Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ bán lẻ việt nam giai đoạn 2007 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.48 KB, 26 trang )

Mục lục
Lời mở đầu.........................................................................1
I. Khái quát về dịch vụ phân phối.......................................2
1. Khái niệm về dịch vụ phân phối....................................2
1.1. Khái niệm về dịch vụ...............................................2
1.2. Khái niệm về dịch vụ phân phối...............................2
2. Các lĩnh vực về dịch vụ phân phối.................................3
2.1. Dịch vụ đại lý hoa hồng...........................................3
2.2. Dịch vụ bán buôn....................................................4
2.3. Dịch vụ bán lẻ.........................................................4
2.4. Nhượng quyền thương mại.......................................5
II. Khái quát về dịch vụ bán lẻ............................................7
1. Đặc điểm của dịch vụ bán lẻ.........................................7
2. Vai trò của dịch vụ bán lẻ.............................................8
III. Khái quát về lĩnh vực dịch vụ bán lẻ của Việt Nam...........9
1. Doanh số lĩnh vực bán lẻ tại Việt Nam...........................9
2. Hệ thống bán lẻ tại Việt Nam......................................11
IV. Thực trạng thu hút FDI vào dịch vụ bán lẻ của Việt Nam 12
1. Quy mô vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ.............12
2. Cơ cấu đối tác đầu tư dịch vụ bán lẻ tại Việt Nam........15
3. Cơ cấu lĩnh vực đầu tư................................................18
4. So sánh năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán
lẻ trong nước và các doanh nghiệp FDI............................21
Kết luận...........................................................................23


Lời mở đầu
Suốt những năm đầu thập niên 2000, thị trường bán lẻ Việt Nam có tỷ lệ tăng
trưởng trong tốp cao của thế giới, với tỷ lệ bình quân 25%/ năm. Tỷ lệ này vẫn tiếp tục
ổn định sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Giai đoạn 2007 - 2009, khi kinh tế toàn cầu
rơi vào suy thoái thì tỷ lệ tăng trưởng của thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn duy trì ở


mức 18 – 25%. Những con số này đã biến Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho
các nhà đầu tư nước ngoài.
Cột mốc gia nhập WTO vào năm 2007, cùng một số lộ trình mở cửa cho nhà
đầu tư nước ngoài được cam kết trong Quy định số 10/2007/QĐ-BTM đã mở ra làn
sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ vào lĩnh vực dịch vụ bán lẻ. Từ đó
cho đến nay, chúng ta đã chứng kiến nhiều tên tuổi lớn đến từ nhiều quốc gia gia nhập
thị trường Việt Nam, khiến cuộc đua trong ngành bán lẻ trở nên vô cùng sôi động.
Nhận thức được tầm quan trọng cũng như sức ảnh hưởng sâu rộng của làn sóng
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào dịch vụ bán lẻ của Việt Nam, chúng em đã chọn thực
hiện đề tài “Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực dịch vụ bán lẻ
của Việt Nam giai đoạn 2007 – 2016”.
Trong quá trình thực hiện, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót về nội dung,
số liệu. Nhóm tác giả rất mong nhận được thêm nhiều phản hồi, góp ý từ thầy cô và
bạn bè.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo - Tiến sĩ Nguyễn Quang Minh đã
hướng dẫn, hỗ trợ nhóm thực hiện đề tài này.

1


I.

Khái quát về dịch vụ phân phối
1. Khái niệm về dịch vụ phân phối
1.1. Khái niệm về dịch vụ
Hiểu theo nghĩa rộng: Trong nền kinh tế, ngoài các ngành sản

xuất vật chất (công nghiệp, nông nghiệp), trong cơ cấu kinh tế còn
có lĩnh vực sản xuất phi vật chất, đó chính là lĩnh vực dịch vụ.
Hiểu theo nghĩa hẹp: Dịch vụ là phần mềm của sản xuất hàng

hóa, gắn liền với quá trình sản xuất hàng hóa.
Theo Karl Marx: Dịch vụ là các hoạt động nhằm thỏa mãn nhu
cầu con người, dịch vụ không có dạng vật chất mà tồn tại dưới dạng
hoạt động của con người.
Theo Philip Kotler: Dịch vụ là bất kì hoạt động hoặc lợi ích mà
bên có thể cung cấp cho bên kia, dịch vụ là vô hình và không cầm
nắm được.
Nhìn chung, dịch vụ là những hoạt động mang tính xã hội
nhằm đáp ứng những nhu cầu về sản xuất và cuộc sống của con
người, sản phẩm dịch vụ là vô hình, không có hình thái vật chất.
1.2. Khái niệm về dịch vụ phân phối
Khi hàng hóa được sản xuất ra để đến được với người tiêu dùng
thì phải trải qua một chuỗi các hoạt động mua và bán. Dịch vụ phân
phối là thuật ngữ mô tả toàn bộ quá trình lưu thông tiêu thụ hàng
hóa đó trên thị trường. Chúng là những dòng chuyển quyền sở hữu
các hàng hóa qua các doanh nghiệp và tổ chức khác nhau để tới
người mua cuối cùng. Quan niệm về dịch vụ phân phối có thể xem
xét được từ nhiều góc độ khác nhau:
Đối với người sản xuất, dịch vụ phân phối là những cách thức,
sự tổ chức hệ thống bên ngoài doanh nghiệp để quản lý các hoạt
động phân phối giúp họ thực hiện được mục đích kinh doanh. Người
2


sản xuất (người nhập khẩu) phải tìm ra các trung gian thương mại
nào thích hợp để đưa sản phẩm của họ đến các khách hàng cuối
cùng nếu như họ không muốn tự mình trực tiếp bán hàng cho người
tiêu dùng nhỏ lẻ.
Đối với người tiêu dùng, dịch vụ phân phối được hiểu là những
hoạt động thực hiện chủ yếu tại các cửa hàng bán lẻ-mắt xích cuối

