VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HỒ THỊ THU HÀ
TƯ TƯỞNG CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC
VÀ GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC
CHO THANH NIÊN QUẬN BÌNH THẠNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGÀY NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HỒ THỊ THU HÀ
TƯ TƯỞNG CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC
VÀ GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC
CHO THANH NIÊN QUẬN BÌNH THẠNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGÀY NAY
Chun ngành: Triết Học
Mã số: 60.22.03.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ HƯƠNG GIANG
HÀ NỘI - 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1:LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VIỆT
NAM ................................................................................................................. 8
1.1. Khái niệm yêu nước và chủ nghĩa yêu nước.............................................. 8
1.1.1. Khái niệm yêu nước................................................................................. 8
1.1.2. Khái niệm chủ nghĩa yêu nước................................................................ 8
1.2. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam................................................................... 8
1.2.1. Khái niệm chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống; cơ sở hình
thành, nội dung và giá trị của nó ...................................................................... 8
1.2.2. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại; cơ sở hình thành, nội dung và
giá trị của nó ................................................................................................... 15
Chương 2: GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO THANH NIÊN
QUẬN BÌNH THẠNH – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......................... 36
2.1. Lịch sử đấu tranh, xây dựng của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh
......................................................................................................................... 37
2.2. Thực trạng việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên quận Bình
Thạnh ............................................................................................................... 47
2.3. Các giải pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên quận Bình
Thạnh ............................................................................................................... 49
2.3.1. Giải pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên quận Bình
Thạnh ngày nay ............................................................................................... 50
2.3.2. Xây dựng mơi trường văn hóa .............................................................. 54
2.3.3. Chú trọng ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện ........................................... 56
2.3.4. Nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước ................................. 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 63
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam,
là Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hóa kiệt suất. Tư tưởng của
Người là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, là ngọn cờ thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Trong hơn nửa thế kỷ hoạt động cách mạng, Hồ
Chí Minh là người ý thức sâu sắc về giá trị tinh thần Việt Nam, về sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Người dạy “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt
Nam”. Tổng kết lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Dân ta có một
lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một
làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Rõ ràng, hệ giá trị tinh thần
truyền thống Việt Nam, mà đứng đầu là chủ nghĩa u nước đã đóng một vai
trị to lớn trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước. Trong thế kỷ XX, Hồ Chí
Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như một cuộc “hẹn hò lịch sử” giữa
chủ nghĩa yêu nước chân chính với học thuyết cách mạng và khoa học của
thời đại, tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin ánh sáng soi đường cứu dân, cứu
nước. Từ đó hình thành chủ nghĩa u nước Hồ Chí Minh. Thời gian lặng lẽ
trơi đi, chủ nghĩa u nước Hồ Chí Minh đã làm nên thắng lợi Cách mạng
Tháng Tám 1945, hai cuộc kháng chiến và bước đầu quá độ lên chủ nghĩa xã
hội mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một sự kiện chói lọi nhất,
một biểu tượng sáng ngời nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền
thống xuyên qua mọi thời đại.
Hiện nay, cách mạng nước ta bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - với mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
1
dân chủ, công bằng, văn minh vô cùng vẻ vang nhưng cũng khơng ít những
khó khăn, thách thức. Chủ nghĩa u nước Hồ Chí Minh càng đóng một vai
trị quan trọng, tiếp tục phát huy tác dụng to lớn, nó đã được Đảng và Nhân
dân ta vận dụng sáng tạo trong thời kỳ hội nhập, phát triển kinh tế tri thức,
xây dựng nền tảng vật chất để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng vị trí, vai trị của thanh niên
trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Người
đã thấy rất sớm sự đóng góp to lớn của tuổi trẻ Việt Nam trong sự trường tồn
và phát triển của dân tộc. Người khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương
lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần
lớn là do các thanh niên”. Họ là lực lượng đông đảo nhất, hùng hậu nhất,
hăng hái, dũng cảm nhất trong các cuộc chống xâm lược, là lực lượng gánh
vác những cơng việc nặng nề khó khăn, vất vả trong lao động sản xuất xây
dựng đất nước, “đâu cần là thanh niên có, đâu khó có thanh niên”. Trước lúc
đi xa Người dặn lại trong Di chúc: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức
cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội
chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Quận Bình Thạnh là một trong những quận có số dân đơng của thành
phố. Trong đó, thanh niên chiếm số lượng lớn, là lực lượng nòng cốt cho sự
nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa quận Bình Thạnh nói riêng và
thành phố Hồ Chí Minh nói chung. Để đạt được mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh thì việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước
cho thanh niên thành phố nói chung và cho thanh niên quận Bình Thạnh nói
riêng trong giai đoạn hiện nay là một việc làm rất quan trọng và cần thiết. Nó
tạo ra sức mạnh cực kỳ to lớn để phát huy tiềm năng vô tận của con người
2
Việt Nam nói chung và thanh niên Việt Nam nói riêng trước những thách thức
của lịch sử, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước Việt Nam ra
khỏi tình trạng kém phát triển, tạo điều kiện theo kịp các nước tiên tiến trong
khu vực và thế giới.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Nhân dân ta đang chấn hưng đất nước gắn liền với giữ vững độc lập dân tộc
và xây dựng đất nước gắn liền với kiên định chủ nghĩa xã hội. Điều đó chứng
tỏ rằng Đảng và dân ta đã vận dụng sáng tạo phát huy những tư tưởng lớn của
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin và
trên lập trường giai cấp vô sản. Với những lý do trên tôi chọn đề tài: “Tư
tưởng chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên
quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh ngày nay” để viết luận văn thạc
sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây đã có những cơng trình khoa học nghiên cứu về tư
tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng yêu nước của Người. Đó là:
Cuốn “Chủ nghĩa u nước Hồ Chí Minh” của Nguyễn Mạnh Tường,
cuốn sách được hình thành trên cơ sở luận án tiến sĩ của tác giả. Kết cấu của
sách gồm 3 chương, tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu chủ nghĩa yêu nước
Hồ Chí Minh.
