Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.17 KB, 16 trang )

I. THÔNG TIN VỂ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải toán có
lời văn lớp 3
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lớp 3C, Trường Tiểu học Hòa Bình
3. Tác giả : Nguyễn Thị Phương Lan – nữ
Ngày sinh: 02/7/1974
Trình độ chuyên môn: Cử nhân Tiểu học
Nhiệm vụ được giao: Giáo viên chủ nhiệm lớp 3C – tổ phó Tổ 2
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hòa Bình
Điện thoại: 01694083369
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Trường Tiểu học Hòa Bình
Địa chỉ: Thôn Tây Hồ, xã Hòa Bình, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
Điện thoại : 0363826105
5. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2014-2015

II. BÁO CÁO MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải toán có
lời văn lớp 3
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lớp 3C, Trường Tiểu học Hòa Bình
3. Mô tả bản chất của sáng kiến
3.1. Tình trạng và giải pháp
Năm học 2016-2017, ngành Giáo dục tiếp tục thực hiện chương trình đổi
mới, nâng cao chất lượng dạy và học một cách đồng bộ và toàn diện cho tất cả
các cấp học nói chung, tiểu học nói riêng. Căn cứ vào mục tiêu cơ bản của việc
dạy học toán đối với cấp tiểu học đó là: Giúp học sinh có những kiến thức ban
đầu về số học các số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại lượng thông dụng ;
1


một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Hình thành các kĩ năng tính, đo
lường, giải toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống. Góp phần phát


triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí, diễn đạt đúng (nói và viết) cách
phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích
thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, góp phần hình thành bước đầu
phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt,
sáng tạo.
Chương trình môn Toán ở lớp 3là một bộ phận của chương trình môn Toán
ở Tiểu học. Dạy học giải toán có lời văn lớp 3 kế thừa giải toán có lời văn ở các
lớp 1, 2; mở rộng, phát triển nội dung giải toán phù hợp với sự phát triển nhận
thức của HS lớp 3. Thời lượng dành cho giải toán có lời văn chiếm tương đối
lớn trong tổng quỹ thời gian dành cho môn Toán.
Trong sách giáo khoa (SGK) Toán lớp 3, các bài toán có lời văn (toán đơn
và toán hợp) được sắp xếp xen kẽ với các mạch kiến thức khác. Đây là mạch
kiến thức khó, đòi hỏi khả năng phân tích, tổng hợp của HS khi học tập. Trong
chương trình Toán 3, ngoài các bài toán đơn (bài toán giải bằng1 phép tính), HS
còn được học các bài toán hợp (bài toán giải bằng 2 phép tính- 2 bước tính),mỗi
bước tính là một bài toán đơn. Kết quả phép tính thứ nhất sẽ là thành phần của
phép tính thứ hai. Số bài toán hợp chiếm một tỉ lệ lớn trong mạch kiến thức giải
toán, xuyên suốt chương trình Toán 3.
Thực tế cho thấy, có rất nhiều giáo viên lầm tưởng rằng việc dạy, giải các
bài toán có 1-2 phép tính là một việc làm đơn giản, không có gì là khó khăn, cứ
theo “mẫu” mà làm.Trong quá trình hướng dẫn học sinh thực hành không có sự
nhất quán trong ngôn ngữ cũng như trong phương pháp khai thác giữa các giáo
viên. Trong phần giải toán có lời văn với các dạng bài khác nhau, HS lúng túng
không biết bắt đầu từ đâu.Còn một số HS hiểu đề toán chưa đúng theo nội dung
đề cho. Các yêu cầu trong bài toán có lời văn có khi bị hiểu sai lệch. HS hiểu nội
dung, yêu cầu của đề toán chưa sâu, từ các tình huống cụ thể chưa tự phát hiện
ra mối quan hệ giữa các đại lượng (mối quan hệ toán học mà nội dung đề bài
2