cùng của quá trình biến đổi, vận chuyển, dự trữ và đưa hàng hóa,
dịch vụ tới tay người tiêu dùng.
Nhìn chung, dịch vụ phân phối là hệ thống các quan hệ của
một tập hợp các doanh nghiệp và cá nhân đọc lập, phụ thuộc lẫn
nhau cùng tham gia vào quá trình đưa hàng hóa từ người sản xuất
đến người tiêu dùng. Nó là một chuỗi các mối quan hệ giữa các tổ
chức liên quan trong quá trình mua và bán hàng hóa.
2. Các lĩnh vực về dịch vụ phân phối
Theo WTO, trong Danh mục Phân loại ngành dịch vụ, tài liệu
mã số MTN.GNS/W/120 được xây dựng trong Vòng Uruguay và phần
lớn dựa trên Phân loại Danh mục sản phẩm trung tâm tạm thời của
Liên Hợp Quốc (CPC), thì dịch vụ phân phối được phân thành bốn
nhóm dịch vụ chính là: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn,
dịch vụ bán lẻ và nhượng quyền thương mại.
2.1. Dịch vụ đại lý hoa hồng
Dịch vụ đại lý hoa hồng là hoạt động thương mại, theo đó bên
giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên đại lý nhân danh mình
mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của
bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao (hoa hồng).
Các hình thức đại lý hoa hồng:

3


-

Đại lý bao tiêu: Là hình thức đại lý mà bên đại lý thực
hiện việc mua, bán trọn vẹn một khối lượng hàng hóa

-


hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao đại lý.
Đại lý độc quyền: Là hình thức đại lý mà tại một khu
vực đia lý nhất định bên giao dại lý chỉ giao cho một
đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc cung

-

ứng một hoặc một số dịch vụ nhất định.
Tổng đại lý mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ: Là
hình thức đại lý mà bên đại lý tổ chức một hệ thống
đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý đại
diện cho hệ thống đại lý trực thuộc. Các đại lý trực
thuộc hoạt động dưới sự quản lý của tổng đại lý và với

danh nghĩa của tổng đại lý.
2.2. Dịch vụ bán buôn
Theo quy định tại Nghị định số 23/2007/NĐ-CP Quy định chi tiết
Luật Thương mại về hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng
hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì bán
buôn là hoạt động bán hàng hóa cho thương nhân, tổ chức khác;
không bao gồm hoạt động bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng
cuối cùng.
Dịch vụ bán buôn bao gồm việc bán hàng cho những người bán
lẻ, những doanh nghiệp sử dụng của các ngành công nghiệp, thương
mại, các tổ chức hoặc các đơn vị chuyên môn, hoặc cho những người
bán buôn khác.
Dịch vụ bán buôn có đặc điểm là bán hàng với số lượng lớn, và
thường là nguyên hộp, nguyên đại, nguyên kiện cho bên mua với giá

thấp hơn giá bán lẻ. Giá bán buôn thường được quy định theo kiểu
bậc thang theo khối lượng hàng hóa bán ra nhằm khuyến khích khối
lượng đặt hàng của đại lý mà vẫn đảm bảo sự cân bằng và công
bằng về giá trong thương mại.
4


Các đơn vị kinh doanh bán buôn thường là các doanh nghiệp
và cá nhna có nguồn vốn lớn, quan hệ rộng trong sản xuất kinh
doanh. Các nhà bán buôn thường áp dụng hệ thống quản lý hiện đại
với những chính sách bán hàng và marketing chuyên nghiệp (cấp
thẻ choi người mua hàng, in catalogue quảng cáo hàng bán,…) và
đặc biệt giá bán buôn luôn mang tính cạnh tranh cao.
2.3. Dịch vụ bán lẻ
Cũng theo định nghĩa của Nghị định 23/2007/NĐ-CP thì bán lẻ
là hoạt động bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng.
Việc kinh doanh bán lẻ có thể diễn ra trực tiếp từ người sản xuất đến
người tiêu dùng cuối cùng hoặc có thể qua rất nhiều khâu trung gian
thương mại khác nhau. Dịch vụ bán lẻ bao gồm hoạt động bán hàng
tại những địa điểm nhỏ, cố định như cửa hàng hay kiốt, hoặc cũng
có thể thông qua đường bưu điện với số lượng nhỏ và người mua là
người tiêu dùng trực tiếp. Dịch vụ bán lẻ có thể gồm cả những dịch
vụ phụ trợ như giao hàng. Trong thương mại, người bán lẻ mua hàng
hóa với số lượng lớn trực tiếp từ nhà sản xuất, thông qua người nhập
khẩu hoặc người bán buôn và bán cho người tiêu dùng với số lượng
nhỏ hơn. Người bán lẻ giữ vai trò cuối cùng trong chuỗi cung ứng và
có vai trò rất quan trọng trong chất lượng phân phối của các công ty
vì họ là những người gần gũi với người tiêu dùng cuối cùng nhất.
2.4. Nhượng quyền thương mại
Theo Điều 284, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 thì

Nhượng quyền thương mại được hiểu là hoạt động thương mại, theo
đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình
tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều
kiện sau đây:
-

Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến
hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên
5


nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu
hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu
hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo
-

của bên nhượng quyền;
Bên nhượng quyền có quyền kiếm soát và trợ giúp cho
bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh
doanh.

Về hình thức của nhương quyền thương mại có thể được phân
loại theo các căn cứ khác nhau:
Nếu căn cứ theo hình thức hoạt động kinh doanh thì nhượng
quyền thương mại gồm có các hình thức sau:
-

Nhượng quyền sản xuất (Processing Franchise):
Là loại hình nhượng quyền cho phép bên nhận quyền
được sản xuất, cung ứng ra thị trường các hàng hóa

mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền. Trong nhượng
quyền sản xuất, bên nhượng quyền còn cung cấp cho
bên nhận quyền thông tin liên quan tới bí mật thương
mại hoặc những công nghệ hiện địa, thâm chí là cả
những công nghệ đã được cấp bằng sáng chế. Ngoài
ra, bên nhượng quyền còn có thể hỗ trợ bên nhận
quyền về một số khía cạnh như hỗ trợ đào tạo, tiếp thị,

-

phân phối và các dịch vụ hậu mãi.
Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực dịch vụ
(Service Franchise): Là loại hình nhượng quyền trong
lĩnh vực hoạt động có tính chất dịch vụ như sửa chữa,
bảo dưỡng ôtô, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, dịch

-

vụ cung cấp thẻ tín dụng, …
Nhượng quyền phân phối: Trong hình thức nhượng
quyền này, mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và
bên nhận quyền có đặc điểm gần giống như mối quan
hệ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối thông thường
6


tức là bên nhượng quyền sản xuất ra các sản phẩm
sau đó bán lại sản phẩm cho bên nhận quyền và bên
nhận quyền sẽ phân phối trực tiếp tới người tiêu dùng
dưới thương hiệu của bên nhượng quyền.