Cuốn “Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giầu
nước mạnh” của Phạm Văn Đồng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1993 nghiên cứu tư tưởng và con người Hồ Chí Minh với cơng cuộc đổi mới.
Tác phẩm đã khẳng định: Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước, đồng thời là một
chiến sĩ cộng sản. Từ đó để mang tới thơng điệp của Hồ Chí Minh là lời nói
nổi tiếng: “Khơng có gì q hơn độc lập tự do”. Độc lập, tự do ở đây là độc
lập của dân tộc, tự do của Nhân dân, của con người. Độc lập đi liền với tự do
3
là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là một gợi mở rất sâu
sắc khi nghiên cứu chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh.
Cuốn “Nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tác giả Phạm Văn Đồng cũng khẳng định
hành trang ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành là truyền thống
lịch sử 4000 với sức sống mãnh liệt của một dân tộc. Đó là một nhận thức cơ
bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp ta suy nghĩ tới việc nghiên cứu chủ
nghĩa u nước Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay.
Cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam” do
Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn
hành năm 1997. Tác giả đã khẳng định truyền thống yêu nước của dân tộc đã
phát triển thành chủ nghĩa yêu nước. Và chính chủ nghĩa u nước đó đã thúc
đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước. Chủ nghĩa yêu nước là một trong
những nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cuốn “Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh” của GS,
NGND Đinh Xuân Lâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Đã tập hợp
nhiều bài nghiên cứu, có thể khai thác một số bài phục vụ cho đề tài như “Chủ
nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh - sự kết hợp biện chứng giữa truyền thống và
thời đại”, “Về con đường cứu nước của Hồ Chí Minh”...
Cuốn “Đến với tư tưởng Hồ Chí Minh” của Trần Bạch Đằng, Nhà xuất
bản Trẻ, 2004. Tác giả đã khẳng định “…tư tưởng Hồ Chí Minh được ấp ủ
lâu dài trong cái nôi chủ nghĩa yêu nước, tắm mình sâu sắc trong tâm hồn
dân tộc, là kết tinh truyền thống nhiều nghìn năm dựng nước và giữ nước của
nhân dân Việt Nam”...
Ngồi ra, cịn nhiều cơng trình nghiên cứu khác, như “Chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh” của Trần Xuân Trường, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001; “Hồ Chí Minh và nhà tư tưởng lỗi lạc” của
4
Song Thành, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2005. Lê Hữu Bl, “Vai trị của
tư tưởng u nước Việt Nam và phương hướng kế thừa phát triển trong sự
nghiệp đổi mới đất nước”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1993 .v.v..
Kết quả nghiên cứu của các tác giả trên đây là nguồn tư liệu quý giá để
tôi tham khảo và kế thừa có chọn lọc trong q trình thực hiện đề tài luận văn
của mình. Đây là những thành quả rất đáng tự hào về sự lao động nghiêm túc,
không mệt mỏi của các nhà khoa học xã hội. Tuy nhiên, chưa có cơng trình
nào nghiên cứu về “Tư tưởng chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu
nước cho thanh niên quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh ngày nay”,
khiến tác giả yên tâm về sự lựa chọn đề tài của mình, khơng trùng lặp, khơng
lập lại ý tưởng của những người đi trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm rõ thêm về chủ nghĩa u nước từ đó phân tích vai trị của chủ
nghĩa yêu nước trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Đề xuất phương hướng,
giải pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên quận Bình Thạnh trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2. Nhiệm vụ
- Xác định chủ nghĩa yêu nước là gì? Cơ sở hình thành nội dung chủ
yếu và những đặc điểm của chủ nghĩa yêu nước.
- Vai trò của chủ nghĩa yêu nước trong lịch sử.
- Đánh giá thực trạng đội ngũ thanh niên và công tác giáo dục thanh
niên, đề xuất phương hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cho thanh niên quận Bình Thạnh ngày nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
5
- Các bài nói bài viết trong Hồ Chí Minh toàn tập và cuộc đời, sự
nghiệp của Người đấu tranh không mệt mỏi cho nền độc lập dân tộc và tự do
hạnh phúc của Nhân dân Việt Nam.
- Các văn kiện, chỉ thị của Đảng và Quận ủy Bình Thạnh.
- Phong trào của thanh niên quận Bình Thạnh ngày nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quan điểm của chủ nghĩa yêu
nước và việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên quận Bình Thạnh,
thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, những quan điểm của Đảng về thanh niên và “Bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau”.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgic, phương pháp phân tích tổng hợp.
5.3. Nhiệm vụ
- Góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề cơ bản trong nghiên cứu
chủ nghĩa yêu nước. Làm rõ vai trò của chủ nghĩa yêu nước trong hình thành
nhân cách thanh niên quận Bình Thạnh hiện nay.
