Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN một số biện pháp tích hợp mô hình lớp học VNEN vào quá trình dạy học cho HS lớp4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.79 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
Phần I

Mở đầu

Trang
2

I

Lý do chọn đề tài.

2

II

Điểm mới của đề tài.

4

Phần 2

Nội dung

5

1

Thực trạng


5

1.1

Thuận lợi

5

1.2

Khó khăn

5

1.3

Điều tra, khảo sát

6

2.

Biện pháp thực hiện

7

3.

Kết quả thực hiện


17

Phần 3

Kết luận

19

1

Ý nghĩa, phạm vi sử dụng của đề tài

19

2

Đề xuất, kiến nghị

21

1


PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài.
Bước sang thế kỉ XXI , điều kiện kinh tế xã hội nước ta có những thay đổi
lớn. Đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu kinh tế,
trình độ phát triển sản xuất, khoa học kĩ thuật, nhu cầu xã hội, thu nhập quốc
dân có những bước phát triển quan trọng. Vấn đề hội nhập, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc, vấn đề về kinh tế tri thức, công nghệ thông tin đều phát

triển theo xu hướng quốc tế hoá. Trong điều kiện kinh tế, xã hội phát triển như
vậy thì nhận thức của con người ngày càng cao, nhu cầu học tập của học sinh là
tất yếu, có vai trò quan trọng góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Để
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, ngành giáo dục không ngừng mở các lớp đào
tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên. Thường xuyên mở
các lớp hội thảo, tập huấn nghiệp vụ sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học
cho giáo viên nói chung và giáo viên Tiểu học nói riêng.
Hiện nay, mô hình Trường học mới ở bậc Tiểu học là một mô hình dạy học
hướng người học đến những hoạt động tích cực đã mang lại những hiệu quả
đáng kể là mối quan tâm lớn của những người làm công tác giáo dục. Vậy mô
hình giáo dục Trường học mới có điểm gì đáng chú ý? Mô hình Trường học
mới( VNEN) là một mô hình nhà trường hướng tới việc đáp ứng các yêu cầu
của ĐMPP, thể hiện qua một số đặc điểm cơ bản: Học sinh được học theo tốc độ
phù hợp với nhận thức của cá nhân; nội dung học thiết thực, gắn kết với thực
tiễn đời sống hằng ngày của học sinh; Kế hoạch dạy học được bố trí linh hoạt;
môi trường học tập thân thiện, phát huy tinh thần dân chủ, ý thức tập thể; tài liệu
học có tính tương tác cao và là tài liệu hướng dẫn học sinh (HS)tự học; chú
trọng kĩ năng làm việc theo nhóm hợp tác; phối hợp chặt chẽ giữa phụ huynh,
cộng đồng và nhà trường. Lúc này, trọng tâm dạy học không chỉ là truyền thụ
kiến thức mà còn phải lồng ghép những kỹ năng để hình thành nên quá trình học
tập và phát triển nhân cách của HS. So sánh phương pháp dạy học truyền thống
với phương pháp dạy học theo mô hình VNEN đòi hỏi bằng kinh nghiệm của
mình, GV phải biết gợi mở, hỗ trợ để HS tìm ra kiến thức. Không khí học tập
2


của lớp học VNEN sôi nổi hơn hẳn khi bàn ghế được sắp xếp lại từng cụm để
HS học tập theo nhóm, mỗi nhóm có nhóm trưởng và các thành viên. Việc học
của HS chủ yếu thông qua đối thoại và hợp tác. Qua 2 năm thực hiện thí điểm
mô hình lớp học VNEN đã mang lại những hiệu quả đáng ghi nhận. Đối với

trường nơi bản thân tôi đang trực tiếp giảng dạy, xu hướng của nhiều giáo viên
sử dụng phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là
các phương pháp học truyền thống. Giáo viên chủ yếu trình bày bài giảng còn
học sinh lắng nghe. Các phương tiện dạy học tuy có được sử dụng hợp lý hơn
nhưng vẫn nặng về thầy khai thác cho trò nắm tri thức. Việc học của học sinh
phụ thuộc vào khâu tổ chức của giáo viên, giáo viên tổ chức dạy thế nào thì học
sinh học theo đó. Học sinh lên lớp ngồi nghe - ghi nhớ kiến thức mà thầy truyền
đạt sau đó tái hiện lại, trong giờ học các em ngồi nhìn lên bảng và nghe giảng là
chủ yếu. Chính vì vậy mà học sinh rất rụt rè, nhút nhát trong các hoạt động, đặc
biệt là rụt rè trong việc nêu ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình từ đó hình thành
tâm lý ngại trình bày và tư duy còn hạn chế.
Từ những ưu điểm của mô hình Trường học mới và thực tế giảng dạy ở
trường như trên, tuy điều kiện cơ sở vật chất nhà trường chưa đảm bảo để vận
dụng mô hình VNEN vào dạy trên tất cả các khối lớp, nhưng Ban giám hiệu nhà
trường đã mạnh dạn chỉ đạo GV thực hiện tích hợp những mặt tích cực của mô
hình VNEN vào dạy trong chương trình hiện hành. Đây là biện pháp để nâng
cao chất lượng GD toàn diện đồng thời là điều kiện để GV - HS làm quen với
mô hình dạy học mới, thực hiện tốt hơn trong thời gian triển khai đại trà . Trong
quá trình thực hiện, bản thân tôi là một giáo viên đứng lớp, trực tiếp dạy lớp 5,
lúc nào cũng băn khoăn, trăn trở, mong tìm ra những mặt tích cực của mô hình
lớp học này, để vận dụng vào trong quá trình dạy học. Từ những lí do trên đã
giúp tôi tìm ra và vận dụng tốt mô hình lớp học VNEN và mang lại hiệu quả
đáng kể vào quá trình giảng dạy của mình, xin chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp
qua sáng kiến kinh nghiệm: “ Một số biện pháp tích hợp mô hình lớp học
VNEN vào quá trình dạy học cho HS lớp4”.
3