Nếu căn cứ vào tính chất mối quan hệ giữa bên nhương quyền
và bên nhận quyền, xét về cơ bản có các hình thức:
-

Nhương quyền đơn nhất hay nhượng quyền trực
tiếp (Unit Franchising): Hình thức này được áp dụng
khi bên nhượng quyền và bên nhận quyền cùng hoạt
động trong phạm vi một quốc gia nhằm đảm bảo
quyền kiểm soát của bên nhượng quyền đối với việc
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của bên

-

nhận quyền.
Nhượng quyền mở rộng (Franchise developer
agreement): Thực chất là bên nhượng quyền trao cho
bên nhận quyền trách nhiệm mở rộng và điều hành
một số lượng đơn vị kinh donah theo đúng thỏa thuận
phạm vi một lãnh thổ nhất định và không được nhượng

-

quyền cho một bên thứ ba.
Nhượng quyền khởi phát (Nhương quyền phụ Master Franchise): Là nhượng quyền thương mại
mang tính quốc tế. Nghĩa là bên nhượng quyền và bên
nhận quyền đều ở các quốc gia khác nhau.

7



II.

Khái quát về dịch vụ bán lẻ
1. Đặc điểm của dịch vụ bán lẻ
Ngoài những đặc điểm của dịch vụ nói chung (như tính vô hình, tính không cất

trữ được, tính không đồng nhất về chất lượng và tính không đồng thời trong quá trình
sản xuất), thì dịch vụ bán lẻ còn mang những đặc điểm riêng.
a. Là kênh gần nhất với người tiêu dùng cuối cùng.
Để đảm bảo hàng hóa đến được tay người tiêu dùng cuối cùng thì
quá trình lưu thông trải qua rất nhiều khâu trung gian. Người bán lẻ
là khâu cuối cùng để đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng và họ
cũng không nhất thiết phải tham gia vào tất cả các khâu trung gian.
Trước đó có thể kể tới nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà phân phối,
nhà bán buôn… Mỗi thành phần trong quá trình này đều đảm nhận
một vai trò cụ thể.
Tuy nhiên, dù có nhiều khâu trung gian đến mấy thì nhà bán lẻ vẫn là
kênh trực tiếp gắn bó với người tiêu dùng cuối cùng, mang tính chất
quyết định xem hàng hóa có đến được tay người tiêu dùng hay
không. Những lời tác động, giới thiệu, cách thức bán hàng, phân
phối, khuyến mại của nhà bán lẻ sẽ là động lực để người tiêu dùng
cuối cùng chọn mua sản phẩm.
b. Đối tượng, hoạt động.
Đối tượng chính của dịch vụ bán lẻ là khách hàng cá nhân, hộ gia
đình, nhóm nhỏ phục vụ mục đích tiêu dùng, số lượng không quá
lớn. Hầu hết các sản phẩm đều được phân phối qua dịch vụ bán lẻ, ví
dụ như hàng tiêu dùng nhanh, thực phẩm, đồ gia dụng, thời trang…
Tuy nhiên trong dịch vụ bán lẻ cũng phân hóa ra nhiều dịch vụ phụ
trợ cụ thể khác như dịch vụ bảo quản, đóng gói, lắp ráp, bốc dỡ, giao
hàng, bảo hành, quảng cáo, v.v…

Cụ thể, danh mục CPC đã xác định “dịch vụ chính do các nhà bán
buôn và bán lẻ thực hiện là bán lại hàng hóa, kèm theo hàng loạt các
dịch vụ phụ trợ liên quan khác như: bảo quản lưu kho hàng hóa, lắp
ráp, sắp xếp và phân loại với hàng hóa khối lượng lớn; bốc dỡ và
phân phối lại với hàng hóa khối lượng nhỏ, dịch vụ giao hàng, bảo
8


quản lạnh (…) và các dịch vụ liên quan đến kinh doanh của người
bán lẻ như chế biến phục vụ cho bán hàng, dịch vụ kho hàng và bãi
đỗ xe.”
Hoạt động chính của dịch vụ bán lẻ là bán lại hàng hóa tới người tiêu
dùng cuối cùng.
c. Phân phối ngày càng tập trung.
Với sự thay đổi trong tâm lý và hành vi người tiêu dùng (thu nhập
tăng dần, chuộng hàng hóa chất lượng tốt, có uy tín) thì dịch vụ bán
lẻ không còn giới hạn ở các cửa hàng tạp hóa, đại lý nhỏ lẻ truyền
thống. Thay vào đó các chuỗi bách hóa lớn, siêu thị, trung tâm mua
sắm đang rất phát triển với quy mô, diện tích lớn hơn, tập trung
nhiều loại hàng hóa hơn.
d. Chịu tác động của thương mại điện tử.
Trong thời đại hiện nay, thương mại điện tử (e-commerce) đang dần
phổ biến hơn và thay đổi phần nào thói quen mua sắm của người
dân. Dịch vụ bán lẻ hiện không chỉ triển khai ở kênh bán hàng trực
tiếp tại cửa hàng mà còn được đẩy mạnh trên các trang mạng điện tử,
mua sắm trực tuyến. Đi kèm với đó là nhiều thay đổi khác cho dịch
vụ bán lẻ như thay đổi trong giao nhận hàng hóa, đa dạng phương
thức thanh toán.
2. Vai trò của dịch vụ bán lẻ
a. Tạo việc làm.

