven biển gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các bản đồ và các
điều chỉ dẫn thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ một cách thường
xuyên ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình. Tổng thư ký công bố các
tài liệu này theo đúng thủ tục.
10. Điều này không xét đoán trước vấn đề hoạch định ranh giới thềm lục địa
giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau.”


Dựa vào vùng đất thuộc chủ quyền của các quốc gia ve biển giúp các quốc
gia xác định vùng nội thủy của quốc gia mình, xác định đường cơ sở, từ việc
xác định được đường cơ sở là căn cứ để các quốc gia xác định các vùng còn
lại của vùng biển: lãnh hải vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng dặc quyền kinh tế.
Nguyên tắc này xác định vùng đất thuộc chủ quyền quốc gia là căn cứ quan
trọng để có thể xác định được các bộ phận cấu thành của vùng biển quốc gia
đó từ đó xác lập các quyền và nghĩa vụ của quốc gia đối với vùng biển đó.

7. Nguyên tắc di sản chung của loài người
c. Lịch sử hình thành
Khái niệm di sản chung của loài người được chính thức hình thành qua Nghị
quyết 2749 ngày 17/12/1970 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc. Khái niệm này đã
xác định khối tài sản không thể phân chia, thuộc quyền sở hữu của cộng đồng quốc
tế, thay mặt cho tất cả quốc gia. Khái niệm này sau đó đã được thể hiện và cụ thể hóa

trong các quy định của Công ước Luật Biển 1982.
d. Nội dung
“ĐIỀU 136. Di sản chung của loài người
Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của loài người.
ĐIỀU 137. Chế độ pháp lý của Vùng và các tài nguyên của nó
1. Không một quốc gia nào có thể đòi hỏi thực hiện chủ quyền hay các quyền
thuộc chủ quyền ở một phần nào đó của Vùng hoặc đối với tài nguyên của Vùng;
không một quốc gia nào và không một tự nhiên nhân hay pháp nhân nào có thể
chiếm đoạt bất cứ một phần nào đó của Vùng hoặc tài nguyên của Vùng. Không một
yêu sách, một việc thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc quyền chủ quyền này
cũng như một hành động chiếm đoạt nào được thừa nhận.
2. Toàn thể loài người, mà Cơ quan quyền lực là người thay mặt có tất cả các
quyền đối với các tài nguyên của Vùng. Những tài nguyên này không thể chuyển
nhượng được. Còn các khoáng sản đã được khai thác từ Vùng thì chỉ có thể chuyển
nhượng theo đúng phần này và phù hợp với các nguyên tắc, quy định và các thủ tục
của Cơ quan quyền lực.
3. Một quốc gia hay một tự nhiên nhân hay pháp nhân chỉ được đòi hỏi, giành
lấy hoặc thực hiện các quyền đối với các khoáng sản đã được khai thác ở Vùng theo
đúng phần này. Các quyền đã đòi hỏi, giành được hay được thực hiện bằng cách
khác đều không được thừa nhận.
ĐIỀU 138. Cách xử sự chung của các quốc gia liên quan đến Vùng


Trong cách xử sự chung liên quan đến Vùng, các quốc gia tuân theo phần này,
các nguyên tắc được nêu trong Hiến chương Liên Hợp quốc và các quy tắc khác của
pháp luật quốc tế, với sự quan tâm giữ gìn hòa bình và an ninh, đẩy mạnh sự hợp tác
quốc tế và hiểu biết lẫn nhau ”.
Biển cả có hai chức năng chính đó là chức năng là phương tiện giao thông hàng
hải và là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá. Chính vì vậy biển cả được xác định là
di sản chung của loài người không phải của bất kì một quốc gia nào, của cá nhân

nào.Vì là tài sản chung nên mọi quốc gia đều có quyền nghiên cứu khoa học, thăm
dò, khai thác, phân chia, sử dụng các nguồn tài nguyên trong vùng. Nhưng không
một quốc gia nào đươc thực hiện chủ quyền hay thực hiện các quyền thuộc chủ
quyền ở đây và phải đảm bảo môi trường không bị ô nhiễm.

8. Nguyên tắc công bằng
c. Lịch sử hình thành
Nguyên tắc công bằng là nguyên tắc được áp dụng phổ biến trong quá trình
phận định biển. Trong phán quyết của Toàn án Công lý quốc tế về phân định
Thềm lục địa Biển Bắc ngày 20/02/1969, Tòa đã đưa ra nguyên tắc khi phân
định biển: “Công bằng không có nghĩa nhất thiết phải bằng nhau”. Tòa cũng đã
nêu ra một số khả năng áp dụng nguyên tắc công bằng. Lưu ý rằng phải xem xét
để đảm bảo các quốc gia sẽ áp dụng các phương thức công bằng một cách tự do,
không có giới hạn, từ đó đưa ra một sự cân bằng hợp lý. Nhiều yếu tố phải được
xem xét tới trong quá trình phân định để đưa đến một giải pháp công bằng như:
yếu tố địa chất (phụ thuộc về địa chất của các nước ven bờ), yếu tố địa lý (hình
dạng bờ biển), sự thống nhất của các mỏ, tỷ lệ giữa bề rộng thềm lục địa với
chiều dài bờ biển. Trong phân định biển, áp dụng công bằng không có nghĩa là
sửa chữa lại tự nhiên mà là đảm bảo cho mỗi quốc gia ven biển được hưởng một
vùng biển đúng và công bằng, có tính đến các hoàn cảnh hữu quan.