- Đánh giá có căn cứ khoa học thực trạng và đề xuất một số giải pháp
từng bước nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên
quận Bình Thạnh.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
6.1 Ý nghĩa khoa học
6
Trong quá trình hình thành, phát triển và khẳng định sức sống của mình
trong đời sống xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh có tiền đề, nguồn gốc trực tiếp
từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống rồi chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Áp dụng tư tưởng chủ nghĩa yêu nước vào các
hoạt động thực tiễn, góp phần định hướng vai trị của bản thân mỗi người,
nâng cao năng lực tư duy lí luận, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng và rèn
luyện đạo đức lối sống.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn “Tư tưởng chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu
nước cho thanh niên quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh ngày nay”
góp phần nghiên cứu thực trạng của việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong
thanh niên quận Bình Thạnh, từ đó đề ra các giải pháp thiết thực nâng cao
chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong thanh niên. Qua đó, góp phần
nâng cao nhận thức trong suy nghĩ và hành động, tích cực học tập, xây dựng
quận Bình Thạnh nói riêng và thành phố Hồ Chí Minh nói chung.
7. Cơ cấu luận văn
Ngồi phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương, 13 tiết
Chương 1: Lý luận chung về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Chương2: Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên quận Bình
Thạnh - thành phố Hồ Chí Minh
7
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VIỆT NAM
1.1. Khái niệm yêu nước và chủ nghĩa yêu nước
1.1.1. Khái niệm yêu nước
Yêu nước là một tình cảm tự nhiên của con người đối với quê hương xứ
sở, với ngơn ngữ, văn hóa, lịch sử và các truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Cùng với sự hình thành dân tộc và nhà nước dân tộc thì yêu nước từ một tình
cảm, một yếu tố tâm lý xã hội đã tiến dần lên thành một ý thức xã hội. Ý thức
đó khi đã phát triển thành một hệ thống thì tình cảm u nước có khả năng
trở thành chủ nghĩa yêu nước - có giá trị như một hệ tư tưởng.
1.1.2. Khái niệm chủ nghĩa yêu nước
Chủ nghĩa yêu nước biểu hiện quan điểm tích cực về quê hương của
một cá nhân hay tập thể, trong đó quê hương có thể là một vùng, một thành
phố nhưng thường gắn với khái niệm quốc gia. Nó gồm những quan điểm
như: tự hào về thành tựu hay văn hóa của quê hương, mong muốn bảo vệ
những đặc điểm đó, đồng hóa mọi thành viên của quốc gia. Hiện nay chủ
nghĩa yêu nước rất gần với chủ nghĩa dân tộc, vì thế chúng hay được dùng
như những từ đồng nghĩa.
Nếu xét cặn kẽ thì chủ nghĩa dân tộc liên quan tới các học thuyết và
phong trào chính trị hơn, trong khi chủ nghĩa yêu nước liên quan tới quan
niệm nhiều hơn. Chủ nghĩa yêu nước giúp con người cảm thấy yêu mến, tự
hào, có trách nhiệm hơn với quốc gia dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước gắn kết
con người trong cùng một đất nước lại với nhau, tạo thành một làn sóng mạnh
mẽ hơn bao giờ.
1.2. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
1.2.1. Khái niệm chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống; cơ sở
hình thành, nội dung và giá trị của nó
* Khái niệm chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống
8
Đối với người Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là một giá trị tinh thần
cao quý, kết tinh những tư tưởng, tình cảm thiêng liêng nhất, là hệ chuẩn mực
cao nhất trong bảng giá trị tinh thần truyền thống dân tộc, đã trở thành một
nguyên tắc chính trị - đạo đức - thẩm mỹ của con người Việt Nam.
* Cơ sở hình thành
Có thể nói, chủ nghĩa u nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt lịch sử
tư tưởng nước ta từ khi lập quốc cho tới nay. Ở Việt Nam, yêu nước vừa là
tình cảm, vừa là tư tưởng mà cũng đồng thời là triết lý, “là kim chỉ nam cho
hành động, là một tiêu chuẩn để nhận định đúng - sai, tốt - xấu, nên - chăng”
của người Việt Nam. Trong quá trình lao động sản xuất, xây dựng đất nước...
chúng ta vừa tìm cách thích nghi với điều kiện tự nhiên, vừa tìm cách khai
thác điều kiện tự nhiên để phục vụ cho sự tồn tại, phát triển của mình. Trong
quá trình săn bắn, trồng trọt, chăn ni, những cư dân Việt Nam đã có cuộc
sống ổn định, với một nền sản xuất vật chất, những giá trị tinh thần mang bản
sắc riêng và đạt đến trình độ cao của nền văn minh lúa nước.
Qua thực tiễn đấu tranh chống lại thiên nhiên hà khắc, những cư dân
Việt Nam dần dần liên kết lại với nhau, cùng nhau làm thủy lợi, đắp đê sông,
đê biển để chống đỡ lụt lội, hạn hán. Kinh tế phát triển, sự giao lưu giữa các
vùng trong nước từng bước được mở mang. Đó là q trình từng bước tạo nên
sự gắn bó giữa các cư dân, cộng đồng với nhau; là cơ sở hình thành tình yêu
quê hương, đất nước, sự gắn bó, đùm bọc lẫn nhau.
Ngồi những điều kiện khách quan đã tác động đến quá trình hình
thành, phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, chúng ta cần làm rõ những
nhân tố chủ quan - nhân tố quan trọng quyết định đến nội dung, hình thức của
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Từ khi hình thành nhà nước, từ nhà nước sơ khai ban đầu, đến nhà
nước hiện đại, bất kỳ nhà nước nào cũng quan tâm chăm lo giáo dục, bồi
9
dưỡng, kế thừa và phát triển truyền thống yêu nước của các thế hệ ơng cha
trong q trình dựng nước và giữ nước . Trong xã hội phong kiến Việt Nam,
nội dung giáo dục truyền thống yêu nước tập trung vào các mối quan hệ như:
vua - nước (trung quân - ái quốc), làng - nước (giữ làng - giữ nước), nước nhà (nước mất - nhà tan), nước - dân (yêu nước - thương dân)... Đó là các mối
quan hệ rường mối của xã hội, trong đó quan hệ vua - nước là cơ bản nhất.