Dịch vụ bán lẻ tạo ra khối lượng việc làm cho nhân viên bán hàng,
chủ cửa hàng. Bên cạnh đó phải kể đến các dịch vụ phụ trợ như
marketing, giao hàng, kho vận, quản lý… cũng yêu cầu nguồn nhân
lực lớn (cả lao động chân tay và lao động trình độ cao). Điều này
mang ý nghĩa xã hội rất lớn và đóng góp vào sự ổn định nền kinh tế.
b. Vai trò quan trọng trong kênh phân phối.
Như định nghĩa của dịch vụ bán lẻ, thì đây là kênh phân phối cuối
cùng, tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng. Nhà bán lẻ đóng vai trò
quyết định tới việc người tiêu dùng có lựa chọn mua sản phẩm hay
không và sản phẩm có đến được tay người tiêu dùng cuối cùng hay
không. Dịch vụ bán lẻ góp phần không nhỏ vào doanh thu, đồng thời

9


cũng là kênh thu nhận trực tiếp phản hồi của khách hàng về hàng hóa
dịch vụ để doanh nghiệp cải tiến sản phẩm ngày một tốt hơn.
c. Ở một thị trường đầy tiềm năng như Việt Nam với cơ cấu dân số
vàng, thu nhập ngày càng cao và sức mua lớn, thì thị trường bán lẻ là
một mảnh đất màu mỡ thu hút cả các doanh nghiệp trong nước và
nước ngoài. Việc các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào dịch vụ
bán lẻ không chỉ làm đa dạng môi trường kinh doanh, tăng đầu tư
trực tiếp nước ngoài mà còn tạo động lực phát triển, cạnh tranh với
doanh nghiệp trong nước. Người tiêu dùng cũng được hưởng lợi khi
III.

chất lượng dịch vụ bán lẻ sẽ ngày càng được cải thiện, nâng cao.
Khái quát về lĩnh vực dịch vụ bán lẻ của Việt Nam
1. Doanh số lĩnh vực bán lẻ tại Việt Nam


Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thị trường
bán lẻ đã mở cửa hoàn toàn, những thay đổi tích cực của thị trường đã tác động lớn
đến tiêu dùng của người dân cũng như phương thức phân phối sản phẩm của các nhà
sản xuất, cung cấp.
Điều này được thể hiện trong Chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu (GRDI) được
ghi nhận bởi tập đoàn Tư vấn thị trường AT Kearney (Mỹ) - Nghiên cứu xếp hạng 30
thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, dựa trên cơ sở điều tra, khảo sát các nhà phân
phối, bán lẻ hàng đầu thế giới.
Năm 2008, Việt Nam lần đầu tiên trở thành thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất trong
số các thị trường mới nổi, sau đó tụt xuống vị trí thứ 5 vào năm 2009, thứ 14 năm
2010, vị trí 23 năm 2011 và vị trí 28 năm 2014. Hiện nay, Việt Nam đã lọt khỏi top 30
thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tăng trưởng bình quân của tiêu dùng cá
nhân là 10,5%/năm, từ đó, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
cũng tăng dần qua các năm với tỷ lệ tăng bình quân là 15,5%/năm. Cụ thể:

10


TỔNG MỨC HÀNG HÓA BÁN LẺ GIAI ĐOẠN 2007-2016
3000000
2668413.3
2403723.2

2500000
2189448.4
1964666.5

Tỷ đồng


2000000

1740359.7
1535600

1500000
1116476.6
1000000

1254200

781957.7
574814.4

500000
0

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013


2014

2015

2016

Năm
Column2

Nguồn: Tổng cục thống kê
Theo dự báo của Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Công Thương), giai đoạn
2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng thương mại bán lẻ của Việt Nam sẽ đạt 11,9%/năm,
quy mô thị trường khoảng 179 tỷ USD vào năm 2020, trong đó bán lẻ hiện đại chiếm
trên 45% so với mức 25% của năm 2016.Thống kê cho thấy, tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong nước trong giai đoạn 2007-2016 tăng trung
bình khoảng 20%/năm, (gần 7 lần từ khi Việt Nam vào WTO). Thị phần bán lẻ hiện
đại chỉ mới chiếm khoảng 25% tổng mức bán lẻ. Các siêu thị, trung tâm thương mại
hầu hết tập trung tai các thành phố lớn và khu vực nội thành, khu vực nông thôn và
ngoại thành còn bỏ ngỏ rất nhiều. Đối thủ cạnh tranh bán lẻ của các DN Việt Nam
chưa nhiều. Theo dự báo, thị trường bán lẻ hàng thực phẩm sẽ phát triển mạnh đến
năm 2020 với sức tiêu thụ tăng bình quân 5%/năm.

2. Hệ thống bán lẻ tại Việt Nam

11


Với quy mô 110 tỉ USD (số liệu tính đến hết năm 2016) và dự báo sẽ tăng lên
180 tỉ USD vào năm 2020, Việt Nam được đánh giá là 1 trong 30 thị trường bán lẻ hấp

dẫn nhất thế giới.
Theo Hiệp hội bán lẻ Việt Nam (AVR), Việt Nam có khoảng 750 siêu thị, 130
trung tâm thương mại, 9000 chợ truyền thống và 2,2 triệu hộ kinh doanh bán lẻ trên
khắp mọi miền. Đến năm 2020, theo quy hoạch, cả nước sẽ có khoảng 1200-1500 siêu
thị, 180 trung tâm thương mại và 157 trung tâm mua sắm.
Khảo sát của Công ty nghiên cứu thị trường Nielsen Việt Nam cho biết, kênh
bán hàng truyền thống vẫn chiếm ưu thế trên thị trường, chiếm khoảng 78%. Trong
năm 2013, 53% người mua hàng chi tiêu nhiều nhất ở chợ và tần suất họ ghé chợ
khoảng 21,5 lần mỗi tháng. Tuy nhiên, các siêu thị, trung tâm thương mại những cửa
hàng tiện lợi lại đang bắt đầu có xu hướng phát triển và có tốc độ mở rộng nhanh. Cụ
thể theo số liệu của Tổng cục thống kê:

Hệ thống bán lẻ tại Việt Nam
10000
9000
8000

7871

8546

8495

8568

7000
6000
5000
4000
3000

2000
1000
0

385

451

72
2008

85
2009

571

638

116 8547
115
101 8550
2010
2011
2012
8528
659
Chợ

Siêu thị


812

869

724

762

130
2013

170
162 8513
139 8660
2014
2015
2016

Trung tâm thương mại

Nguồn: Tổng cục thống kê
Với các cam kết khi gia nhập WTO, hiện nay Việt Nam đã mở cửa hoàn
toàn thị trường bán lẻ. Sức hấp dẫn của 1 thị trường với quy mô dân số trên 93
triệu dân, trong đó gần 40% dân thành thị, thu nhập bình quân đầu người đang
tăng và đã đạt trên 2000USD/người đang là thị trường hấp dẫn cho nhiều nhà
12


đầu tư. Chính vì vậy, nhiều năm gần đây, các tập đoàn nước ngoài lớn như
Lotte, Central, Aeon, Auchan, … đẩy mạnh chiến lược thâm nhập và mở rộng

thị trường bán lẻ tại Việt Nam cho thấy tiềm năng cũng như cuộc đua giành thị
phần của thị trường bán lẻ Việt Nam.
IV. Thực trạng thu hút FDI vào dịch vụ bán lẻ của Việt Nam
1. Quy mô vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ
Từ dự án đầu tiên được cấp phép vào ngày 31/8/1996 của Nhật
Bản đầu tư vào phân phối hàn hóa nông sản tại huyện Lâm Đồng
theo báo cáo của Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy tính đến cuối năm
2015, cả nước có 1.735 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào lĩnh vực bán lẻ. Tổng vốn đăng ký đạt hơn 4,6 tỉ USD, đứng
trong 6 ngành nghề thu hút vốn FDI lớn nhất. Theo thông tin mới
nhất, chỉ tính riêng trong quý I năm 2017 nước ngoài đã đầu tư vào
ngành bán lẻ với tổng vốn đầu tư đăng ký là 296,8 triệu USD, chiếm
tới 3,85% tổng vốn đầu tư đăng ký và đứng thứ 3 trong tổng số 18
ngành mà nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cùng kì.

Tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn cổ phần
2.5

2.26

2
1.5

1.67

1.76

1.83


2007

2008

2009

1.89

1.44
1.15

1
0.5
0

2005

2006

2010

2016

Đơn vị: tỷ USD
Tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn cổ phần

Nguồn: Tổng cục thống kê

13



Trong năm 2015, Việt Nam có 525 thương vụ M&A, có giá trị
trên 4,3 tỷ USD, tăng 40% so với năm 2014. Trong năm 2016 có
khoảng gần 600 thương vụ với trị giá gần 6 tỷ USD.
Năm qua, có thể kể đến các thương vụ như Tập đoàn TCC của
Thái Lan mua lại Metro Cash&Carry với 19 trung tâm trên cả nước và
các bất động sản liên quan trị giá 655 triệu euro (tương đương 848
triệu USD). Ước tính Metro Cash & Carry chiếm khoảng 22% thị phần
bán lẻ của Việt Nam.
Tập đoàn Central Group chi 1,05 tỷ USD mua lại hệ thống Big C
gồm 33 siêu thị, trung tâm thương mại. Trước đó, năm 2015, Central
Group cũng đã chi hơn 100 triệu USD mua lại nhà bán lẻ số một trên
thị trường điện máy, là Nguyễn Kim.
Gần đây nhất, tập đoàn này đã chi 10 triệu USD mua lại mảng
kinh doanh tại Thái Lan và Việt Nam của Zalora.
Hai nhà đầu tư liên quan của Tập đoàn đồ uống Singapore F&N
thuộc sở hữu tỷ phú Thái Lan Charoen Sirivadhanabhakdi mới đây
cũng đã mua thành công 78.378.300 cổ phần, tương ứng 5,4% vốn
điều lệ Vinamilk (VNM), giá 144.000 đồng/cổ phần, trở thành nhà
đầu tư chiến lược của Vinamilk.
Ngoài ra, các tập đoàn lớn như Lotte, Aeon… cũng đều có dự
định mở rộng thị phần tại Việt Nam bằng cách tăng thêm trung tâm
thương mại hay khu mua sắm.
Nhờ vậy, tốc độ tăng bình quân của tổng mức bán lẻ hàng hóa
và dịch vụ đạt được 10.5%. Theo số liệu công bố tình hình kinh tế,
xã hội năm 2016 của Tổng cục Thống kê (Bộ KH&ĐT), tính chung cả
năm 2016, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng ước tính đạt 3.527,4 nghìn tỷ đồng, tăng 10,2% so với năm
trước, trong đó: Lương thực, thực phẩm tăng 13%; đồ dùng, dụng cụ,
14



trang thiết bị gia đình tăng 11,4%; may mặc tăng 10,6%; phương
tiện đi lại tăng 5,7%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 1,7%.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
4000
3500
3000

3242.9

2945.2

3527.4

2618

2500
2000
1500
1000
500
0

2013

2014

2015


2016

đơn vị: nghìn tỷ Đồng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Nguồn: Báo cáo kinh tế - tài chính – Tổng cục thống kê

Cơ cấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế phân theo ngành kinh doanh

Bán lẻ

Dịch vụ lưu trú, ăn uống

Dịch vụ và du lịch

Nguồn: Tổng cục thống kê
Như vậy, xét về tỉ lệ vốn dầu tư của các khu vực vào lĩnh vực
phân phối bán lẻ của Việt Nam hiện nay thì có thể thấy sự áp đảo
15


của khu vực tư nhân. Số lượng của các doanh nghiệp phân phối
trong nước cũng như các hộ kinh doanh cá thể trong nước so với số
lượng các nhà phân phối của nước ngoài đang có mặt tại Việt Nam
có sự chênh lệch khá lớn. Khi Việt Nam hoàn toàn mở cửa thị trường
vào tháng 1/2009 thì đã có rất nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế
giới là Wal-mart (Mỹ), Carefour (Pháp) và Tesco (Anh) đang xúc tiến
tìm hiểu về Việt Nam và lên kế hoạch đầu tư. Ngoài ra còn có các
tập đoàn tham gia mạnh vào lĩnh vực bán lẻ gồm có Zen Plaza,

Lotteria, KFC, Aeon,Medicare và điển hình là Central Group của Thái
Lan với hơn 30 trung tâm mua sắm, siêu thị Big C, cửa hàng thương
mại.
2. Cơ cấu đối tác đầu tư dịch vụ bán lẻ tại Việt Nam
Thị trường dịch vụ bán lẻ của Việt Nam đã và đang trở thành điểm đến lí tưởng
của các nhà đầu tư nước ngoài kể từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007 và kí
kết nhiều hiệp định thương mại tự do khác như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam
– EU (EVFTA), ASEAN – Hàn Quốc, AEC, v.v… Theo Quyết định số 10/2007/QĐBTM ngày 21/5/2007 của Bộ Thương mại, Việt Nam cam kết lộ trình cho phép được
đầu tư trong lĩnh vực bán lẻ dưới hình thức tổ chức kinh tế 100% vốn nước ngoài kể
từ ngày 1/1/2009. Đây là tiền đề mở ra cuộc đổ bộ của các doanh nghiệp nước ngoài
vào thị trường dịch vụ bán lẻ Việt Nam.
Các năm 2007 - 2009, tỷ lệ tăng trưởng của thị trường bán lẻ Việt Nam duy trì
từ 18 – 25%. Một số thương hiệu bán lẻ lớn của nước ngoài đã sớm vào Việt Nam, có
thể kể đến như Cora (Pháp, sau này là BigC), Parkson (Malaysia), Metro (Đức, sau
thuộc Thái Lan), Melinh Plaza (Bahamas). Tới nay đã có thêm nhiều đối tác nước
ngoài đầu tư vào thị trường bán lẻ Việt Nam, nhưng nổi bật nhất có thể kể đến các đối
tác đến từ Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp…
2.1.
-

Thái Lan
Theo thống kê của Deal Street Asia, hiện Thái Lan đã chiếm tới 50%
thị phần dịch vụ bán lẻ của Việt Nam. Các doanh nghiệp Thái Lan

16


thâu tóm thị trường chủ yếu qua con đường mua lại và sáp nhập
-


(M&A) với nhiều thương vụ lớn, bắt đầu từ năm 2013.
Năm 2013, Tập đoàn Berli Jucker (BJC) mua lại 65% cổ phần của
công ty cổ phần Thái An và giành quyền kiểm soát Phú Thái Group,
một doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực phân phối và bán lẻ ở miền
Bắc. 42 cửa hàng FamilyMart vốn thuộc sở hữu của liên doanh giữa
công ty này và Nhật Bản chuyển về tay Berli Jucker và được đổi tên

-

thành B’Mart.
Năm 2014, BJC tiếp tục mua lại chuỗi siêu thị Metro Cash & Carry
với giá 655 triệu Euro. BJC tiếp quản toàn bộ hoạt động kinh doanh
của Công ty Metro Cash & Carry Việt Nam (MCC Việt Nam) bao
gồm 19 trung tâm phân phối và danh mục bất động sản có liên quan.
Đây được coi là thương vụ M&A lớn nhất trong ngành dịch vụ bán lẻ

-

của Việt Nam.
Năm 2015, Tập đoàn Central Group mua lại 49% cổ phần công ty sở

-

hữu chuỗi siêu thị điện máy Nguyễn Kim.
Năm 2016, TCC Holding (công ty mẹ của Berli Jucker) đứng ra hoàn

tất thương vụ mua lại Metro Vietnam.
Cũng trong năm 2016, Central Group mua lại BigC Vietnam từ Casino
Group của Pháp với giá 1, 14 tỷ USD. Sau đó tập đoàn này tiếp tục thương vụ
mua lại trang bán hàng điện tử Zalora Vietnam với giá 10 triệu USD.

2.2. Nhật Bản:
- Nhà đầu tư Nhật Bản vốn đã hiện diện ở thị trường bán lẻ Việt Nam
khi liên doanh với Phú Thái Group thành lập chuỗi cửa hàng tiện lợi
Family Mart. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, chuỗi Family Mart
-

đã bị mua lại bởi BJC Thái Lan vào năm 2013.
Cuối năm 2011, AEON – tập đoàn bán lẻ lớn nhất Nhật Bản bắt đầu
thâm nhập thị trường bán lẻ Việt Nam bằng việc triển khai cửa hàng
tiện ích Ministop qua hình thức nhượng quyền thương hiệu, kết hợp
với Tập đoàn Trung Nguyên. Hiện thương hiệu này đã có 17 cửa

-

hàng.
Năm 2015, AEON đã thực hiện thương vụ mua lại 30% cổ phần
Fivimart và 49% Citimart. Theo thống kê từ Deal Street Asia, từ
trước khi thực hiện M&A, AEON cũng đã đầu tư đến 500 triệu đô la
17


để xây dựng chuỗi trung tâm mua sắm - siêu thị bán lẻ khắp Việt
Nam (AEON Mall Long Biên, AEON Mall Tân Phú Celadon, AEON
-

Mall Bình Tân).
Cũng trong năm 2015, Tập đoàn bán lẻ Takashimaya mở trung tâm
thương mại đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh với số vốn 290 triệu

-


USD.
Từ ngày 1/1/2017, AEON chính thức tham gia lĩnh vực thương mại

-

điện tử ở Việt Nam bằng website thương mại trực tuyến AeonEshop
Tháng 10/2017, một doanh nghiệp Nhật Bản khác là Idemitsu Kosan
chính thức tham gia thị trường bán lẻ xăng dầu của Việt Nam.
Idemitsu Kosan là doanh nghiệp lớn thứ hai trong ngành xăng dầu
Nhật Bản. Trạm xăng 100% vốn nước ngoài đầu tiên mang tên

Idemisu Q8 được mở tại Khu công nghiệp Bắc Thăng Long.
2.3. Hàn Quốc:
Tập đoàn Lotte của Hàn Quốc đã có mặt ở Việt Nam từ năm 2008 và có
nhiều động thái trong lĩnh vực bán lẻ.
- Năm 2014, Tổ hợp trung tâm thương mại Lotte Center Hanoi hoàn
-

thành với trị giá khoảng 500 triệu USD.
Lotte Mart – hệ thống siêu thị thuộc tập đoàn Lotte tính tới nay đã có
13 trung tâm thương mại và đại siêu thị ở TP HCM, Đồng Nai, Bình
Dương, Bà Rịa -Vũng Tàu, Cần Thơ, Bình Thuận, Đà Nẵng, Hà Nội

-

và Khánh Hòa.
Lotte đã đầu tư khoảng 36 triệu USD cho 30 cụm rạp chiếu phim
Lotte Cinema trên khắp cả nước. Bên cạnh đó, ở Việt Nam hiện cũng
có tới 200 cửa hàng ăn nhanh Lotteria, tổng vốn đầu tư ước tính 50


triệu USD.
2.4. Pháp:
Năm 2015, tập đoàn bán lẻ Auchan của Pháp hợp tác với công ty cổ
phần hóa dầu Quân đội triển khai chuỗi bán lẻ Simply Mart tại Hà Nội, cửa
hàng đầu tiên đặt tại MIPEC Long Biên. Cho tới năm 2020, tập đoàn Auchan
có kế hoạch rót vốn 500 triệu USD để phát triển hệ thống bán lẻ tại Việt Nam.
2.5. Mỹ
Năm 2015, công ty quản lý quỹ Warburg Pincus và Credit Suisse của
Mỹ đã đầu tư tổng cộng 299 triệu USD để nắm giữ tổng cộng 20.2% cổ phần

18


của Vincom Retail, tương đương 20% cổ phần của công ty sở hữu chuỗi trung
tâm thương mại thuộc Tập đoàn Vingroup.
3. Cơ cấu lĩnh vực đầu tư
Cách đây đúng 10 năm (năm 2007), Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Đây
cũng chính là mốc thời gian đánh dấu sự có mặt của các nhà phân phối nước ngoài.
Giai đoạn đầu, nhà phân phối nước ngoài được thực hiện hoạt động phân phối dưới
hình thức bắt buộc là liên doanh (góp 49% vốn) với đối tác Việt Nam.
Tuy nhiên, sau đó 1 năm (1/1/2008), các doanh nghiệp ngoại không bị hạn chế
về tỉ lệ vốn góp (có thể lên tới 99,99%). Và cũng chỉ 1 năm sau, (1/1/2009), thị trường
bán lẻ Việt Nam chính thức mở hoàn toàn khi nhà đầu tư nước ngoài được thành lập
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực bán lẻ. Với sự mở cửa này, vài
năm trở lại đây, các nhà bán lẻ nước ngoài đã tích cực đổ bộ vào Việt Nam. Trên thực
tế, thị trường bán lẻ Việt Nam được đánh giá là thị trường đầy tiềm năng khi có cơ cấu
dân số trẻ, tỉ lệ người dân đến các trung tâm thương mại ngày càng nhiều.
Đáng chú ý, với quy mô 110 tỷ USD (2016) và dự báo sẽ tăng lên 180 tỷ USD
vào năm 2020, Việt Nam được đánh giá là một trong 30 thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất

thế giới.
Theo đó, DN ngoại vào Việt Nam bằng nhiều con đường như mua bán, sáp
nhập, liên kết với DN nội để hình thành chuỗi bán lẻ cho mình. Không chỉ vậy, hàng
hóa Thái, Nhật, Hàn Quốc… cũng đổ bộ vào Việt Nam theo con đường “bán lẻ” nhờ
giảm thuế theo cam kết của các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã tham gia.
Những thương hiệu đình đám về bán lẻ từ Thái Lan (Central Group), Hàn Quốc
(Lotte), Nhật Bản (AEON)… đến thời điểm này không còn xa lạ đối với người dân
Việt Nam ở các đô thị lớn.
Theo báo cáo về tình hình thương mại trong nước của Bộ Công Thương, năm
2016, các doanh nghiệp FDI chiếm 70% thị phần bán lẻ qua cửa hàng tiện lợi; khoảng
17% thị phần qua trung tâm thương mại, siêu thị; 15% thị phần qua siêu thị mini và
khoảng 50% thị phần qua các hình thức bán hàng trực tuyến, truyền hình, điện thoại…

19


T hị phần FDI qua các hình thức bán lẻ (%)
80
70

70
60

50

50
40
30
20


17

10
0

2

1
Cửa hàng tiện lợi

Trung tâm thương mại

15
3
Siêu thị mini

4
Bán hàng trực tuyến

Nguồn: Bộ Công Thương

Theo nghiên cứu của Nielson, năm 2014, tỉ lệ người tiêu dùng sử dụng cửa
hàng tiện lợi gia tăng (5% lên 11%), trong khi tỉ lệ người tiêu dùng của kênh bán lẻ
truyền thống, cụ thể là hình thức cửa hàng tạp hóa truyền thống, giảm đáng kể (81%
xuống 64%). Trung tâm WTO và hội nhập cho biết, trong số 12 mô hình bán lẻ thông
dụng hiện nay, doanh nghiệp đặt kỳ vọng nhiều nhất vào các mô hình bán lẻ hiện đại
(gần 94% doanh nghiệp cho rằng bán lẻ online có triển vọng, 91% với mô hình siêu
thị tổng hợp, 88% cho trung tâm mua sắm, 83% cho các siêu thị chuyên doanh, 79%
cho các cửa hàng tiện ích).


20


Xu hướng phát triển của các mô hình bán lẻ trong 3-5 năm tới
93.94
100
91.01 88.17
90
83.54
79.17
74.63
80
70.69
70
55.26
60 55.36
46.88
45.76
50
40
30
14.75
20
12
11
10
9
8
7
6

5
4
10 1
3
2
0

Nguồn: Trung tâm WTO và Hội nhập
Các doanh nghiệp FDI đang cạnh tranh mạnh mẽ nhất với doanh nghiệp nội địa
qua các hình thức bán lẻ hiện đại (trung tâm mua sắm, siêu thị tổng hợp, bán lẻ
online). Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, bán lẻ truyền thống vẫn chiếm phần lớn thị
trường bán lẻ Việt Nam. Theo tạp chí bán lẻ Việt Nam, 5 yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến quyết định của người tiêu dùng là tính có sẵn của hàng hóa (62%), chất lượng
hàng hóa (57%), địa điểm (57%), dịch vụ chăm sóc khách hàng (51%) và phân loại
hàng hóa (51%). Như vậy, bán lẻ truyền thống (chợ truyền thống, cửa hàng tạp hóa)
vẫn chiếm ưu thế về giá cả, nguồn hàng thực phẩm tươi và sẵn có, phân loại hàng hóa
đa dạng.

