Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

học sinh lớp 2 thông qua phân môn tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.28 KB, 11 trang )

Phát triển kỹ năng hội thoại cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn
tập làm văn
PGS.TS. Chu Thị Thuỷ An
1.“Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thường xuyên và phổ
biến nhất của sự hành chức ngôn ngữ.” Trong đời sống giao tiếp
hàng ngày, hội thoại là kỹ năng cần thiết nhất, được sử dụng nhiều
nhất. Vì vậy, dạy kỹ năng hội thoại cho HS tiểu học nói chung và HS
lớp 2 nói riêng là việc làm có ý nghĩa quan trọng, giúp HS nâng cao
năng lực sử dụng ngôn ngữ trong học tập và giao tiếp.
Phát triển kỹ năng hội thoại cho HS tiểu học chính là việc dạy cho
các em biết sử dụng linh hoạt các nghi thức lời nói vào các cuộc hội
thoại cụ thể một cách phù hợp; giúp HS luyện tập cách đối thoại có
văn hoá. Phát triển kỹ năng hội thoại cho HS tiểu học là phát triển
đồng thời hai kỹ năng nói, nghe, luyện tập cả kỹ năng trao lời và đáp
lời trong các cuộc thoại gắn với đời sống học tập, sinh hoạt hàng
ngày.
2. Những ưu điểm về nội dung và cách thức rèn luyện kỹ năng
hội thoại cho HS của phân môn Tập làm văn lớp 2
2.1.Việc rèn luyện kỹ năng hội thoại cho HS tiểu học thực chất đã
được quan tâm từ lớp 1, thông qua phần luyện nói theo chủ đề của
các bài Học vần(ở học kỳ 1) và Tập đọc (ở học kỳ 2). Tuy nhiên, lên
đến lớp 2, thông qua giờ Tập làm văn, hội thoại mới trở thành một kỹ
năng trọng tâm của chương trình Tiếng Việt.
Phân môn Tập làm văn lớp 2, rèn luyện kỹ năng hội thoại cho
HS bằng hệ thống bài tập luyện nói có nội dung cốt lõi là các nghi
thức lời nói tiếng Việt. Có thể hệ thống hoá nội dung dạy học hội
thoại ở Tập làm văn lớp 2 như sau:


Tự giới thiệu, Chào hỏi, tự giới thiệu, Cảm ơn, xin lỗi, Khẳng
định, phủ định, Mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị, Chia buồn, an ủi, Gọi


điện, Chia vui, Khen ngợi, Ngạc nhiên, thích thú (học kỳ 1).
Đáp lời chào, lời tự giới thiệu, Đáp lời cảm ơn, Đáp lời xin lỗi,
Đáp lời khẳng định, Đáp lời phủ định, Đáp lời đồng ý, Đáp lời chia
vui, Đáp lời khen ngợi, Đáp lời từ chối,Đáp lời chia buồn, an ủi (học
kỳ 2).
Các nghi thức lời nói được dạy trong chương trình Tập làm văn
lớp 2 chủ yếu thuộc nhóm biểu lộ và nhóm cầu khiến. Đây là hai
nhóm nghi thức ngôn ngữ cần phát triển từ tuổi nhỏ, phù hợp với khả
năng phát triển ngôn ngữ của HS lứa tuổi 7-8 tuổi.
2.2. Nội dung dạy học hội thoại nêu trên được tích hợp trong
các bài tập tình huống giao tiếp chân thực, sinh động, gần gũi với đời
sống giao tiếp hằng ngày của HS, với mục đích là HS rèn luyện kỹ
năng hội thoại tự nhiên, hiệu quả. Các bài tập tình huống giao tiếp
thường được giả định một số nhân tố giao tiếp: hoàn cảnh giao tiếp,
nhân vật giao tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp… Tính
phong phú, đa dạng của bài tập là do sự phong phú về tình huống,
nội dung và vai giao tiếp tạo nên. Những tình huống giao tiếp và nội
dung giao tiếp được giả định trong bài tập rất sinh động, gần gũi với
thực tế giao tiếp hàng ngày của HS lớp 2.
Chẳng hạn, Em sẽ nói gì trong những trường hợp nêu dưới
đây?
a.