Với hệ tư tưởng Nho giáo, giáo dục tư tưởng trung quân là cơ bản nhất. Giai
cấp thống trị luôn giáo dục ý thức bảo vệ độc lập dân tộc, giữ vững sự thống
nhất đất nước, với mục đích bảo vệ quyền lợi, địa vị thống trị của giai cấp bóc
lột. Đất nước độc lập, quyền lợi kinh tế và địa vị chính trị của họ được bền
vững, cịn khi đất nước khơng được độc lập thì điền trang, thái ấp, quyền uy
của giai cấp thống trị cũng khơng cịn. Đương nhiên, giáo dục ý thức độc lập
dân tộc khơng phải chỉ vì đặc quyền, đặc lợi của giai cấp thống trị, mà trong
đó cịn có quyền lợi của Nhân dân. Chính vì vậy, phong trào yêu nước chống
giặc ngoại xâm của quần chúng, chủ yếu là phong trào nông dân liên tiếp diễn
ra dưới sự lãnh đạo của các triều đại phong kiến. Quá trình đấu tranh của
Nhân dân đã khơi dậy, hun đúc, động viên, khích lệ tinh thần u nước sơi nổi
của cả một dân tộc, đặc biệt trước họa xâm lăng.
Dân tộc ta thời nào cũng có những tấm gương yêu nước của các anh
hùng, nghĩa sĩ, các danh nhân trong các tầng lớp Nhân dân đứng lên chống
thiên tai, ngoại xâm (nhưng chủ yếu là những tấm gương trong đánh giặc, giữ
nước - gắn liền với những chiến công, những sự nghiệp vẻ vang của lịch sử
dân tộc). Những hình ảnh về Lạc Long Qn, Thánh Gióng, Sơn Tinh trước
kia, những tấm gương Bà Trưng - Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung... mãi mãi
là những hình tượng sáng ngời trong bản đại anh hùng ca dựng nước, giữ
nước bất hủ của dân tộc ta. Những tấm gương đó được lưu truyền, kế tiếp và
nâng lên tầm cao mới. Trong thời đại mới, cách mạng Việt Nam do giai cấp
10
vô sản lãnh đạo, tiếp tục giành, giữ, phát triển nền độc lập của dân tộc theo
tinh thần mới thì chủ nghĩa yêu nước có bước phát triển về chất so với chủ
nghĩa yêu nước thời phong kiến.
Tình yêu quê hương đất nước, u thương giống nịi ln được gắn và
hòa quyện với nhau trong ý thức của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, tình
u đó đã được chuyển thành ý thức biết nâng niu, quý trọng những giá trị
văn hóa - tinh thần của quần chúng, trở thành hành động thiết thực của quần
chúng trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Đặc biệt trước họa xâm lăng, tình
yêu ấy được chuyển sang thái độ căm thù, ý chí quyết tâm chiến đấu của từng
người dân, của cả cộng đồng dân tộc đối với kẻ thù bán nước, cướp nước.
Thái độ căm thù, khinh ghét kẻ thù, tình yêu đất nước bao la đã trở thành giá
trị đạo đức của truyền thống lịch sử dân tộc ta trong suốt mấy nghìn năm lịch
sử. Đó là nhân tố chính trị, tinh thần tạo nên truyền thống sức mạnh của dân
tộc ta. Trải qua các triều đại khác nhau, sự giáo dục truyền thống đó đều được
quan tâm, phát triển đúng mức, một yếu tố quan trọng hình thành, phát triển
truyền thống u nước Việt Nam.
Lịng u nước, tình cảm gắn bó máu thịt và trách nhiệm “con dân” với
Nước đã đúc kết thành truyền thống và hơn thế trở thành chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam. Một đánh giá rất có sức thuyết phục mang tính khoa học – thực
tiễn phản ánh tính quy luật hình thành chủ nghĩa u nước Việt Nam là truyền
thống yêu nước của con người Việt Nam. Đó khơng chỉ là tình cảm, một
phẩm chất tinh thần mà đã phát triển thành một chủ nghĩa – chủ nghĩa yêu
nước, chủ nghĩa dân tộc chân chính thành dòng chủ lưu của tư tưởng Việt
Nam, xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Từ sự phân tích những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trên
đây chúng ta có thể kết luận rằng: lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi ra đời đến
nay là lịch sử dựng nước đi đơi với giữ nước. Sự đồn kết, cố kết dân tộc,
11
thống nhất Tổ quốc là xu hướng cơ bản, chủ yếu của dân tộc ta. Trong mọi
thời kỳ lịch sử của dân tộc đều tồn tại, phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam - một sức mạnh tinh thần, vật chất mạnh mẽ trong sự nghiệp dựng nước,
giữ nước và phát triển của dân tộc Việt Nam.
* Nội dung của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam
Quan niệm về chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa yêu nước
là một trong những giá trị tinh thần có tính phổ quát ở mọi dân tộc. Không
một dân tộc nào trên thế giới lại không yêu mến Tổ quốc của họ. Tuy nhiên,
giữa các quốc gia dân tộc, do nhiều lý do khác nhau, làm cho quá trình hình
thành và phát triển chủ nghĩa yêu nước về bản chất cũng như đặc điểm khơng
hồn tồn giống nhau. Ở Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần
truyền thống cao nhất của dân tộc ta, là sự kết tinh tư tưởng và bản lĩnh của
Nhân dân ta trong quá trình đấu tranh chinh phục thiên nhiên khắc nghiệt để
dựng nước và trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để giữ nước.
Đó là lịng tha thiết u làng xóm, q hương, đất nước, tơn kính tổ
tiên, ơng bà, hiếu kính cha mẹ. Là sự q trọng tiếng nói, nền văn hóa và các
phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, là ý thức cộng đồng đồn kết, tình
đồng bào, gắn bó trong một quốc gia dân tộc. Là ý thức chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam trải
dài theo dòng lịch sử từ thời Vua Hùng dựng nước, đi qua tinh thần của Hai
Bà Trưng “đền nợ nước trả thù nhà”; của bà Triệu “không chịu cúi đầu, khom
lưng làm tỳ thiếp cho người”; đến thời Lý Thường Kiệt khẳng định thành văn
ý chí độc lập, chủ quyền dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Được vun
đắp qua thời Lê Lợi, Nguyễn Trãi, thành lý tưởng khát vọng dập tắt muôn đời
ngọn lửa chiến tranh xâm lược, xây dựng quan hệ hịa hiếu, bình đẳng giữa
các dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam còn được giương cao trong phong
trào nông dân Tây Sơn, với lãnh tụ thiên tài Quang Trung, thể hiện một ý chí
12
mãnh liệt của Nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ một Tổ quốc độc lập,
thống nhất và giàu mạnh. Yêu nước, quý trọng độc lập tự do đó trở thành lẽ
sống, phẩm chất đạo đức truyền thống của người dân nước ta, của toàn thể
dân tộc ta.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt
Nam đã hình thành nên một hệ thống chuẩn mực, được biểu hiện qua mấy đặc
trưng chủ yếu sau đây: 1) Tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì độc lập,
tự do của Tổ quốc, nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ;
2) Niềm tự hào về lịch sử, văn hóa, ngơn ngữ, phong tục tập quán và những
truyền thống tốt đẹp khác của dân tộc; 3) Yêu nước gắn liền với yêu dân, với
tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các
dân tộc lân bang,…
* Giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam
Tóm lại, chủ nghĩa u nước Việt Nam khơng đơn thuần chỉ là một tình
cảm mà là một hệ thống tư tưởng phong phú, nhiều điểm còn chờ sự phát
hiện, bổ sung của các nhà triết học và sử học.
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã phát huy sức mạnh vơ
địch của nó trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Từ thế kỷ thứ X đến
thế kỷ XX, trong điều kiện quá chênh lệch về tương quan lực lượng, dân tộc
Việt Nam, với sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, đã làm nên mười đại chiến
công chống ngoại xâm, liên tiếp trong mười thế kỷ. Đó là: Ngô Quyền đánh
thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng; Lê Hoàn phá Tống lần thứ nhất;
Lý Thường Kiệt phá Tống lần thứ hai; Trần Quốc Tuấn ba lần đại thắng quân
Nguyên; Lê Lợi đánh đuổi quân Minh; Quang Trung đại phá quân Thanh và
Hồ Chí Minh cùng với quân dân cả nước lần lượt đánh bại hai đế quốc lớn.
Đó là những chiến cơng hùng vĩ, được tạo nên bởi sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, mãi mãi rạng ngời trên trang sử nước nhà.
13
Sau khi giành độc lập cho đất nước, các chế độ phong kiến nối tiếp
nhau, lúc mạnh, lúc yếu. Tuy các triều đại Việt Nam lúc mạnh, lúc yếu nhưng
luôn thể hiện rõ ràng Việt Nam là đất nước độc lập, bờ cõi riêng, nước Nam là
của người Việt Nam.
Ý chí thống nhất đất nước, cịn được thể hiện rõ trong kiên quyết đấu
tranh chống lại sự chia cắt đất nước của các thế lực bên trong và bên ngoài.
Mâu thuẫn nội bộ của giai cấp phong kiến có lúc phát triển cao dẫn tới phân
chia thành Nam, Bắc triều, đàng trong, đàng ngoài kéo dài hàng trăm năm.
Nhưng mặc dù cho các thế lực cầm quyền âm mưu chia rẽ đất nước, trong
lịng người Việt, ý chí thống nhất đất nước vẫn được nuôi dưỡng và phát triển
không thế lực nào ngăn nổi.
Nét đặc sắc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là gắn bó dân với nước,
“dân là nước, nước là dân”. Trước họa ngoại xâm, cứu nước là để cứu dân,
giành độc lập đất nước cũng là để cứu dân, để giành lại quyền sống của mỗi
người. Chính vì vậy, trong các triều đại phong kiến đều biết phát huy tinh
thần yêu nước của các tầng lớp Nhân dân, đứng dưới ngọn cờ cứu nước để
đánh đuổi chống giặc ngoại xâm.
Chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn là triết lý chính trị của người Việt, tồn
tại xuyên suốt cả chiều dài lịch sử và đặc biệt bộc lộ rõ nét khi đất nước bị
xâm lăng. Chúng ta chiến đấu vì nền độc lập, tự chủ của mình, nên khi đã đạt
được mục tiêu, khi kẻ thù buộc phải thất bại thì ơng cha ta đều chủ động
giảng hịa để chấm dứt chiến tranh, mang lại hịa bình, ổn định cho đất nước,
cho muôn dân.
Từ thế kỷ X đến XV là giai đoạn phát triển mạnh mẽ, rực rỡ của chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam. Trên nền tảng của văn hóa Thăng Long và khn
khổ của chế độ phong kiến dân tộc, những thành tựu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, những tư tưởng, tình cảm yêu nước của dân tộc ta đến đây được quan
14
niệm một cách sâu sắc, hoàn chỉnh và được khẳng định trong hành động. Từ
đây chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được thể hiện là một hệ thống các quan
điểm, ngun tắc khá hồn chỉnh. Vì vậy có thể nói đến thế kỷ XV chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam cơ bản hoàn thiện.
Từ thế kỷ X đến XV là giai đoạn phát triển mạnh mẽ, rực rỡ của chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam. Trên nền tảng của văn hóa Thăng Long và khuôn
khổ của chế độ phong kiến dân tộc, những thành tựu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, những tư tưởng, tình cảm yêu nước của dân tộc ta đến đây được quan
niệm một cách sâu sắc, hoàn chỉnh và được khẳng định trong hành động. Từ
đây chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được thể hiện là một hệ thống các quan
điểm, ngun tắc khá hồn chỉnh. Vì vậy có thể nói đến thế kỷ XV chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam cơ bản hoàn thiện.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống là sức mạnh tư tưởng Việt
Nam – một nguồn sức mạnh to lớn được kết tinh hun đúc qua trường kỳ lịch
sử. Đó chính là tiền đề tư tưởng – văn hóa, nguồn gốc trực tiếp hình thành nên
chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh – bộ phận, nội dung quan trọng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.2. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại; cơ sở hình thành, nội
dung và giá trị của nó
“Chỉ nghĩa u nước Việt Nam hiện đại” là một quan niệm dùng để chỉ
một giai đoạn phát triển của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời đại Hồ
Chí Minh - yêu nước xã hội chủ nghĩa.
* Cơ sở hình thành
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thể hiện sức mạnh thông qua các phong
trào yêu nước, các cuộc khởi nghĩa, đấu tranh vũ trang. Các sĩ phu yêu nước
dưới ngọn cờ Cần Vương. Các trí thức yêu nước và khởi nghĩa Yên Bái của
Việt Nam Quốc dân Đảng.
15
Chính lịng u nước, thương dân đã hun đúc nên cốt cách Hồ Chí
Minh, bản lĩnh Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh để Người trở
thành biểu tượng cho cả dân tộc, thành anh hùng giải phóng dân tộc. Yêu
nước, thương dân, tình cảm tha thiết với dân, với nước, gắn bó giữa nước với
dân như là xuất phát điểm, cơ sở, nền tảng, là điểm tựa của tư tưởng Hồ Chí
Minh trong cả nội dung cũng như trong phương pháp tư tưởng của Người.
Yêu nước thiết tha, khao khát với sự nghiệp giải phóng đất nước, giành độc
lập cho dân tộc, tự do cho Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua bao
thăng trầm, vất vả, gian nan, tìm tịi học hỏi, tích lũy tri thức kinh nghiệm,
hoạt động thực tiễn để tìm đường cứu nước.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước đến với chủ
nghĩa Mác – Lênin. Người đã kết hợp chủ nghĩa yêu nước, phong trào công
nhân Việt Nam và chủ nghĩa Mác - Lênin, thành lập Đảng Cộng sản. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo Nhân dân ta giành lại được độc lập, thống
nhất Tổ quốc, chấm dứt gần một thế kỷ đô hộ của thực dân, đế quốc.
Chủ nghĩa yêu nước xuất phát từ tình u q hương, xứ sở trước hết là
xóm, làng, là cộng đồng làng, xã... Yêu quê hương, xứ sở là tình cảm gắn liền
với thiên nhiên và con người ở quê hương, gắn với cộng đồng. Tình yêu quê
hương xứ sở được mở rộng từ làng đến nước, giữ làng là để giữ nước, có
làng, có nước. Cộng đồng gia đình - làng, xã - Tổ quốc thấm đậm tư tưởng,
tình cảm thương nước, thương nhà, thương người, thương mình...
Bằng tất cả tấm lịng u nước, cốt cách kiên cường, trí thơng minh,
sáng tạo; xem xét, đánh giá q khứ, hiện tại, bên trong, bên ngồi, tiên đốn,
dự báo tương lai một cách khoa học. Người tìm ra con đường cứu nước, bắt
gặp Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế. Từ
tấm lịng yêu nước vươn tới chủ nghĩa dân tộc chân chính, từ đêm trường
nô lệ, khi những con đường cứu nước đều đi vào ngõ cụt, Nguyễn Ái Quốc
16
– Hồ Chí Minh với tấm lịng u nước, tìm đúng hướng đi cho dân tộc và
thành “vị cứu tinh vĩ đại nhất lịch sử thế giới”.
Yêu nước ở Hồ Chí Minh khơng chỉ dừng lại ở tìm tịi con đường
cứu nước giành độc lập dân tộc mà còn là ý thức, khát vọng làm cho đất
nước hịa bình, giàu mạnh, phồn vinh. Yêu nước ở Hồ Chí Minh gắn liền
độc lập tự do của đất nước và hạnh phúc của Nhân dân.