21


Trung tâm WTO và Hội nhập đánh giá về mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp
nội địa với FDI:

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa với FDI (%)
80
70
60
50
40

30
20
10
0

un
Tr

g

m


62

12

ua
m

sắ

6

m

Si

êu


th

g
ổn
ịt

hợ

Siê

51

41

38

35

56

p

u

th

h
ịc

6


2

ên
uy

an
do

h

a
Cử



ng

p
tạ

C

a


ửa




ng

ch

ên
uy

an
do

h

a
Cử

10

8

5



ng

ti

ện

íc


1

h


Ch

n
yề
tru

73n g

h
t

51ế n

n


lẻ

c
trự

y
tu


Doanh nghiệp nội địa có năng lực cao trong cạnh tranh với FDI
Column1

Ng

uồn: Trung tâm WTO và Hội nhập
4. So sánh năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước và

các doanh nghiệp FDI
Theo xếp hạng về Chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu (GRDI) do Tập đoàn tư vấn
thị trường AT Kearney (Mỹ) công bố hàng năm, Việt Nam vẫn nằm trong Top 30 thị
trường bán lẻ mới nổi hấp dẫn nhất thế giới cho đầu tư nước ngoài.
Sự xuất hiện của chuỗi cửa hàng tiện ích 7-Eleven tại Việt Nam báo hiệu một
cuộc cạnh tranh mới, khốc liệt và nóng bỏng hơn trong việc giành giật thị phần trên
thị trường bán lẻ. Hiện nay chuỗi cửa hàng tiện ích Vinmart+ (Vingroup) đang chiếm
ưu thế với khoảng 900 cửa hàng trên cả nước; kế tiếp là Circle K, vào Việt Nam năm
2008 hiện có 242 cửa hàng; B’s Mart 166 cửa hàng; Family Mart gần 150 cửa hàng,…
Mặc dù thị trường bán lẻ rất tiềm năng nhưng hiện tại các DN Việt Nam gặp nhiều
khó khăn bởi hạn chế về nguồn lực, kỹ năng kinh doanh, hệ thống quản trị. Trong khi
đó, những nhà đầu tư nước ngoài, với kế hoạch bài bản, đầu tư nhanh chóng, quyết liệt
dưới nhiều hình thức đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường này với 53% thị phần.
22


Thống kê của Bộ Công Thương cho thấy, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (FDI) hiện chiếm khoảng 17% thị phần bán lẻ qua Trung tâm thương mại, siêu
thị và 70% thị phần bán lẻ qua cửa hàng tiện lợi. Ngoài ra, khối FDI còn chiếm 15%
thị phần của phương thức bán hàng qua siêu thị mini và khoảng 50% thị phần bán lẻ
không thông qua cửa hàng (bán hàng trực tuyến qua Internet, truyền hình, điện
thoại…). Dự báo của Tập đoàn nghiên cứu thị trường Euromonitor (Anh), đến năm

2020, nhà bán lẻ nước ngoài sẽ chiếm lĩnh khoảng 68,3% thị phần bán lẻ hiện đại tại
Việt Nam.
Bắt đầu từ 11/1/2015, các nhà bán lẻ nước ngoài được phép thành lập doanh
nghiệp 100% vốn tại Việt Nam theo cam kết với WTO. Nhờ vậy, các doanh nghiệp
FDI đổ bộ ồ ạt vào thị trường bán lẻ một cách dễ dàng. Các doanh nghiệp nội với
nguồn tài chính yếu hơn nhanh chóng bị áp đảo. Chưa kể đó là nguồn hàng đa dạng,
kinh nghiệm quản lý và những ưu đãi của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp ngoại
trong việc tiếp cận mặt bằng càng làm cho doanh nghiệp trong nước yếu thế hơn trong
cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường bán lẻ.
Trong bối cảnh đó, nếu không nhanh chóng có giải pháp, những cải tiến trong
kinh doanh, các doanh nghiệp nội khó có thể cạnh tranh và thị trường bán lẻ Việt Nam
sẽ ngày ngày bị lấn át bởi các doanh nghiệp nước ngoài.

23


Kết luận
Xu thế toàn cầu hóa đang bao trùm cả thế giới, khi toàn cầu hóa về nền kinh tế
đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế
càng trở nên cấp bách. Toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi nước phải liên kết với các quốc gia
khác để cùng phát triển.Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Là một
nước đang phát triển, việc tham gia vào quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thế giới
làm cho Việt Nam phải đẩy mạnh khả năng cạnh tranh với các nước trên thế giới cũng
như nó đã và đang đặt ra cho chúng ta nhiều cơ hội và cả những thách thức mới. Kinh
tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi các nước phải xóa bỏ các rào
cản, chấp nhận tự do buôn bán, vì thế mỗi nước phải mở cửa thị trường trong nước,
điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh của nước đó phù hợp với sự
phát triển của thế giới.
Đang chiếm tới hơn 90% số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, các
doanh nghiệp bán lẻ ờ Việt Nam trở thành một nhân tố quan trọng đưa nền kinh tế

nước ta ngày càng phát triển và hội nhập. Thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam
là nhiều vô kể, cạnh tranh trên thị trường bán lẻ trở nên gay gắt. Tuy nhiên, đây sẽ là
cơ hội để sàng lọc loại bỏ các doanh nghiệp có tư duy “ăn xổi” và người tiêu dùng sẽ
được hưởng lợi từ điều này. Để có thể trụ vững và phát triển, các doanh nghiệp cần
phải có sự nghiên cứu xu hướng tiêu dùng trong nước và trên thế giới nhằm định
hướng phát triển cho ngành bán lẻ trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới cũng như
nhu cầu thay đổi của người tiêu dùng.

24


×