Bạn hướng dẫn em gấp cái thuyền giấy.

b.

Em làm rơi cái bút của bạn.

c.


Em mượn sách của bạn và không trả đúng hẹn.

d.

Khách đến chơi nhà, biết em học tốt, chúc mừng em.


(Tiếng Việt 2, tập 1, tr.36)
Bài tập tình huống giao tiếp đã kích thích được hứng thú, nhu
cầu giao tiếp, tích cực hoá được hoạt động giao tiếp của HS. HS lớp
2 tham gia vào các tình huống hội thoại một cách chủ động, tự nhiên,
mạnh dạn, hào hứng. Những nhân tố giả định của bài tập đã giúp HS
trở thành các nhân vật giao tiếp thực sự.
Ứng với mỗi nghi thức lời nói HS luyện tập hội thoại với các vai giao
tiếp khác nhau: vai ngang, vai trên, vai dưới. HS được rèn luyện việc
sử dụng từ xưng hô, cách diễn đạt, các tình thái từ phù hợp với từng
vai. Điều này đã thể hiện tính cụ thể, thực tế, sinh động của chương
trình.
Chẳng hạn, Nói lời cảm ơn của em trong những trường hợp sau:
a.

Bạn cùng lớp cho em đi chung áo mưa (vai ngang).

b.

Cô giáo cho em mượn cuốn sách (vai dưới – vai trên).

c.


Em bé nhặt hộ em chiếc bút rơi (vai trên – vai dưới).

(Tiếng Việt 2, tập 1, tr.38)
2.3. Mặt khác, thông qua việc dạy kỹ năng hội thoại, chương trình
còn chú ý rèn luyện cho HS khả năng ứng xử tế nhị, khéo léo, phù
hợp với văn hoá giao tiếp Việt Nam bằng việc tạo ra nhưng tình
huống giao tiếp "có vấn đề". Chẳng hạn như tình huống sau:
Có một người lạ đến nhà em, gõ cửa và tự giới thiệu: " Chú là bạn
của bố mẹ cháu, chú đến thăm bố mẹ cháu". Em sẽ nói thế nào:
a) Nếu bố mẹ em có nhà.
b) Nếu bố mẹ em đi vắng.
(Tiếng Việt 2, tập 2, tr.12)
Với những bài tập cụ thể này, GV có thể giáo dục cho HS những
cách ứng xử rất thực tế, vừa đảm bảo văn hoá giao tiếp, vừa phù


hợp với thực tế xã hội hiện nay. Kỹ năng giao tiếp, ứng xử chính là
một trong những “kỹ năng sống” vô cùng quan trọng của HS.
2.4. Thông qua việc dạy kỹ năng nói, kỹ năng nghe cũng được hình
thành và phát triển. Yêu cầu rèn luyện kỹ năng nghe được đặt tường
minh hoặc ngầm ẩn trong hầu hết các bài tập hội thoại ở lớp 2. Bởi
nghe tốt mới hiểu được ý đồ của người nói để đưa ra lời đáp phù
hợp với lời trao.
Chẳng hạn, bài tập Nói lời đáp của em trong mỗi trường hợp sau:
a) Em xin anh cho em đi xem lớp anh đá bóng. Anh nói: " Em ở nhà
làm cho hết bài tập đi"
b) Em sang nhà bạn mượn quả bóng. Bạn bảo:"Mình cũng đang
chuẩn bị đi đá bóng".
c) Em muốn trèo cây hái ổi. Chú em bảo: “Cháu không được trèo.
Ngã đấy"

[Tiếng Việt 2, tập 2, tr 143]
Ở những bài tập như thế này, khi nhập vai, HS phải lắng nghe lời
trao của bạn để đáp lại phù hợp. Nếu lời trao là lời an ủi thì phải tìm
cách đáp lại lời an ủi (Bạn có đau lắm không?/ - Cảm ơn bạn.Mình
không sao?); nếu lời trao là lời từ chối thì phải đáp lại lời từ chối
(Bạn cho mình mượn quyển truyện./-Mình chưa đọc xong./- Không
sao, mình mượn sau vậy).
2.5. Bài tập hội thoại ở Tập làm văn lớp 2 đã coi trọng sự phù hợp
với đặc điểm tâm lý của HS. Sách giáo khoa đã đề cao vai trò của
kênh hình. Các hình ảnh được lựa chọn hàm chứa nội dung bài học,
vừa tạo tình huống giao tiếp vừa tạo được ấn tượng ngộ nghĩnh, phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của HS. Sách giáo khoa có rất
nhiều bài tập gắn liền với tranh vẽ: nói lại lời các nhân vật trong


tranh, đọc lại lời các nhân vật trong tranh, nói tiếp lời các nhân vật
trong tranh, nhắc lại lời các bạn trong tranh...HS cũng nhận biết cách
đáp lời trong các tình huống đa dạng như đáp lời xin lỗi, đáp lời cảm
ơn, đáp lời khẳng định, phủ định, đáp lời an ủi. Đây là lợi thế để GV
tổ chức cho HS rèn các kỹ năng hội thoại một cách sinh động, khêu
gợi hứng thú giao tiếp cho HS.
2.6. Phương pháp rèn luyện kỹ năng hội thoại được coi trọng là trò
chơi đóng vai. Thông qua phương pháp này HS thật sự nhập vai và
thực hiện các nghi thức lời nói một cách hồn nhiên, chân thực vì vậy,
hiệu quả dạy học rất cao. Thực tế cho thấy, HS tiểu học đã ứng dụng
các nghi thức được học trong nhà trường vào thực tế nói năng một
cách rất tự nhiên, sinh động. Khoảng cách giữa "hội thoại nhà
trường" với "hội thoại trong đời sống" đã được rút ngắn lại.
3. Một số điểm còn hạn chế về nội dung và cách thức rèn luyện
kỹ năng hội thoại của phân môn Tập làm văn lớp 2

3.1.Chương trình Tập làm văn ở lớp 2 và cả lớp 3, 4, 5 dường như
chỉ tập trung vào các nghi thức thuộc nhóm biểu lộ và cầu khiến. Vì
vậy, HS còn lúng túng khi sử dụng các nghi thức thuộc nhóm hứa
hẹn, tuyên bố, xác tín để tác động đến nhận thức của người nghe,
bày tỏ sự quan tâm… nhằm đạt đến các mục đích khác nhau trong
giao tiếp.
3.2.Tình huống giao tiếp xây dựng cho một số hành vi còn đơn điệu,
phạm vi giao tiếp còn hẹp (chỉ giới hạn với bố mẹ, thầy cô và bạn)
làm giảm tính tích cực, tự nhiên của HS khi tham gia bài tập. Nhiều
bài tập dạy các nghi thức cảm ơn, xin lỗi, chào hỏi, chia vui… chưa
xây dựng đủ các vai giao tiếp, gây hiểu nhầm cho HS. HS tưởng


rằng chỉ cầncảm ơn, xin lỗi, chào hỏi, chia vui…với những người
cùng vai hoặc vai trên còn đối với vai dưới thì không cần thiết.
3.3. Các hành vi đáp lời được đưa vào chương trình Tập làm văn lớp
2 thường dạy theo mẫu cho sẵn ở bài tập 1( đọc lại lời nhân vật,
nhắc lại lời nhân vật trong tranh) rồi phân vai thể hiện theo mẫu. Sau
đó, HS vận dụng mẫu để đưa ra lời đáp ở tình huống tương tự ở bài
tập 2, 3. Việc dạy các hành vi đáp lời theo mẫu cho sẵn đã hạn chế
rất nhiều tiềm năng ngôn ngữ mà HS đã thụ đắc được trước khi đến
trường và hạn chế khả năng sáng tạo của HS.
Ví dụ: Đọc đoạn đối thoại sau. Nhắc lại lời của bạn Hà khi được bố
của bạn Dũng đồng ý cho gặp bạn Dũng:
Hà: Cháu chào bác ạ. Cháu xin phép bác cho cháu gặp bạn Dũng!
Bố Dũng: Cháu vào nhà đi. Dũng đang học bài đấy.
Hà: Cháu cảm ơn bác. Cháu xin phép bác.
(Tiếng Việt 2, tập 2, tr. 66)
Với những mẫu giao tiếp cho sẵn như trên, HS thường bắt
chước một cách rất máy móc. Đáp lời cảm ơn thường là: Không có