Trong ý niệm về Tổ quốc của con người Việt Nam bao giờ cũng có ý
niệm về quê hương cụ thể nơi họ sinh ra và lớn lên với bao hình ảnh thân
thương: cây đa, giếng nước, sân đình, con người cụ thể trên mảnh đất đó. Tổ
quốc chung, rộng lớn bao giờ cũng gắn với một cái làng riêng biệt. Trong
thực tế đã hình thành lên mối quan hệ Nhà - Làng - Nước trong sự hình thành,
phát triển của dân tộc Việt Nam, trong tổ chức nhà nước, trong tư tưởng, tình
cảm con người Việt Nam. Điều đó làm cho chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam có độ sâu sắc, mạnh mẽ và độc đáo.
Yêu nước của người dân Việt Nam là một tình yêu cụ thể, không trừu
tượng, từ yêu những cảnh quan thiên nhiên nơi mảnh đất họ sinh ra, đến tình
yêu Tổ quốc bao la. Tư tưởng yêu nước gắn với thương nòi, đã sản sinh ra
những hành động yêu nước rất cụ thể, hành động của chủ nghĩa anh hùng
trong sản xuất, chiến đấu hình thành nên những tình cảm yêu thương, đùm
bọc lẫn nhau của những người con Lạc, cháu Hồng.
Tình yêu quê hương, đất nước là một thành tố quan trọng của nhân
cách, là thứ “nhiên liệu” cao cấp chủ chốt nhất, thường trực nhất để khởi động
và duy trì nội lực ở mỗi con người cũng như của cả một dân tộc. Đối với nước
ta thì đó cịn là một nét tiêu biểu, nổi trội của tính cách Việt, mọi người Việt
Nam chân chính khơng thể khơng có nét tính cách đó. Vì vậy việc giáo dục
cho lớp trẻ Việt về tình u q hương, đất nước khơng những là một đòi hỏi
17
tất yếu, sống còn với mỗi con người, mà hơn thế còn là bức thiết đối với cộng
đồng xã hội chúng ta trong bối cảnh phức tạp hiện nay.
Chúng ta đều hiểu tình yêu quê hương được xây dựng từ cái gốc là
lòng yêu thương con người (lòng nhân ái), nó ln gắn bó với tình u gia
đình, nó dẫn ngay đến tình cảm huyết thống dịng họ, nó kéo theo tình làng
nghĩa xóm, tình nghĩa đồng bào.... và trên hết, cao hơn tất cả là tình yêu đất
nước Việt Nam.
Người Việt Nam yêu nước luôn hướng về cội nguồn, về ông bà, cha
mẹ, tổ tiên và quê hương của mình. Khi phải xa q hương, đất nước, ln
nhớ về quê hương, hướng về Tổ quốc, là nỗi nhớ thường trực mỗi lần xa quê,
là háo hức, mong chờ khi sắp được lên chuyến xe mang tên trở về, là lịng
thổn thức, lưu luyến khi phải rời xa q. Đó là tình cảm xuất phát từ trái tim.
Tình yêu đối với đồng bào, dân tộc, giống nòi chúng ta lại nhớ tới
những hoạt động xã hội được tổ chức hàng năm, các hoạt động và chăm sóc
sức khỏe cho người dân vùng sâu, vùng xa miễn phí hay các phong trào ủng
hộ người nghèo đón Tết, các hoạt động nhân đạo khác. Tình u q hương
cịn là u những gì thuộc về mảnh đất mà mình sinh ra ấy, yêu làng xóm, yêu
những con đường sỏi đá, yêu nắng, yêu gió dù thời tiết khắc nghiệt. Hơn hết
là yêu những con người thuộc về mảnh đất đó, thương dáng mẹ tảo tần nắng
mưa, thương dáng cha nhọc nhằn sớm hôm. Quê hương gắn với những con
người, những gương mặt mà đi đâu cũng nhớ về.
Khi đất nước ngày càng phát triển, q trình xây dựng nơng thơn mới
cũng được đẩy mạnh. Tình yêu quê hương đã được hiển hiện thành hành
động. Có nhiều người thành đạt, xa quê trở về xây dựng quê hương, đất nước.
Đó đều là những biểu hiện thiết thực nhất của tình yêu quê hương, làng xóm.
u q hương cịn phải có trách nhiệm với q hương, đó là trách nhiệm bảo
vệ, dựng xây. Trách nhiệm ấy không của riêng ai mà của tất cả mọi người,
18
hãy là những người có ích, học tập tốt để mai sau có thể đóp góp sức mình
đựng xây q hương. Đó là tình u lớn lao nhất.
Chủ quyền là thuộc tính chính trị pháp lý khơng thể tách rời của quốc
gia, bao gồm hai nội dung chủ yếu, đó là quyền tối cao của quốc gia trong
phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong các quan hệ
đối ngoại. Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ bao gồm những hành vi pháp lý cụ
thể khác nhau liên quan đến lãnh thổ để thực hiện quyền lực nhà nước, đặc
trưng cho nhà nước. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ ln
được xem là những vấn đề thiêng liêng, tối thượng đối với mỗi quốc gia. Chủ
quyền lãnh thổ quốc gia Việt Nam được xác định và quy định rõ ngay tại
Điều 1 Hiến pháp 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất
liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”.
Ý thức độc lập, tự chủ gắn liền với trách nhiệm bảo vệ chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Bảo vệ Tổ quốc cịn là bảo vệ nền
văn hóa dân tộc. Tiếp thu những cái hay, cái đẹp của nền văn hóa khác, xây
dựng nên một nền văn hóa của riêng mình.
Độc lập, tự chủ của Việt Nam hồn tồn khác về bản chất và luôn xa lạ
với tư tưởng biệt lập, khép kín, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và biệt phái. Độc
lập là thực hiện các quyền dân tộc cơ bản trong điều kiện cùng bảo đảm lợi
ích chính đáng của các dân tộc. Độc lập, tự chủ nhưng cần gắn với đoàn kết,
hợp tác quốc tế.
Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng của mỗi dân tộc.
Nguyên tắc chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia thiêng liêng và bất khả
xâm phạm là nguyên tắc xuyên suốt lịch sử ngàn năm của dân tộc
Việt Nam ta. Chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia Việt Nam là kết quả đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam suốt chiều dài hàng ngàn
19
năm lịch sử, từ thuở Hùng Vương dựng nước đến thời đại Hồ Chí Minh. Ý
thức bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đã chuyển
thành lòng yêu nước, chảy một mạch ngầm mãnh liệt trong đời sống con
người Việt Nam, truyền từ đời này sang đời khác. Dù phải trải qua hàng chục
cuộc chiến tranh lớn nhỏ, dưới ách đô hộ của các thế lực phong kiến, thực
dân, đế quốc, dân tộc Việt Nam ln phất cao hào khí anh hùng, lịng tự hào,
tự tôn dân tộc trong dựng nước và giữ nước, xây dựng và giữ gìn biên cương
lãnh thổ quốc gia, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là sự nghiệp
của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí thống nhất của Nhà nước,
lực lượng vũ trang là nòng cốt. Lãnh thổ và biên giới quốc gia là hai yếu tố
gắn bó chặt chẽ, khơng thể tách rời. Pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán
quốc tế đều thừa nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và biên
giới quốc gia. Lãnh thổ và biên giới quốc gia Việt Nam là một bộ phận hợp
thành quan trọng, không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
và là yếu tố cơ bản bảo đảm cho sự ổn định, vững chắc của đất nước Việt
Nam, là sự khẳng định, thể hiện chủ quyền của Nhà nước Việt Nam, bao gồm
cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong phạm vi lãnh thổ, gồm cả vùng
đất, vùng trời, nội thủy, lãnh hải và lãnh thổ đặc biệt của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc
gia dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước là một
nội dung đặc biệt quan trọng của xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, là sự nghiệp của tồn dân, trong đó trách nhiệm lớn thuộc về
lực lượng vũ trang. Trong thời đại ngày nay, kế thừa truyền thống anh hùng,
tinh thần quyết chiến quyết thắng, chúng ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân về tổ chức phù hợp với tình hình thực tiễn
của nhiệm vụ bảo vệ và phòng thủ đất nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Các
20
lực lượng vũ trang Nhân dân Việt Nam ra sức phấn đấu tạo nên bước phát
triển mới theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản
Việt Nam, vững mạnh về chính trị, thực sự trở thành lực lượng chính trị, lực
lượng chiến đấu tin cậy, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc và Nhân dân, với
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng biên giới hịa bình, hữu nghị, ổn định; giải quyết các vấn đề
tranh chấp thông qua đàm phán hịa bình, tơn trọng độc lập, chủ quyền và
tồn vẹn lãnh thổ, tơn trọng lợi ích chính đáng của nhau. Quan điểm này phù
hợp với lợi ích và luật pháp của Việt Nam, phù hợp với công ước và luật pháp
quốc tế, cũng như lợi ích của các quốc gia có liên quan. Đảng và Nhà nước ta
ln coi việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã
hội, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước. Với đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hịa bình, độc lập và phát triển; đồng thời, tăng cường hoạt động đối ngoại
tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước trong khu
vực và trên thế giới, tạo sự ủng hộ tích cực của bạn bè quốc tế đối với sự
nghiệp chính nghĩa của Nhân dân ta, để chúng ta vừa bảo vệ được chủ quyền
lãnh thổ, vừa giữ vững được mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất
nước.
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc là nhiệm vụ thường xuyên, hàng ngày, hàng giờ không được phép
sao nhãng, lơ là, nhưng cũng là cuộc đấu tranh lâu dài, kiên trì, bền bỉ với
những khó khăn, thử thách to lớn. Đây là sự nghiệp của toàn dân, của mọi
21
người Việt Nam, nhưng Đảng và Nhà nước ta, những người lãnh đạo và quản
lý đất nước, có vai trị và trách nhiệm to lớn.
Xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là một nội
dung quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được hình thành và phát triển
trong quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; là sự kế thừa và phát triển mới Tổ quốc, đất nước, dân
tộc và con người Việt Nam suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm dựng nước
và giữ nước trong điều kiện mới. Lãnh thổ và biên giới quốc gia Việt Nam là
một bộ phận hợp thành quan trọng, không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Lãnh thổ và biên giới quốc gia là yếu tố cơ bản bảo đảm cho
sự ổn định, bền chắc của đất nước Việt Nam. Chủ quyền lãnh thổ, biên giới
quốc gia là sự khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam, bao gồm cả
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong phạm vi lãnh thổ, gồm cả vùng
đất, vùng trời, nội thủy, lãnh hải và lãnh thổ đặc biệt của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên
giới quốc gia là một nội dung đặc biệt quan trọng của xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa không thể thành công nếu chủ quyền lãnh thổ, biên giới
quốc gia không được xây dựng và bảo vệ tốt, bị xâm phạm.
Các thế hệ người Việt Nam cũng luôn luôn sẵn sàng hy sinh vì độc lập
tự do của Tổ quốc. Nói về yếu tố quyết định để chiến đấu và chiến thắng của
người lính trên chiến trường, Lênin khẳng định: “Trong mọi cuộc chiến tranh,
rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu
trên chiến trường, lịng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ
rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em, là
yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những
22