d. Nội dung
Nguyên tắc công bẳng trong luật biển quốc tế năm 1982 thể hiên qua một số
điểm sau đây:
Một là, những quốc gia không có biển hoặc bất lợi về biển vẫn có quyền về
biển và đại dương. Thừa nhận những quyền của các quốc gia không có biển hoặc bất
lợi về mặt địa lý được sử dụng biển cả như những quốc gia có biển ở phạm vi mà
luật biển cho phép và có nghĩa vụ không làm tổn hại đến quyền sử dụng biển của
những quốc gia khác. Với quy định này đã trao cho những nước có vị trí địa lý kém
thuận lợi có quyền khai thác và sử dụng biển, đây là tiền đề tạo nên tính công bằng

của luật biển. Cụ thể ở khía cạnh này là tại điều 17 của công ước có quy định “Với
điều kiện phải chấp hành công ước, tàu thuyền của tất cả các quốc gia, có biển
hay không có biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải”.
Ngoài ra tại công ước 1982 còn quy định nhiều vấn đề mang tính công bằng như:
“Các quốc gia không có biển hoặc bất lợi về biển có quyền tự do hàng hải, tự do


hàng không, tự do đặt cáp ngầm, khai thác sinh vật biển ...tại vùng tiếp giáp lãnh
hải. Tại thềm lục địa các quốc giakhông ven biển được phép lắp đặt dây cáp
ngầm, ống dẫn ngầm, thực hiện nghiên cứu khoa học”. Hay tại vùng đặc quyền
kinh tế nếu quốc gia ven biển không khai thác hết tài nguyên sinh vật biển thì quốc
gia không có biển có quyền ra đó khai thác tài nguyên .Đây là một quy định chỉ
mang tính công bằng về mặt hình thức mà không có ý nghĩa trong thực tiễn; bởi
trong thực tế chẳng có quốc gia nào lại tuyên bố mình không khai thác hết tài nguyên
sinh vật tại vùng này.
Hai là không đặt biển dưới chủ quyền riêng biệt của bất kỳ quốc gia nào. Quy
định này nhằm bác bỏ mọi yêu sách vềchủ quyền của biển cả cũng như đối với vùng,
di sản chungcủa loài người. Với sự ghi nhận này thì tất cả các quốc gia đều có quyền
tự do hànghải, tự do hàng không, tự do lắp đặtdây cáp ngầm... tại biển cả.
Ba là đặt vùng đáy biểndưới chế độ pháp lý là di sản chung của loài người.
Vùng để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù quốc gia có biển hay không có biển để sử
dụng vào mục đích hoàntoàn hòa bình, không phân biệt đối xử. Mọi hoạt động
trongvùng được tiến hành làvì lợi ích của toàn thể loài người,không phụ thuộc
vào vị trí địa lý của các quốc gia dù có biển hay không có biển. Ở vấn đề này đã thể
hiện tính công bằngtrong luật biển là khác rõ nét.
Bốn là phân chiacác vùng biển chồng lấn và xác định các vùng biển. Áp dụng
công bằng không có nghĩa là sửa chữalại tự nhiên mà đảm bảo cho mỗi quốc gia
ven biển được hưởng một vùng biển đúng và công bằng, có tính đến các hoàn cảnh
hữu quan. Trên gốc độ “lý thuyết” thì khía cạnh này thể hiện sự công bằng “tương
đối”. Tuy nhiên ở gốc độ“thực tiễn” thì khía cạnhnày không được bảo đảmthực hiện

đúng luật. Bởi nhiều trường hợp các “quốc gia mạnh” dùng địa vị của mình để “áp
đặt” những “nước yếu” và dẫn đến kếtquả của sự phân chia công bằng đó là “công
bằng lệchhướng”.Nhìn nhận chung, không ai có thể phủ nhận nguyên tắc côngbằng
có ý nghĩa vô cùngquan trọng và không thể thiếu trong luật biển quốc tế. Nguyên tắc
này phần nào đã đảm bảo đượctính công bằng tương đối cho tất cả các quốc gia dù
có biển hay không có biển. Song trên thực tế nguyên tắc công bằng không được đảm
bảo đúng với “ý nghĩa thực sự tốt đẹp” của nó trong một số trường hợp nhất định và
đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của một số quốc gia.Bởi trong thực tiễn
vẫn còn tồn tại cụm từ “cá lớn nuốt cá bé”. Do đó để nguyên tắc công bằng thực sự
phát huy tác dụng cũng như mục đích cao cả của nó thì cần có sự hợp tác trên tinh
thần thiện chí của các quốc gia để tiến tới mục tiêu công bằng và phát triển nhân loại.


C/ KẾT LUẬN
Những nguyên tắc căn bản xuyên suốt nội dung chủ yếu của Công ước luật
biển 1982 gồm có 4 nguyên tắc cơ bản của luật biển quốc tế đó là nguyên tắc tự do
biển cả, nguyên tắc đất thống trị, nguyên tắc di sản chung, nguyên tắc công bằng.
Qua bài tiểu luận em đã trình bày và tìm hiểu làm rõ những nguyên tắc cơ bản trên
của luật biển quốc tê 1982. Do kiến thức có hạn nên trong bài tiểu luận còn nhiều
thiếu sốt nên em rất mong thầy cô nhận xét đóng góp để bài tiểu luận được hoàn
thiện hơn. em xin cảm ơn.

D/ DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Giáo trình luật quốc tế trường đại học kiểm sát Hà Nội
Giáo trình luật quốc tế trường đại học luật Hà Nội
Công ước luật biển 1982.
Luatminhkhue.vn
Luatduonggia.vn




×