gì. Đáp lời xin lỗi: Không sao. Đáp lời từ chối:Xin lỗi. Đáp lời chia
vui: Cảm ơn. Như vậy, ảnh hưởng đến tính sinh động, uyển chuyển
trong giao tiếp bằng hội thoại của HS.
Bởi vì, trong thực tế giao tiếp, không phải khi nào người ta
cũng dùng các hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Có khi cần yêu cầu, người
ta lại dùng câu hỏi, cần nhờ vả người ta lại cảm thán. Người đối thoại
phải nhanh ý, nhạy cảm mới nắm bắt được những lời đáp hay những
lời trao kín đáo, tế nhị như vậy.
3.4. Lời nói của người trao chỉ trở thành hội thoại khi được
người nghe đáp lời. Cặp lưỡng thoại tối thiểu là cặp trao đáp. Dạy


hội thoại không theo qui luật trao – đáp thì sẽ ảnh hưởng nhiều đến
hiệu quả hình thành và phát triển kỹ năng hội thoại cho HS. Đây cũng
là một điểm hạn chế của chương trình Tập làm văn lớp 2. Học kỳ 1,
HS được rèn luyện kỹ năng trao lời với các hành vi cụ thể. Và đến
học kỳ 2, HS mới học cách đáp lại các hành vi đó. Việc xé lẻ các cặp
thoại đã làm mất nhiều thời gian dạy học, hiệu quả không cao.
4. Một số tồn tại trong thực tế rèn luyện kỹ năng hội thoại cho
HS lớp 2 ở các trường tiểu học
"Quan sát" thực tế dạy học hội thoại tiếng Việt ở các trường tiểu học
hiện nay, chúng tôi thấy còn một số tồn tại như sau:
4.1. Hội thoại là kỹ năng, nghi thức lời nói là nền tảng nội dung để
rèn luyện kỹ năng, đó chính là mục tiêu của chương trình, SGK. Tuy
nhiên, phần lớn GV chưa nắm vững mục tiêu này. Sau mỗi bài tập
hội thoại, HS chỉ mới được nhận xét, uốn nắn về kỹ năng diễn đạt lời
nói (trao, đáp có rõ ràng, trôi chảy không, có đủ to để mọi người nghe
rõ không...). Lẽ ra ở mỗi bài tập, GV phải xác định rõ hành vi nói
năng cần hình thành cho HS là gì, để thực hiện hành vi này cần đảm
bảo những nghi thức nào, điều kiện nào. Sau đó là xem xét sự phù

hợp giữa lời trao, lời đáp của HS với các nhân tố hoàn cảnh giao
tiếp, mục đích giao tiếp, vai giao tiếp, nội dung giao tiếp mà bài tập
đã cho. Trong thực tế, chỉ có khoảng 21% GV tiến hành thao tác này.
4.2. GV tiểu học vẫn còn rất bỡ ngỡ với việc tổ chức các hoạt động
nói năng cho HS , chưa biết cách kích thích hứng thú, giúp HS tham
gia giao tiếp tự nhiên, tránh gò bó, khiên cưỡng. Nhiều GV chỉ dừng
lại giúp HS hoàn thành nội dung bài tập trong Vở bài tập tiếng Việt,
chưa gắn được việc học các nghi thức lời nói trong chương trình với


các cuộc hội thoại ngày thường để tạo cho HS thói quen giao tiếp có
văn hoá.
Việc rèn luỵên kỹ năng sử dụng các yếu tố phù trợ như điệu bộ, nét
mặt, cử chỉ, ánh mắt... trong giao tiếp hầu như chưa được quan tâm.
Chẳng hạn, khi nói lời chia vuithì nét mặt, ánh mắt phải khác gì với
khi nói lời chia buồn, an ủi; hay khi nói lời cảm ơnthì phải thể
hiện thái độ biết ơn, khi xin lỗi thì phải tỏ thái độ ăn năn, hối lỗi...Khi
HS đóng vai thể hiện các nghi thức theo yêu cầu, chưa có GV nào
lưu ý đến vấn đề này.
4.3.Nội dung rèn luyện kỹ năng hội thoại, như đã nói ở trên, được
thiết kế thành hệ thống các bài tập tình huống.Vì vậy, GV phải phân
dạng, phải nắm được mục tiêu, đặc điểm của từng dạng bài tập để
có phương pháp dạy học phù hợp. Tuy nhiên, qua điều tra, 96% GV
chưa chú ý đến vấn đề này. Tất cả các dạng bài tập đều được tiến
hành bằng phương pháp đóng vai và hỏi đáp. Tất cả các bài tập đều
được thực hiện theo một qui trình: HS nêu yêu cầu của bài tập - các
nhóm thảo luận phân vai - thể hiện trước lớp - cả lớp nhận xét bổ
sung - GV kết luận. Mỗi bài tập chỉ có khoảng 4- 6 HS được tham gia
thể hiện, tất cả HS chỉ đóng vai trò "giám khảo" để nhận xét, đánh
giá. Cách làm này đã hạn chế khả năng tham gia hội thoại của một

số đông HS, ảnh hưởng đến kết quả rèn luyện kỹ năng hội thoại.
4.4. Vì còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng, tất cả GV chỉ mới cố gắng hoàn
thành các tình huống mà SGK đưa ra, chưa có GV nào mạnh dạn
sáng tạo các bài tập mới, các tình huống giao tiếp mới để sinh động,
phong phú hoá hoạt động rèn luyện các nghi thức giao tiếp và kỹ
năng hội thoại cho HS.


4.5.Thực tế cũng cho thấy, chương trình được xây dựng theo quan
điểm tích hợp nhưng rất ít GV biết khai thác những nội dung có liên
quan của các phân môn như Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và
câu để dạy hội thoại cho HS. Thực ra, Tập đọc và Kể chuyệnlà hai
phân môn có rất nhiều tình huống để cho HS thực hành thể hiện các
nghi thức lời nói đã học; phân môn Luyện từ và câu có thể cung cấp
nhiều kiến bổ trợ về phương tiện hình thức khi thực hiện các nghi
thức cũng như các nguyên tắc đảm bảo tính lịch sự trong giao tiếp
cho HS.
4.6. Dạy hội thoại chính là dạy HS biết giao tiếp phù hợp với văn hoá
Việt Nam, biết giao tiếp lịch sự, tế nhị, đạt hiệu quả cao. GV tiểu học
thực sự chưa quan tâm đến vấn đề này. Vì vậy, họ chỉ chú trọng việc
HS đưa ra các lời trao, lời đáp có đúng với các tình huống của bài
tập hay không. Khi đánh giá việc thực hiện bài tập của HS học cũng
chỉ tiến hành một cách chung chung, chưa có tiêu chí cụ thể. Lẽ ra,
các tiêu chí mục đích, nội dung, hoàn cảnh, vai giao tiếp phải được
GV phân tích kỹ khi giúp HS tìm hiểu đề bài và lấy làm cơ sở đánh
giá mức độ đúng, hay, lịch sự trong việc thể hiện lời nói của HS.
5. Một số ý kiến đề xuất về nội dung và cách thức rèn luyện kỹ
năng hội thoại cho HS lớp 2 qua phân môn Tập làm văn
5.1. Về mặt nội dung dạy học hội thoại nên mở rộng phạm vi của một
số nghi thức: chẳng hạn, chào (chào trong gia đình, chào bạn bè

thân thiết…), giới thiệu (tự giới thiệu, giới thiệu qua người thứ
ba…), hứa hẹn, xin phép, xác nhận, hỏi…; dạy cho học sinh sử dụng
các hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong hội thoại. Hiện tại, kỹ năng hội
thoại chỉ mới được rèn luyện chủ yếu ở lớp 2. Ở các lớp 3, 4, 5, HS
chỉ học thêm một vài nghi thức khác như tổ chức cuộc họp, trao đổi,


tranh luận…Vì vậy, việc bổ sung các hành vi này vào chương trình
của các lớp trên là phù hợp; đảm bảo cho HS củng cố được các kỹ
năng đã được rèn luyện ở lớp 2 -3 và phát triển hơn nữa kỹ năng
thực hiện các nghi thức lời nói.
5.2. Phải tuân thủ qui luật trao – đáp, đảm bảo tính chất của các cặp
kế cận khi dạy hội thoại cho học sinh. Phải rèn luyện kỹ năng trao lời,
đáp lời cho học sinh trong các cặp trao đáp.Chẳng hạn, các cặp:
chào/chào, cảm ơn/ đáp lại lời cảm ơn, xin lỗi/ đáp lại lời xin lỗi, chia
vui/đáp lại lời chia vui, khen/ đáp lại lời khen, hỏi/ trả lời.
Ví dụ: Học sinh có thể đóng vai thực hiện các cặp hành vi trao đáp:
- Chúc mừng sinh nhật bạn!
- Cảm ơn bạn đã chia vui cùng mình.
Việc tuân thủ nguyên tắc hội thoại sẽ giúp cho việc rèn luyện kỹ năng
được tiến hành tự nhiên, có hiệu quả.
5.3. Phải chú ý rèn luyện cho HS kỹ năng thể hiện thái độ, tình cảm
và các yếu tố kèm lời khi hội thoại. Hội thoại là hình thức giao tiếp
trực tiếp. Sắc mặt, cử chỉ, thái độ, ánh mắt, nụ cười và các yếu tố
ngữ điệu đều tham gia trực tiếp vào việc chuyển tải nội dung thông
tin của các lượt lời trao đáp. Vì vậy, cần chú ý rèn luyện cho HS cách
thể hiện thái độ, tình cảm, cử chỉ và ngữ điệu nói phù hợp với mỗi
hành vi lời nói. Chẳng hạn, khi nói lời chúc mừng thì phải vui vẻ,
nhiệt thành; khi xin lỗi thì phải ăn năn, biết lỗi.
5.4.Phải đa dạng hoá hệ thống bài tập dạy học hội thoại. Bài tập hội

thoại phải được xây dựng dựa trên các nhân tố giao tiếp; phải tạo
được môi trường và nhu cầu giao tiếp cho HS; phải kết hợp rèn
luyện nhiều kỹ năng trong hội thoại: kỹ năng nghe, kỹ năng nhận biết
thái độ tình cảm của người đối thoại, kỹ năng đáp lời nhanh, phù


hợp, khéo léo. Vì vậy, hệ thống bài tập phải bao gồm bài tập phát
triển kỹ năng nghe, bài tập phát triển kỹ năng nói. Trong mỗi loại, bao
gồm nhiều dạng nhỏ với mục đích rèn các kỹ năng cụ thể tinh tế,
chữa các lỗi về hội thoại.
5.5. Phải phong phú hoá các phương pháp, cách thức tổ chức thực
hiện bài tập hội thoại. Hiện nay, một số tác giả đang bàn luận về các
xu hướng dạy học hội thoại: dạy học hội thoại theo hướng phân tích
hay dạy học hội thoại theo hướng thực hành. Theo chúng tôi, nên kết
hợp chặt chẽ hai hướng phân tích và thực hành giao tiếp trong khi
rèn kỹ năng hội thoại cho học sinh. Bên cạnh phương pháp đóng vai,
được xem là xương sống của việc dạy học hội thoại hiện nay nên kết
hợp các phương pháp khác như nêu vấn đề, hỏi - đáp, rèn luyện
theo mẫu, giao tiếp.
Tài liệu tham khảo:
1. Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, Ngữ dụng học,
NXB Giáo dục, 2002.
2.Nguyễn Trí, Phan Phương Dung, Dạy học hội thoại cho học sinh
tiểu học, NXB Giáo dục, 2009.
3. Nguyễn Thị Xuân Yến, “ Xây dựng bài tập dạy học hội thoại cho
học sinh đầu bậc tiểu học”, Tạp chí Giáo dục, số 103, 2004.
4. Nguyễn Thị Xuân Yến, “ Qui trình tổ chức thực hành các bài tập
giao tiếp trong dạy học hội thoại cho học sinh tiểu học”, Tạp chí Giáo
dục, số 111, 2005.




×