II. Điểm mới của đề tài:
Trong tình hình hiện nay, việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm đòi hỏi ở

học sinh một yêu cầu cao, đó là học sinh phải độc lập, tự giác, sáng tạo trong
học tập. Quá trình dạy học này gồm hai mặt quan hệ hữu cơ với nhau: Hoạt
động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Điều đáng chú ý là trong
học tập là phải hoạt động một cách tích cực, chủ động có nhận thức sâu sắc.
Bằng hoạt động học tập học sinh tự hình thành và phát triển nhân cách của mình
không ai có thể làm thay được.
Đối với phương pháp dạy học theo mô hình VNEN cho HS tiểu học đã có
nhiều tài liệu đề cập, nhiều hội thảo nói đến, tuy nhiên năm học 2014-1015 vừa
qua, lần đầu tiên trường tôi đã được ngành giáo dục chỉ đạo thực hiện tích hợp
những mặt tích cực của mô hình này vào dạy học chương trình hiện hành. Vì
vậy, sáng kiến kinh nghiệm này lần đầu tiên được nghiên cứu và áp dụng, cụ
thể:
+ Nghiên cứu về mô hình Trường học Việt Nam( VNEN).
+ Vận dụng những ưu điểm trong mô hình VNEN về thay đổi không gian
lớp học, xây dựng nhóm học thân thiện, dạy học theo nhóm nâng cao tính tương
tác giữa các thành viên trong nhóm.
+ Chỉ ra những biện pháp thực hiện cụ thể nhằm tạo cơ hội cho học sinh
phát huy tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin hứng thú trong học
tập. Giúp các em phát huy tốt các kĩ năng: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ
năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học. Đem lại hiệu quả cao trong việc nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh lớp mình phụ trách.

4


PHẦN II: NỘI DUNG
1. Thực trạng.
Qua thực tế lớp tôi đang phụ trách còn có nhiều HS chưa mạnh dạn tự tin,
còn e dè thụ động trong học tập và trong sinh hoạt chung; kĩ năng giao tiếp còn
hạn chế, chưa biết cách diễn đạt, trình bày ý kiến cá nhân. Chất lượng giáo dục

toàn diện còn ở mức hạn chế.
1.1 Thuận lợi:
- Đa số học sinh đều ngoan, có ý thức ham học, mưu cầu tiến bộ.
- Phần đông phụ huynh đã quan tâm đến việc học tập của con em mình nên
đã mua sắm đầy đủ sách giáo khoa, vở và học cụ cho học sinh, thường xuyên
nắm bắt tình hình học tập của con em mình từ GVCN lớp.
- Giáo viên nắm từng đối tượng học sinh của lớp mình phụ trách.
- Chi bộ, Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo sâu sát về công
tác đổi mới phương pháp dạy học đặc biệt chỉ đạo việc vận dụng mô hình lớp
học VNEN vào dạy học.
Bên cạnh những thuận lợi, khi vận dụng dạy học theo lớp học VNEN cũng
gặp không ít khó khăn.
1.2 Khó khăn:
- Người giáo viên phải làm rất nhiều ĐDDH (chủ yếu là phiếu học tập).
- Chuyển đổi từ phương pháp truyền thống qua phương pháp học tích cực
một cách đột ngột, nên không khỏi gây cho GV, HS và phụ huynh tâm lý hoang
mang sợ học sinh không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học
sinh trung bình, yếu.
- Cơ sở vật chất, không gian lớp học và bàn ghế chưa đạt chuẩn và
kinh phí để trang trí lớp học cũng là một vấn đề ảnh hướng tới lớp học
vận dụng theo mô hình VNEN.
- Công tác quản lí, chỉ đạo của nhà trường cũng là một vấn đề cần
được chú trọng: cần một sự tâm huyết, tự học tự nghiên cứu và tổ chức
hướng dẫn cho giáo viên cụ thể, điều chỉnh hợp lí, chu đáo… không
5


chỉ cho một giáo viên mà nhiều giáo viên có trình độ nhận thức khác
nhau.
- Về học sinh: Thực tế trong năm học này, lớp 5A do tôi phụ trách có nhiều

em còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin; còn thụ động trong học tập và sinh hoạt
chung. Một số em chưa biết cách diễn đạt, trình bày, ứng xử có phần còn mang
tính “ tuỳ tiện ”. Một số ít em tiếp thu bài còn chậm nhưng chưa dám hỏi bạn,
hỏi cô giáo những điều mình chưa biết.
1.3. Điều tra khảo sát, thống kê một số kĩ năng:
* Khảo sát nội dung: “Thảo luận nhóm” qua quan sát HS thực hành
thảo luận nhóm trong một số tiết Khoa học- Lịch sử - Địa lí.

TSHS
25

Thực hành thảo luận nhóm
Chưa biết cách lắng nghe, hay
Biết cách lắng nghe, hợp tác
tách ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%
15
60
10
40

* Khảo sát về chất lượng môn Toán- Tiếng Việt đầu năm học:
Môn

Giỏi
SL


%

Khá
SL

Toán

Tiếng Việt

%

TB
SL

6

24

7

28

8

32

9

36


2. Biện pháp thực hiện:

6

%

Yếu
SL

%

7

28

4

16

5

20

4

16


Để vận dụng dạy học theo mô hình trường học mới VNEN đạt hiệu quả cao
trong giai đoạn hiện nay khi một số yêu cầu cho mô hình còn chưa được đáp

ứng, trước mắt theo tôi người giáo viên cần thực hiện một số biện pháp sau:
2.1. Biện pháp 1: Tìm hiểu kĩ về mô hình lớp học VNEN: Cấu trúc,
chương trình, sách giáo khoa, hình thức tổ chức dạy học…
Muốn vận dụng tốt mô hình VNEN vào quá trình dạy học, GV phải tìm hiểu
kĩ về mô hình này. Ngoài các chuyên đề cấp trường, cấp cụm đã thảo luận,
những chỉ đạo mang tính định hướng của trường, ngành trong vận dụng mô hình
VNEN, tuy nhiên GV phải tự tìm hiểu, nghiên cứu thêm, có nắm kĩ thì mới tìm
ra được những mặt tích cực để vận dụng một cách phù hợp vào giảng dạy. Một
số điểm cần lưu ý trong mô hình VNEN như sau:
*Về cấu trúc mô hìnhh VNEN:
- Mô hình VNEN giữ nguyên nội dung, chuẩn kiến thức, kĩ năng và kế hoạch
dạy học theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Bài học mô hình VNEN được cấu trúc theo một đơn vị kiến thức hoàn
chỉnh, nhằm giải quyết trọn vẹn, liên tục một vấn đề: hình thành, củng cố, vận
dụng, ứng dụng kiến thức vào thực tế.
- Quy trình, cấu trúc 5 bước của mô hình VNEN: Gợi động cơ, tạo hứng thú
học tập cho HS - Trải nghiệm - Phân tích, khám phá, rút ra bài học - Thực hành
- Vận dụng.
* Mỗi bài học thiết kế từ 12-15 hoạt động với các nội dung chính như
sau:
+ Mục tiêu bài học;
+ Hoạt động cơ bản
+ Hoạt động thực hành
+ Hoạt động ứng dụng;
- HĐ cơ bản: Giúp HS trải nghiệm, tìm tòi, khám phá, phát hiện kiến thức
mới thông qua hoạt động. ( HS hoạt động theo nhóm, cặp đôi, cá nhân và hoạt
động chung cả lớp).
7



- HĐ thực hành: Giúp HS áp dụng trực tiếp kiến thức đã học, củng cố kiến
thức, rèn luyện kĩ năng.
- HĐ ứng dụng: Giúp HS vận dụng kiến thức vào thực tế, cùng với sự giúp
đỡ của cha mẹ, người lớn.
Để tổ chức cho HS học tập, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện đúng
quy trình 10 bước lên lớp của mô hình VNEN:
1. Em học tập theo nhóm;
2. Em ghi đầu bài vào vở;
3. Em đọc mục tiêu bài học;
4. Em bắt đầu thực hiện hoạt động cơ bản ;
5. Kết thúc hoạt động cơ bản, em báo cáo với thầy, cô giáo;
6. Em bắt đầu hoạt động thực hành;
7. Em bắt đầu hoạt động ứng dụng;
8. Em đánh giá cùng thầy, cô giáo;
9. Em tự đánh giá vào bảng đo tiến độ;
10. Em đã hoàn thành bài học hay còn phải học lại những phần nào;
Điều dễ nhận thấy ở một tiết học của mô hình Trường học mới đó là không
khí lớp học rất sôi nổi. