MỘT SỐ KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH
GIẢI BÀI TẬP MẠCH ĐIỆN LỚP 9
I. Lời nói đầu :
1. Lí do chọn đề tài :
Nghị quyết của BCH trung ương Đảng lần 4 khóa VII, nghị quyết BCH
trung ương Đảng lần 2 khóa VIII và được pháp chế hóa trong điều 24.2 của Luật
giáo dục đã chỉ rõ “phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập
cho học sinh”.
Trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ môn
nói riêng, bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn thì việc cải tiến
phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa hết sức
quan trọng vì xét cho cùng, việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận
thức, tự hành động, việc khơi dậy ý thức, năng lực tư duy, bồi dưỡng phương
pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục.
Học để lĩnh hội học vấn là công việc khó khăn, dù là môn học nào cũng
đều là tài sản quý báu của nhân loại. Học thuộc một định luật vật lí có thể đơn
giản nhưng vận dụng định luật đó để giải những bài toán giáo khoa đã có thể
khó khăn hơn và để có kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn lại càng không
đơn giản.
Ở trường THCS, bài tập vật lí thường là những vấn đề không quá phức
tạp, có thể giải được bằng những suy luận đơn giản, bằng tính toán hoặc thực
nghiệm dựa trên nội dung kiến thức đã qui định trong chương trình. Nhưng bài
tập vật lí lại là khâu quan trọng trong quá trình dạy học vật lí, giúp học sinh
củng cố, mở rộng đào sâu kiến thức cơ bản, là phương tiện để phát triển năng
lực tư duy của học sinh có tác dụng giúp học sinh phát triển toàn diện . Trừ một
1
số ít bài toán luyện tập đơn giản để ghi nhớ công thức biểu diễn một định luật
vật lí với yêu cầu đơn giản là thay thế trị số của các đại lượng trong công thức
và tìm trị số của một đại lượng chưa biết, đa số các bài toán phải vận dụng nhiều
định luật vật lí, học sinh luôn cảm thấy khó khăn.
Đối với học sinh THCS, vấn đề giải bài tập gặp không ít khó khăn vì học
sinh thường không nắm vững lí thuyết và thiếu kĩ năng vận dụng kiến thức vật
lí. Vì vậy các em giải bài tập một cách mò mẫm, không có định hướng rõ ràng,
áp dụng công thức máy móc và nhiều khi không giải được bài tập trọn vẹn. Vì
thế hướng dẫn học sinh cách tiếp cận và giải quyết một bài tập vật lí là điều vô
cùng cần thiết. Từ những lí do trên, tôi nhận thấy việc rèn cho học sinh kỹ năng
giải bài tập là hết sức cần thiết. Vì vậy tôi chọn và rút ra một vài kinh nghiệm
hướng dẫn hs giải bài tập về mạch điện lớp 9.
2. Phạm vi đề tài :
Đề tài này chỉ nêu một số kinh nghiệm trong hướng dẫn học sinh giải
bài tập mạch điện (chương I ) ở lớp 9.
II. Nội dung đề tài :
1. Thực trạng của đề tài:
Thực tế giảng dạy ở trường phổ thông cho thấy học sinh thường giải bài
tập một cách máy móc, không có phương pháp nên dễ lúng túng khi gặp bài
toán khác với các bài đã giải. Mặt khác, trong quá trình giải bài tập, không
phải mọi học sinh đều có ý thức vận dụng phương pháp chung để giải lại
càng ít quan tâm đến việc vận dụng phối hợp chúng, dẫn đến việc tìm đáp số
bài toán đã lấn áp mục đích quan trọng hơn là hiểu và vận dụng được kiến
thức đã học. Điều này ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh.
Khảo sát chất lượng bộ môn đầu năm như sau :
- Đối tượng khảo sát : lớp 9a4,9a5
- Nội dung khảo sát : bài tập về mạch điện nối tiếp
- Số hs làm được câu a ( đơn giản ) : 40hs, tỉ lệ 57,1%
2
- Số hs làm được câu b ( vận dụng thấp ) :10hs, tỉ lệ 14,2%
- Số hs làm được câu c ( nâng cao ) : 5hs, tỉ lệ 7,1%
- Số hs không làm được gì : 15hs, tỉ lệ 21,4%
Qua khảo sát tình hình dạy học môn Vật lí trong tổ bộ môn, đa số giáo
viên đều cho rằng : không có đủ thời gian cho việc rèn kỹ năng giải bài tập
cho học sinh nên phần lớn học sinh chưa nắm được phương pháp giải bài tập,
chưa có kỹ năng giải bài tập định lượng . Nguyên nhân do :
- Học sinh chưa xác định được mục đích của việc giải bài tập là để củng cố
kiến thức đã học nên phải từ điều kiện của bài toán, xem xét các hiện
tượng vật lí trong bài để nắm bản chất vật lí và xác định mối liên hệ giữa
cái đã cho và cái cần tìm.
- Một mặt do tâm lý học sinh khi đứng trước một bài toán vật lí thường chú
ý ưu tiên đến việc tìm ra lời giải đúng của bài toán mà chưa hiểu rằng giải
toán là một quá trình tiếp cận vấn đề được tổ chức để thực hiện việc thu
thập và xử lý thông tin theo từng giai đoạn. Giải bài tập muốn đạt kết quả
chắc chắn phải là một hành động được tổ chức một cách có kế hoạch chặt
chẽ và có hiệu quả nhằm đạt một mục đích xác định .
- Học sinh không có thói quen và kỹ năng phân tích thông tin được cung
cấp trong bài toán mà thường hấp tấp lao vào việc giải toán ngay sau khi
vừa đọc lướt qua đề bài và tưởng lầm là mình đã hiểu rõ nó .
- Giáo viên thường luyện giải bài tập cho học sinh theo kiểu, loại rồi cho
học sinh ghi nhớ cách giải các kiểu, loại bài tập đó để ứng phó các kì thi
nên khi gặp bài tập khác với loại đã giải thì học sinh trung bình- yếu
thường lúng túng và hiếm khi tìm ra cách giải đúng. Giáo viên chưa quan
tâm đúng mức đến việc rèn cho hs kỹ năng phân tích đề, xây dựng kế
hoạch giải bài tập, dễ dàng bỏ qua các lỗi ở hs như không tóm tắt đề, trình
bày bài giải không khoa học, chưa có biện pháp khuyến khích hs phân
tích đề, lập kế hoạch giải chu đáo rồi mới bắt tay vào giải bài tập.
3
Qua nhiều năm dạy lớp 9, đúc kết kinh nghiệm của bản thân cùng với việc
tham khảo tài liệu và tích lũy kinh nghiệm qua các tiết dự giờ đồng nghiệp,
tôi rút ra được một số kinh nghiệm giúp hs giải bài tập về mạch điện lớp 9.
2. Các giải pháp và kết quả:
2.1/ Cơ sở lí luận :
Bài tập vật lí giúp học sinh hiểu, khắc sâu thêm phần lý thuyết, giúp học
sinh biết vận dụng kiến thức để giải quyết các nhiệm vụ học tập và các vấn
đề thực tế của cuộc sống, là thước đo mức độ hiểu biết và kỹ năng của mỗi
học sinh.
Để làm được bài tập vật lí, học sinh phải biết vận dụng các thao tác tư duy,
so sánh phân tích tổng hợp khái quát hoá…để xác định bản chất vật lí, từ đó
chọn các công thức thích hợp cho từng bài tập cụ thể. Vì thế bài tập vật lí là
phương tiện tốt để phát triển tư duy, óc sáng tạo, tính tự lực trong suy luận.
Khi làm bài tập, học sinh bắt buộc phải nhớ lại kiến thức đã học, vận dụng,
đào sâu kiến thức, do đó về mặt điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh
thì đây là phương tiện tự kiểm tra kiến thức kỹ năng của học sinh. Trong việc
giải bài tập nếu học sinh tự giác, say mê tìm tòi thì nó có tác dụng rèn luyện
cho học sinh những đức tính tốt như tinh thần tự lập, vượt khó, tính cẩn thận,
tính kiên trì và đặc biệt là tạo niềm vui trí tuệ trong học tập.
Trong chương trình vật lí phổ thông, các bài toán định lượng thường chiếm
tỉ trọng lớn so với các bài toán định tính. Số lượng quá nhiều các bài tập định
lượng ở các lớp cuối cấp là một trong các nguyên nhân khiến học sinh lúng
túng khi đứng trước một bài toán vật lí bất kì gặp trong các kì thi . Vì thế
giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phương pháp học cho việc giải các bài
toán vật lí, giúp học sinh thoát khỏi lúng túng, khó khăn trong việc vận dụng
các khái niệm, định luật vật lí đã học vào việc giải toán vật lí.
Bài tập Vật lí là hình thức củng cố, ôn tập kiến thức, mở rộng hoặc đi sâu
vào các trường hợp riêng lẻ của định luật mà nhiều khi nếu nhắc lại nhiều lần
ở phần lí thuyết có thể làm học sinh nhàm chán. Khi làm bài tập học sinh
4
phải nhớ lại kiến thức đã học và vận dụng đào sâu kiến thức nên làm bài tập
chính là phương tiện hữu hiệu để tự kiểm tra kiến thức, kĩ năng của học sinh.
2.2/ Các biện pháp thực hiện :
Biện pháp 1:
Xây dựng hứng thú học tập bộ môn cho hs ngay từ các giờ học lí thuyết,
qua việc tổ chức, hướng dẫn để hs được tự tay làm các thí nghiệm kiểm
chứng, giúp hs có niềm tin với kiến thức được truyền đạt.
Khắc sâu cho hs ghi nhớ kí hiệu và đơn vị của từng đại lượng vật lí.
Cung cấp đầy đủ kiến thức cơ bản cho học sinh.
Xây dựng và bồi dưỡng kĩ năng giải bài tập cho học sinh.
Soạn hệ thống bài tập phù hợp cho nhiều đối tượng học sinh sau mỗi đơn
vị bài học.
Biện pháp 2: Rèn cho học sinh cách tiếp cận bài toán theo các bước
sau
1. Tóm tắt các dữ kiện :
- Đọc kĩ đề, tìm hiểu ý nghĩa các thuật ngữ vật lí.
- Dùng kí hiệu tóm tắt đề bài cho gì? Hỏi gì? Dùng hình vẽ minh họa nếu
cần.
2. Phân tích nội dung bài toán :
- Phân tích mạch điện, xác định tính chất từng đoạn mạch nhỏ trong toàn bộ
mạch điện.
- Xác định mối liên hệ của các dữ kiện có liên quan tới công thức nào và
với đại lượng cần tìm.
- Xác định phương hướng và kế hoạch giải.
3. Chọn công thức thích hợp .Viết các biểu thức có liên quan .
4. Chọn cách giải phù hợp .
5. Kiểm tra và xác nhận kết quả.
5
Hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giải bài tập vật lí theo sơ đồ sau :
Biện pháp 3 :Hướng dẫn học sinh kết hợp phân tích mạch điện với lập
sơ đồ phân tích để xác định cách giải, bắt đầu từ xác định đại lượng cần tìm,
xác định công thức tính. Trong đó : đại lượng nào đã cho, đại lượng nào
chưa biết, tìm đại lượng đó như thế nào,… Cứ thế phân tích dần cho đến khi
tất cả các đại lượng trong công thức vừa ghi đều đã biết. Khi đó sẽ trình bày
bài giải theo hướng ngược lại với sơ đồ đã phân tích.
Ví dụ 1: Giữa 2 điểm AB của mạch có U=6V, mắc R
1
=10
Ω
nối tiếp R
2
a. Hiệu điện thế 2 đầu R
2
đo được 4V. tính R
2
.
b. Mắc thêm R
3
//R
2
thì hiệu điện thế 2 đầu R
1
đo được 3V. Tính R
3
Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề:
U=6V
R
1
nt R
2
, R
1
=10
Ω
a. U
1
=4V. R
2
?
b. Thêm R
3
//R
2
. U
1
’=3V, R
3
?
6
Dữ kiện
Bài tập Vật lí
Kiểm tra – Đánh giá
Cách giải
Bản chất Vật lí
Chọn công thức
Kế hoạch giải
Hỏi gì?
Cho gì?
Vẽ hình
Kế hoạch giải
a. Vẽ sơ đồ mạch điện, xác định tính chất đoạn mạch, lập sơ đồ phân tích
Lập sơ đồ phân tích :
U
2
= U – U
1
R
2
=
2
2
I
U
I
2
= I
1
=
1
1
R
U
b. Vẽ lại sơ đồ mạch điện, xác định tính chất từng đoạn mạch và lập
sơ đồ phân tích
R
3
3
1
R
=
23
1
R
-
2
1
R
R
23
=R
tđ
– R
1
R
tđ
=
I
U
I = I
1
=
1
'
R
U
Ví dụ 2 : Một bóng đèn khi sáng bình thường có điện trở R
1
=7,5
Ω
,
cường độ dòng điện qua nó khi đó là I=0,6A , Đèn mắc nối tiếp với
7
R
1
R
2
R
1
R
2
R
3
biến trở vào hiệu điện thế U= 12V. Phải điều chỉnh con chạy C để biến
trở có điện trở R
2
= ? để đèn sáng bình thường .
Hướng dẫn HS vẽ sơ đồ mạch điện và lập sơ đồ phân tích :
R
2
=R
tđ
– R
1
R
tđ
=
I
U
I = Iđm ( do đèn sáng bình thường )
Ví dụ 3 :Đèn ( 6V-2,4W ) mắc nối tiếp với 1 biến trở con chạy vào
hiệu điện thế không đổi U= 12V.
a/ Khi điện trở của biến trở R
x
= 25
Ω
, hãy tính công suất tiêu thụ của
đèn
b/ Muốn đèn sáng bình thường phải điều chỉnh con chạy sao cho R
’
x
= ?
Hướng dẫn HS vẽ sơ đồ mạch điện và lập sơ đồ phân tích :
a/ Pđ
=R
đ
.I
2
I =
Rtd
U
R
tđ
= R
x
+ R
d
R
đ
= U
2
dm
/ P
dm
8
b/ R
x
’
=R
tđ
– Rđ
R
tđ
=
I
U
I
’
= Iđ ( mạch nối tiếp )
Iđ = Iđm ( đèn sáng bình thường )
Ví dụ 4 ( dành cho hs khá giỏi )
Cho mạch điện như hình 1, biết R
1
= 2
Ω
, R
2
= 4
Ω
, R
3
= 6
Ω
, R
4
= 12
Ω
. Hiệu điện
thế đặt vào 2 đầu đoạn mạch là U= 6V không đổi.
a/ K
1
đóng, K
2
ngắt, tính cường độ dòng điện qua R
1
b/ K
1
, K
2
đều đóng, tính cường độ dòng điện qua các điện trở.
Hướng dẫn hs phân tích mạch điện trong từng trường hợp và lập kế hoạch giải
a/ Dòng điện qua R
1
, khóa K
1
và R
4
I
4
= I
1
=I=
Rtd
U
R
tđ
= R
1
+ R
4
b/ Chập các điểm M với N; P với Q, vẽ lại sơ đồ mạch điện, xác định
tính chất mạch điện , lúc này R
1
nối tiếp với đoạn mạch gồm
( R
2
//R
3
//R
4
)
(Hình 2 )
9
R1
K1
K2
M
P
•
N
Q B
A
R1
M
N
R2
R3
Q
R4
A
P
B
Hình 1
Hình 2
Lập sơ đồ phân tích :
I
2,3,4
= I
1
=I=
Rtd
U
R
tđ
= R
1
+ R
2,3,4
234
1
R
=
432
111
RRR
++
I
2
=
2
2
R
U
; I
3
=
3
3
R
U
; I
4
=
4
4
R
U
U
2
=U
3
=U
4
= I*R
2,3,4
Với cách phân tích mạch điện và lập sơ đồ phân tích như trên, học sinh trung
bình có thể bắt đầu từ đại lượng cần tìm, viết công thức cần tính, xem xét đại
lượng nào trong công thức đó chưa có, tiếp tục tìm cho đến khi tất cả các đại
10
R2 R3 R4
R1
lượng trong công thức vừa ghi đều có đủ, nghĩa là đã đi đến sử dụng hết các dữ
kiện đề cho.
Làm như thế, học sinh sẽ xây dựng được cho mình trình tự giải bài tập và
có kế hoạch giải cụ thể, ít sai sót. Học sinh trung bình, yếu vẫn có thể tìm ra lời
giải cho bài toán bằng cách phân tích như trên sau khi đã học thuộc các công
thức cần thiết.
Với cách hướng dẫn học sinh lập sơ đồ phân tích khi giải bài tập, giáo
viên đã giúp học sinh giỏi có thể vận dụng giải các bài tập nâng cao, học sinh
trung bình yếu có thể giải được các bài tập cơ bản, đa số học sinh được rèn
luyện và tìm thấy hứng thú trong việc giải bài tập cũng như học tập bộ môn .
Điều này giúp các em làm bài đạt kết quả cao hơn.
Trong chương trình vật lí 9, những bài toán về mạch điện 1 chiều tuy
không quá phức tạp nhưng các em sẽ còn được mở rộng khi học ở các lớp trên
nên giáo viên rất cần tập cho học sinh - nhất là học sinh khá giỏi việc định
hướng sự suy nghĩ một cách khoa học trước các bài toán thuộc dạng này. Có thể
làm như sau :
Vẽ lại sơ đồ mạch điện, xác định rõ đại lượng chưa biết và đã biết, với các
cường độ dòng điện trong mạch rẽ, tốt nhất là biểu đạt mối liên hệ với cường độ
dòng điện trong mạch chính. Một số bài toán khó về mạch điện (dành cho học
sinh giỏi) cần hướng dẫn học sinh vẽ lại từng bước sơ đồ mạch điện để đưa dần
về trường hợp đơn giản, chẳng hạn như thay những điểm có cùng hiệu điện thế
bằng một điểm hoặc căn cứ tính đối xứng của mạch điện mà kết luận về các
cường độ dòng điện bằng nhau và do đó vẽ các mạch tách rời nhau .
Công thức biểu diễn định luật Ôm cho đoạn mạch là công thức cơ bản
dùng để giải bài tập loại này, trong một số trường hợp, viết riêng định luật Ôm
cho từng đoạn mạch có thể giúp giải bài tập dễ dàng hơn.
Với bài tập về công và công suất điện, trong chương trình vật lí 9 thường
chỉ khảo sát trong trường hợp dòng điện 1 chiều mà ở đó điện năng chuyển hoá
hoàn toàn thành nhiệt năng trong mạch có điện trở thuần nên giáo viên cần
11
hướng dẫn hs vẽ lại sơ đồ mạch điện rõ ràng, sáng sủa để có thể xác định các đại
lượng hiệu điện thế, cường độ dòng điện, điện trở mạch, điều này hết sức cần
thiết vì bài tập này là sự tiếp nối loại bài tập về mạch điện.
Với mạch điện có biến trở, GV cần hướng dẫn HS rút ra cho mình những
điểm phổ biến như : R
tđ
= R
tải
+ R
x
( R
x
là điện trở biến trở tham gia vào mạch ).
Khi con chạy C trùng với vị trí mà tại đó R
x
=0 thì R
tđ
= R
tải
và khi đó I đạt giá trị
lớn nhất ( U mạch không đổi ). Khi con chạy C trùng với vị trí mà toàn bộ điện
trở biến trở tham gia vào mạch thì I đạt giá trị nhỏ nhất ( U không đổi ).Khi biến
trở là một điện trở biến đổi thì phải vẽ lại mạch điện để bài toán đơn giản, đưa
bài toán về dạng giải bằng cách lập phương trình bậc nhất hoặc bậc hai một ẩn
số.
Bên cạnh việc rèn kỹ năng tiếp cận bài tập vật lí thì việc hướng dẫn học
sinh học tập vật lí ở nhà cũng không kém phần quan trọng, nếu việc học ở nhà
được tiến hành tốt sẽ giúp các em thói quen làm việc tự lực, nắm vững tri thức,
củng cố kỹ năng giải bài tập. Việc học tập ở nhà của học sinh phụ thuộc phần
lớn vào việc dạy học của giáo viên trên lớp, vì thế GV cần căn cứ vào trình độ
tiếp thu của HS mà giao cho các em các công việc phù hợp có tính chất bổ sung
như : nghiên cứu sách giáo khoa, vẽ hình, tìm hiểu đề bài, giải bài tập đơn
giản…Chính việc giao bài tập một cách có hệ thống tạo cho HS thói quen học
tập tốt sẽ giúp các em tự lực giải quyết các bài tập đơn giản, nắm được công
thức cơ bản cũng như có các kỹ năng giải bài tập, có sự chuẩn bị tốt để tiếp thu
kiến thức mới. Vì thế ngoài những bài tập củng cố kiến thức, luyện tập, GV cần
giao cho HS những bài tập mang tính chuẩn bị cho việc tiếp thu tri thức mới. Ta
có thể giao bài tập cho HS bằng nhiều hình thức như :
-Giao bài tập trong thời gian truy bài đầu giờ.
-Giao bài tập sau mỗi tiết học.
-Giao bài tập theo hệ thống bài tập trong sách giáo khoa, sách bài tập
-Giao bài tập theo dạng, theo chuyên đề.
12
- Giao bài tập vận dụng kiến thức trong bài học để giải quyết 1 vấn đề từ
thực tiễn cuộc sống…
Bên cạnh đó, GV cần có biện pháp kiểm tra, động viên khuyến khích kịp thời và
phù hợp như :
- Kiểm tra vở ghi, vở bài tập.
- Cho điểm khuyến khích những HS có nhiều cố gắng hoặc chuyển biến
trong học tập
- Khuyến khích học sinh tìm cách giải có tính sáng tạo.
3. Kết quả ban đầu :
Kết quả cụ thể xếp loại học lực môn lí 9 HKI năm 2014-2015 như sau:
Không còn
học sinh xếp loại kém bộ môn và trong 5 năm gần đây, mỗi năm đều có học
sinh giỏi bộ môn khi tham gia các kì thi học sinh giỏi cấp huyện và thành phố
( 3-6 HS giỏi cấp Huyện và 1 HS giỏi cấp Thành phố ) , năm 2014 – 2015 có
3 học sinh giỏi cấp huyện và 1 học sinh giỏi cấp thành phố.
III. Kết luận :
Dạy học góp phần quan trọng để hình thành nhân cách con người lao động
mới, sáng tạo, thích nghi với sự phát triển của xã hội. Do đó phương pháp dạy
học bộ môn phải giúp HS nắm vững tri thức, có kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn và biết giải quyết các vấn đề đơn giản xuất phát từ thực tiễn cuộc sống.
Qua nhiều năm giảng dạy lớp 9, bản thân tôi nhận thấy giáo viên bộ môn có
vai trò rất quan trọng trong việc hướng dẫn học sinh cách tiếp cận và giải bài tập
về mạch điện nói riêng và bài tập vật lí nói chung.
Để học sinh làm được bài tập về mạch điện, giáo viên bộ môn cần :
- Nắm chắc các đối tượng học sinh của lớp mình phụ trách.
- Cung cấp đầy đủ kiến thức cơ bản đặc biệt và giúp học sinh thấy được sự
cần thiết phải giải được bài tập.
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
23(27.38%) 40(47.61%) 17(20.23%) 4(4.76%)
13
- Xây dựng cho hs thói quen phân tích đề bài, vẽ sơ đồ mạch điện cho từng
câu, biết cách phân tích mạch điện, xác định đúng tính chất từng đoạn
mạch trong cả mạch điện.
- Sau khi cung cấp các kiến thức cơ bản, giáo viên nên cho học sinh áp
dụng với những bài toán chỉ có 2 điện trở , tính toán đơn giản và dùng
đúng đơn vị để hiểu rõ tính chất mạch điện.
- Nâng dần lên và dẫn dắt các em vào những tình huống mới để thấy rằng
phải phân tích kĩ đề bài, vẽ lại mạch điện tương đương, xác định và biến
đổi công thức qua một số bước phụ mới đến được đáp số một cách chính
xác, tức là phải lập sơ đồ phân tích và đây là quá trình quan trọng quyết
định học sinh có tìm ra đáp án cho bài toán hay không .
- Giáo viên phải rất kiên nhẫn trong thời gian đầu và áp dụng cách làm này
thường xuyên để mang lại hiệu quả.
- Trong quá trình dạy học, trước tiên GV cần tập trung vào các hoạt động
học tập giúp HS đạt chuẩn kiến thức và kỹ năng tối thiểu song song với
việc rèn cho HS kỹ năng tự học, kỹ năng vận dụng kiến thức vào việc giải
bài tập . Đây là cơ sở để đánh giá kết quả học tập của HS và hiệu quả
giảng dạy của GV.
- Trong việc giải bài tập, nếu GV khơi gợi được ở HS tính tự giác, say mê
tìm tòi thì sẽ có tác dụng rèn cho HS những đức tính tốt như tự lập, vượt
khó, tính cẩn thận, tính kiên trì và đặc biệt tạo ra niềm vui,hứng thú trong
học tập.
- Khắc sâu cho HS nắm chắc các kiến thức bổ trợ khác đặc biệt là các biến
đổi toán học, bồi dưỡng cho HS tư duy giải bài tập về mạch điện nói riêng
và Điện học nói chung, giúp HS cuối cấp làm tiền đề bước vào cấp học
mới thuận lợi hơn.
Mặc dù phạm vi áp dụng của đề tài chỉ giới hạn ở bài tập về mạch điện lớp 9
và các giải pháp đã nêu chưa phải là tối ưu nhất, tuy nhiên các giải pháp nêu
trên có thể áp dụng trong việc hướng dẫn học sinh giải bài tập điện, quang và
14
với nhiều đối tượng học sinh khác nhau. Khi giáo viên vận dụng có hiệu quả vào
giảng dạy thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng bộ môn cùng với tay nghề của
giáo viên.
Theo tôi, để cải tiến phương pháp dạy học có hiệu quả, GV cần nghiên cứu lý
luận, điều tra tình hình thực tiễn đơn vị từ đó có những biện pháp phù hợp nhằm
tạo hứng thú học tập bộ môn cho HS, giúp HS có được phương pháp giải bài tập
về mạch điện nói riêng và bài tập định lượng nói chung, giúp các em tự tin và
hứng thú khi học môn Vật lí .
Phước Thạnh, ngày 15 tháng 11 năm 2014
Người viết
Lê Ngọc Dung
15