toán đã nêu). Từ đó, các em chọn phép tính, lời giải không thích hợp.Học sinh
tóm tắt bài toán dài dòng, chưa biết lược bỏ những từ ngữ không quan trọng
hoặc lựa chọn cách tóm tắt chưa tối ưu. Khi giải, các câu trả lời của học sinh
không có sự thống nhất, em trả lời kiểu này, em trả lời kiểu kia, lời giải không
phù hợp với phép tính và ngược lại hoặc máy móc, thiếu sáng tạo. Nhiều trường
hợp danh số, đáp số cũng ghi không hợp lí. Nhiều học sinh nắm cách thực hiện
giải toán có lời văn ngay trong tiết học nhưng sau đó thì quên; việc vận dụng kỹ
năng thực hành trở thành“quy trình” hay “đường mòn” và đặc biệt giải bài toán
có lời văn một cách sáng tạo để ứng dụng vào thực tế thì còn nhiều hạn
chế,...Tất cả những điều đó chứng tỏ, khi dạy mảng kiến thức này, giáo viên
chưa thật sự đi sâu vào phương pháp tìm lời giải, mỗi giáo viên lại hướng dẫn
trình bày một kiểu, một cách khác nhau, dẫn đến sự bất hợp lí nói trên.
3.2 Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
a/ Mục đích của giải pháp
Toán có lời văn là một trong 5 mạch kiến thức cơ bản trong chương trình
toán lớp 3 (Số học và các yếu tố Đại số, các yếu tố Hình học, Đại lượng và đo
Đại lượng, giải toán có lời văn, một số yếu tố thống kê). So với mạch kiến thức
Số học, Hình học và Đo lường, khối lượng mạch Giải toán không nhiều( chiếm
khoảng 9%), song nó không chỉ giữ vị trí quan trọng trong việc phát triển tư duy
toán học nói chung mà còn là yếu tố chính trong việc hình thành và phát triển tư
duy trìu tượng, khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và cách nhìn nhận
thấu đáo, khúc triết trong cách giải quyết vấn đề của học sinh.
Căn cứ vào mục tiêu và thực trạng của dạy học toán nói chung và giải toán
có lời văn lớp 3 nói riêng , với tầm quan trọng như vậy ,việc dạy giải toán có lời
văn cho HS lớp 3 là một vấn đề không thể xem nhẹ. Vì vậy trong phạm vi của đề
tài này, tôi xin trao đổi một số kinh nghiệm giải toán có lời văn cho học sinh
lớp 3.
b/ Nội dung giải pháp

3



Dựa trên cơ sở nội dung yêu cầu cần đạt, để giúp học sinh có kĩ năng giải
toán có lời văn lớp 3, tôi xin đề ra những biện pháp cụ thể như sau:
b.1 Tìm hiểu đề bài
Giáo viên cần giúp học sinh nắm vững việc tìm hiểu kĩ đầu bài bài toán có
lời văn: cần tìm hiểu rõ cách diễn đạt bằng lời văn của bài toán, nắm được ý
nghĩa và nội dung của bài toán, thấy được bản chất toán học của bài toán được
che đậy dưới vỏ bọc của lời văn. Mỗi bài toán đều có ba yếu tố cơ bản: dữ kiện
là cái đã cho, đã biết ; những ẩn số là cái chưa biết và cần tìm; mối quan hệ
giữa cái đã cho và cái cần tìm. Học sinh hay gặp các khó khăn, dễ nhầm lẫn
giữa cái đã cho và cái cần tìm.
Ví dụ: Bài 2(SGK-T176)): Người ta dự định chuyển 15 700kg muối lên
miền núi bằng 5 xe tải chở đều nhau, đợt đầu có 2 xe lên đường. Hỏi đợt đầu
chở được bao nhiêu ki-lô-gam muối?
Thực tế, nhiều giáo viên hỏi HS:
+Bài toán cho biết gì? (Có 15 700kg muối cần chuyển lên miền núi); Có
bao nhiêu xe chở muối? (5 xe); Có bao nhiêu xe đã lên đường (2 xe).
+ Bài toán hỏi gì (Hỏi đợt đầu chở được bao nhiêu kg muối ? ).
=> Cách tìm hiểu theo tiến trình từ trên xuống học sinh khó hình dung ra
hướng giải.
Giáo viên có thể hỏi học sinh từ dưới lên để bài toán có điểm nhấn.
+ Bài toán yêu cầu gì?(hỏi gì?)- Đi vào trọng tâm yêu cầu cần thực hiện.
+ Bài toán cho biết gì?- Xác định cái đã cho.
+ Các xe này có điểm gì cần chú ý? (đều nhau). Thường thì giáo viên quên
không hỏi điều này chính vì vậy học sinh không nắm chắc bản chất của bài toán.
Với cách này giúp học sinh chủ động tìm hiểu bài toán và có hướng giải một
cách nhanh chóng.
+ Để làm được bài toán này, em phải qua mấy bước? Nêu các bước.
4



b.2 Lựa chọn cách trình bày tóm tắt hợp lý:
Tóm tắt bài toán không phải là một phần trong khâu trình bày bài giải,
nhưng là phần quan trọng giúp học sinh có cái nhìn tổng thể về toàn bộ nội dung
bài toán, từ đó tìm được mối liên hệ cần thiết giữa cái đã cho và cái phải tìm.
Không những thế, lựa chọn tóm tắt phù hợp giúp định hình hướng giải, qua đó
các em biết lựa chọn phép tính thích hợp. Đối với lớp 3 cũng như cấp Tiểu học nói
chung có rất nhiều cách tóm tắt như: tóm tắt bằng lời, hình vẽ, sơ đồ Ven,.. Sử
dụng sơ đồ đoạn thẳng (SĐĐT) là một trong những cách tóm tắt phù hợp đối với
học sinh Tiểu học. SĐĐT không những giúp các em có cái nhìn khái quát về bài
toán mà còn giúp các em nhận ra cái đã biết, cái phải tìm và mối liên hệ giữa
chúng. Trong những trường hợp không thể sử dụng được SĐĐT mới nên dùng
quy ước bằng lời, hoặc hình vẽ… để tóm tắt.
Để học sinh làm tốt các bài toán hợp thì giáo viên cần hướng dẫn học sinh
rèn luyện kỹ năng giải các bài toán đơn. Vì vậy, việc rèn cho học sinh thuần thục
khâu tóm tắt các bài toán đơn (chủ yếu bằng SĐĐT) là thật cần thiết. Việc thuần
thục khâu tóm tắt bài toán đơn không những giúp học sinh nhanh chóng tìm ra
lời giải, mà nó còn là cơ sở giúp học sinh có kĩ năng tóm tắt và giải các bài toán
hợp.
Ví dụ, với dạng sơ đồ tóm tắt bài toán đơn loại “nhiều hơn” như:
230kg
90 kg

Buổi sáng:
Buổi chiều:
? kg

Ta cũng có dạng sơ đồ tóm tắt cho bài toán hợp tương ứng:
230 kg

Buổi sáng:

90kg

? kg

Buổi chiều:
5


Một ví dụ khác, khi học loại toán “Gấp một số lên nhiều lần” ta có dạng
tóm tắt kiểu như:

10tuổi

Con:

Mẹ:

? tuổi

Khi học đến toán hợp, ta cũng có kiểu tóm tắt:

Con:

10 tuổi
kg
? tuổi

Mẹ:


? tuổi

Khi hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ, giáo viên cần lưu ý học sinh dóng thẳng
các vị trí đầu mút có giá trị so sánh. Với các bài toán dạng chia phần hoặc gấp,
giảm, các đoạn thẳng tỉ lệ được chia đều trên sơ đồ cần đảm bảo tính chính xác
tuyệt đối ( sử dụng thước có chia vạch cm hoặc dòng kẻ ôli ). Còn những bài
toán dạng hơn, kém (hoặc nhiều hơn,ít hơn) thì các phần được chia ra chỉ mang
tính ước lệ song cũng phải đảm bảo được độ chính xác tương đối (ước lượng
bằng mắt).
Bên cạnh việc luyện cho học sinh kĩ năng tóm tắt đề toán, giáo viên cũng
cần chú trọng luyện cách nêu bài toán theo tóm tắt rồi giải. Chẳng hạn:
Nêu bài toán theo tóm tắt rồi giải:

Bao gạo :

50 kg
kg

Bao ngô:

15 kg
kg

? kg
kg
6


Bao gạo cân nặng 50 kg, bao ngô cân nặng hơn bao gạo 15 kg. Hỏi bao

ngô cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam?
Khi đã hiểu được gốc gác của sơ đồ như vậy thì học sinh sẽ chọn được
ngay phép tính cộng để giải bài toán.
Với cách dạy học như vậy, việc giải toán hợp, học sinh có thể nêu thành bài
toán có 2 phép tính sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn nhiều. Học sinh sẽ giải được
không mấy khó khăn bài toán có dạng tóm tắt:

Bao gạo :

50 kg
kg

Bao ngô :

15 kg
kg

? kg
kg

b.3 Xây dựng hệ thống câu hỏi để tìm lời giải cho bài toán
Ở lớp 3, các bài toán hợp chỉ dừng lại ở 2 bước tính. Việc chọn phép tính
đúng cho mỗi câu lời giải đã được học sinh thực hành nhuần nhuyễn từ khi giải
các bài toán đơn. Vì vậy, kĩ năng này không còn là vấn đề cốt lõi khi dạy các bài
toán hợp. Vấn đề mấu chốt là làm sao cho học sinh nhận biết được đó là một bài
toán hợp (bài toán giải bằng 2 phép tính). Thực tế cho thấy, rất nhiều học sinh
sau khi đọc xong một đề bài toán hợp, không biết rằng bài toán cần phải giải
bằng 2 bước tính thế là tóm luôn câu hỏi để đặt câu lời giải, để rồi chẳng biết
phải chọn phép tính nào cho đúng. Để giúp học sinh tránh được sai sót này, giáo
viên cần xây dựng một hệ thống câu hỏi giúp học sinh đi tìm lời giải của bài

toán. Đây chính là quá trình phân tích bài toán để tìm câu trả lời. Cụ thể là tìm
đúng thứ tự của 2 bước tính.
Quá trình phân tích bài toán cho phép ta tách một bài toán hợp (mà học
sinh chưa giải được) thành 2 bài toán đơn (loại mà học sinh quá quen thuộc)quá trình phân tích bài toán để tìm lời giải theo kiểu đi ngược từ câu hỏi đến cái
đã cho. Nhưng trong thực tế, rất nhiều giáo viên đều có chung phương pháp là
hướng dẫn học sinh đi xuôi từ cái đã cho đến câu hỏi.

7


Ví dụ, với bài toán sau: (BT2-Tr50-Toán 3): Thùng thứ nhất đựng 18 lít
dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng
đựng bao nhiêu lít dầu?
Thực tế nhiều GV hướng dẫn HS giải từng bước như sau:
- Bài toán cho biết gì? (thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng
nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu)
- Vậy muốn biết thùng thứ hai đựng bao nhiêu lít dầu em làm thế nào?
(lấy 18 + 6 = 24 lít)
- Bây giờ đã biết thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng 24 lít
dầu. Vậy muốn biết cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu, em làm thế nào?
(lấy 18 + 24 = 42 lít).
Với cách trên rất dễ thực hiện, nó vừa làm cho bài giảng trở lên suôn sẻ,
trôi chảy, lại vừa làm cho học sinh đỡ mệt óc vì không phải động não nhiều. Đó
chính là cách giải toán theo lối tổng hợp. Ở đây, bám theo lời văn của đề bài, ta
lần lượt giải 2 bài toán đơn:
Bài toán 1: …….Tìm số lít dầu ở thùng thứ hai.
Bài toán 2: ……..Tìm số lít dầu ở cả hai thùng.
Kết hợp (tổng hợp) lại ta có cách giải bài toán đã cho.
Song cách trên không đặc trưng cho phương pháp tìm cách giải của các bài
toán trong toán học và trong thực tế. Do đó nó không giúp học sinh nắm được

đường lối chung để giải các bài toán, không giúp học sinh giải được các bài toán
khó hơn trong toán học và trong cuộc sống sau này. Tuy vậy, phương pháp trên
lại có thể áp dụng hữu hiệu cho các học sinh yếu kém, bởi ở những học sinh này,
kỹ năng phân tích và tổng hợp rất hạn chế, cần dẫn dắt từng bước nhỏ thì các em
mới hiểu ra vấn đề. Vì vậy, giáo viên cần có sự điều chỉnh trong cách dạy cho
phù hợp với từng đối tượng học sinh.

8


Chính vì vậy, để giúp học sinh tìm ra lời giải của bài toán, giáo viên cần
hướng dẫn học sinh suy nghĩ đi từ câu hỏi của bài toán đến những cái đã cho.
Cách phân tích bài toán như vậy có làm cho học sinh hơi mệt óc vì phải động
não, song các em sẽ trở nên thông minh hơn, đầu óc tinh tế hơn. Vì vậy, nên sử
dụng cách đó thường xuyên. Đặc biệt với những đối tượng học sinh khá, giỏi thì
đây là phương pháp hữu hiệu nhất. Với phương pháp này thì bài toán (đã nêu ở
trên) có thể hướng dẫn học sinh suy nghĩ như sau:
- Bài toán hỏi gì? (cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?).
- Bài toán đã cho biết gì? (Thùng dầu thứ nhất đựng 18l dầu, thùng dầu
thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6l dầu).
( Đây là hai câu hỏi giúp học sinh nắm rõ đâu là câu hỏi của bài toán (cái
cần tìm), đâu là điều kiện của bài toán (cái đã biết) nên giáo viên cần cho vài học
sinh nhắc lại để các em nắm chắc nội dung cũng như yêu cầu của đề bài).
-Muốn biết cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu em làm thế nào? (lấy số lít
dầu ở thùng thứ nhất cộng với số lít dầu ở thùng thứ hai) Ghi:
Cả hai thùng = thùng thứ nhất + thùng thứ hai (gạch chân Cả hai thùng)
- Số lít dầu ở thùng thứ nhất biết chưa? (Biết rồi: 18 l)
- Số lít dầu ở thùng thứ hai biết chưa? (Chưa). (gạch chân thùng thứ 2)
- Vậy muốn biết số lít dầu ở thùng thứ 2 em làm thế nào ? (Lấy số lít dầu ở
thùng thứ nhất cộng với 6) ( Mũi tên lên từ Thùng thứ hai = Thùng thứ nhất+6).

Quá trình suy nghĩ trên không những giúp học sinh tách được bài toán đã
cho thành 2 bài toán đơn mà còn giúp các em biết cần phải suy nghĩ từ đâu và
thứ tự thực hiện các bước như thế nào.
Trong khi hướng dẫn giải, giáo viên kết hợp ghi sơ lược các bước giải theo
tiến trình phân tích (ngược từ dưới lên). Nhìn vào sơ đồ đó lần lượt đặt lời giải
và viết phép tính một cách dễ dàng.
Cách giải:
9


Thùng thứ nhất + 6
Cả hai thùng = Thùng thứ nhất + Thùng thứ hai
Dựa vào sơ đồ phân tích trên để viết bài giải. (Cần làm từ trên xuống)
Nhìn vào “Thùng thứ nhất +6”, ta có phép tính thứ nhất: 18 +6 = 24 (l)
Nhìn vào phần gạch chân thấy chữ “Thùng thứ hai”, ta viết ngay câu lời giải
tương ứng thứ nhất: “Số lít dầu của thùng thứ hai là”:
Nhìn vào Thùng thứ nhất + Thùng thứ hai ta có phép tính thứ hai:
18 +24 = 42 (l)
Nhìn vào gạch chân Cả hai thùng ta có lời giải tương ứng thứ hai
“Số lít dầu của cả hai thùng là.”
Vậy ta được bài giải:
Số lít dầu của thùng thứ hai là:
18 + 6 = 24(l)
Số lít dầu của cả hai thùng là:
18 + 24 = 42(l)
Đáp số: 42 l dầu
b.4 Trình bày bài giải
Khi đã tìm được cách giải bài toán thì việc cuối cùng cần làm là trình bày
bài giải. Giáo viên cần cho học sinh thấy được cấu trúc của bài giải dạng toán có
lời văn. Toán đơn thì 1 lời giải tương ứng là 1 phép tính, 1 đáp số (Lời giải chỉ

việc thay câu hỏi của bài toán bằng cách bỏ từ hỏi thay từ mấy hoặc bao nhiêu
bằng từ số, thêm từ là cuối cùng)
VD: Hồng gấp được 12 bông hoa, Nga gấp được nhiều gấp 3 lần Hồng.
Hỏi Nga gấp được bao nhiêu bông hoa?
Câu hỏi

Hỏi Nga gấp được bao nhiêu bông hoa?
10


Câu trả lời Nga gấp được

số

bông hoa là:

Phần trình bày bài giải các bài toán hợp (ở lớp 3) bao gồm 2 câu lời giải, 2
phép tính và đáp số. Hầu hết các bài toán có lời văn đều có chung một cấu trúc
trình bày bài giải: Sau mỗi câu lời giải là một phép tính tương ứng, cuối cùng
ghi đáp số ở góc bên phải.
Tuy nhiên, ở lớp 3 cũng có những bài toán chia có dư nên lời giải phải đặt
sau phép tính. Với loại bài như này, ta có thể trình bày bài giải như sau:
VD1: Một lớp học có 33 học sinh, phòng học của lớp đó chỉ có loại bàn 2
chỗ ngồi. Hỏi cần ít nhất bao nhiêu bàn học như thế? (BT2-Tr71- Toán 3).
Bài giải
Thực hiện phép chia, ta có:
33 : 2 = 16 (dư 1)
Số bàn có hai HS ngồi là 16 bàn, còn 1HS nữa cần có thêm 1 bàn. Vậy số
bàn cần ít nhất là:
16 + 1 = 17 (cái)

Đáp số: 17 cái bàn.
VD2: Có 215 m vải, may mỗi bộ quần áo hết 3 m. Hỏi có thể may được
nhiều nhất bao nhiêu bộ quần áo như thế và còn thừa mấy mét vải?
Bài giải
Thực hiện phép chia, ta có:
215 : 3 = 71 (dư 2)
Vậy có thể may được nhiều nhất 71 bộ quần áo như thế và còn thừa 2 m vải.
Đáp số: 71 bộ, thừa 2m vải
Việc đặt câu lời giải ở các bài toán đơn cũng như các bài toán hợp không có
gì khó khăn. Nếu để ý một chút, ta thấy nội dung câu lời giải thường có 2 phần:
Phần 1 ghi cái cần tìm, phần 2 ghi phạm vi cái cần biểu thị.
11


VD: Số lít dầu
Cái cần tìm

đựng ở thùng thứ hai
Phạm vi cái cần tìm biểu thị

Khi hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải, nhiều giáo viên không chú ý đến
điều này nên không có quy định cụ thể. Vì vậy mới xảy ra tình trạng học sinh trả
lời theo cảm tính, lúc thế này, lúc thế khác.Đương nhiên, trừ những trường hợp
nội dung câu trả lời chỉ có một phần thì mỗi phép tính thường có hai cách trả lời.
Để có sự nhất quán, giáo viên cần hướng dẫn học sinh (và quy định rõ
ràng) cách trình bày câu lời giải: đặt phần 1 (cái cần tìm) lên trước rồi đến phần
2 (phạm vi cái cần tìm biểu thị) hoặc ngược lại.
VD: Trả lời:
- Số lít dầu đựng ở thùng thứ hai là:
- Số học sinh ở mỗi hàng là:

Hoặc trả lời:
- Thùng thứ hai đựng được số lít dầu là:
- Mỗi hàng có số học sinh là:
Khi viết câu lời giải, giáo viên cũng cần lưu ý học sinh không được viết tắt
các đơn vị đo lường (VD: không được viết “kg” mà phải viết là “ki- lô- gam”,
không viết “m” mà phải viết là “mét”,…), các đơn vị này chỉ viết tắt(kí hiệu quy
định trong toán học) khi đứng sau một số thực (VD: 5 kg, 10m,..).
Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh viết câu lời giải đúng, giáo viên cũng
cần lưu ý hướng dẫn viết tên đơn vị (danh số) ở kết quả phép tính và ở đáp số
cho phù hợp. Các danh số thường là 1 đơn vị kép (chỉ lượng và chỉ tên) như:
con gà, cái thuyền, kg gạo,… Khi ghi danh số sau kết quả mỗi phép tính, ta chỉ
cần ghi đơn vị lượng đứng trước là: con, cái, kg,… Nhưng khi ghi đáp số ta cần
phải ghi đày đủ là con gà, cái thuyền, kg gạo,…
b.5 Kiểm tra kết quả bài toán

12


Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta thấy rằng học sinh
thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi
giáo viên hỏi: “Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng.
Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải
trở thành thói quyen đối với học sinh. Cho nên khi kiểm tra lại bài giải, giáo
viên cần hướng dẫn các em thông qua các bước:
- Đọc lại lời giải để kiểm tra xem giữa lời giải và phép tính đã hợp lý chưa ?.
- Kiểm tra các bước giải xem đã phù hợp với yêu cầu của bài chưa, các câu
văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa?.
- Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên.
Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng dẫn các em nhìn lại toàn bộ
bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm cách giải khác, tạo điều

kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh.
Tóm lại: Giáo viên phải thực hiện đầy đủ, kĩ lưỡng từng khâu tiến hành
giải một bài toán có lời văn:
a- Bước 1: Đọc bài toán hiểu rõ đâu là dữ kiện, điều kiện của bài toán (cái
đã cho, đã biết), đâu là câu hỏi của bài toán (cái cần tìm).
b- Bước 2: Tóm tắt bài toán để thiết lập mối quan hệ giữa dữ kiện và yêu
cầu của bài. Để làm rõ điều này, giáo viên hướng học sinh tóm tắt bằng
SĐĐT.Trong trường hợp không thể sử dụng SĐĐT thì mới dùng quy ước bằng
lời.
c- Bước 3: Dựa vào dữ kiện, điều kiện và yêu cầu của bài toán, phân tích
bài toán qua hệ thống câu hỏi đi từ cái cần tìm đến cái đã cho.
d- Bước 4: Trình bày bài giải thành 2 bước theo thứ tự ngược lại quá trình
phân tích bài toán (dựa vào kết quả phân tích ở bước 3).
đ- Bước 5: Kiểm tra bài giải: lời giải, phép tính và kết quả tính xem đã phù
hợp và đúng với yêu cầu bài toán chưa. Đây là một yêu cầu bắt buộc giúp học
13


sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá bài làm của mình để tránh được những
sai sót không đáng có.
3.3 Khả năng áp dụng của giải pháp:
Từ thực tiễn áp dụng các biện pháp trên trong nhiều năm giảng dạy lớp 3
cho thấy, để đạt được mục tiêu dạy học nói chung và dạy giải toán có lời văn lớp
3 nói riêng là cả một quá trình kiên trì, sáng tạo, tìm tòi các phương pháp để
giải bài toán một cách thích hợp.Giáo viên cần trang bị cho học sinh đầy đủ các
kĩ năng cần thiết khi giải toán bằng phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng không gò
bó. Kích thích tư duy sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp trong khi tìm tòi,
phát hiện đường lối trong giải toán. Tập cho học sinh có kĩ năng phân tích bài
toán, tự kiểm tra đánh giá kết quả, tập đặt câu hỏi gợi mở cho các bước giải
trong bài toán. Động viên khuyến khích các em đưa ra phương pháp giải gần

hợp lí, tránh đưa ra tình huống phủ định ngay.Song điều trên hết là giáo viên
phải chú trọng phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh, thực
sự biết học sinh đã có cái gì? muốn gì? để kịp thời giúp đỡ. Xây dựng kế hoạch
bài dạy phải căn cứ trên mặt bằng trình độ nhận thức của học sinh, căn cứ theo
sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ, biết trẻ có những gì, cần gì. Coi trọng
vai trò người học. Từ đó xây dựng kế hoạch bài dạy mang tính vừa sức, lại phát
triển được sự sáng tạo, chủ động trong học tập của học sinh, đồng thời căn cứ
theo tiêu chuẩn kiến thức, kĩ năng, giáo viên cũng không nên đặt ra một kế
hoạch quá sức của mình và quá sức với học sinh…
Các giải pháp đã đề xuất phần lớn là sự đúc kết kinh nghiệm ở trường Tiểu
học Hòa Bình. Do đó, các biện pháp này có tính khả thi và có thể áp dụng cho
các lớp khác, trường khác. Tuy nhiên, hiệu quả của các biện pháp trên lại phụ
thuộc vào giáo viên biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo phù hợp với trình độ, khả
năng nhận thức của học sinh ở lớp đó, trường đó thì sẽ đem lại kết quả cao đáp
ứng mục tiêu đã đặt ra.
3. 4 Hiệu quả lợi ích thu được khi áp dụng giải pháp.

14


Sau nhiều năm giảng dạy trước đây và nhất là năm học 2016- 2017 tập
trung triển khi thực hiện các biện pháp nêu trên, lớp 3C do tôi giảng dạy đã thu
được những kết quả nhất định, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
nhất là kiến thức, kĩ năng đạt mục tiêu Nhà trường đã xây dựng, đồng thời góp
phần đẩy mạnh phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực". Những kết quả cụ thể đạt được như sau:
- 100% Học sinh hoàn thành nội dung các bài giải toán có lời văn trong
chương trình
- Hạn chế số lượng tỉ lệ học sinh khó khăn trong học tập, học sinh lười học,
học sinh thích học môn Toán ngày một tăng.

3.5 Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu:
Khối 3 trường Tiểu học Hòa Bình năm học 2014-2015
3.6. Các thông tin cần được bảo mật: (Không có)
3.7 Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Về trình độ chuyên môn: Tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm trở lên.
Về cơ sở vật chất: Bao gồm: Kinh phí tổ chức chuyên đề sinh hoạt chuyên
môn.
3.8 Tài liệu kèm (Không có)
4. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền
Tôi xin cam kết những nội dung trình bày trong sáng kiến là những suy
nghĩ và việc làm của tôi và đã áp dụng vào trong thực tế tại lớp 3C trường Tiểu
học Hòa Bình năm học 2016-2017.
CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG

Hòa Bình, ngày 21 tháng 3 năm 2017

SÁNG KIẾN

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

15


Nguyễn Thị Phương Lan

16




×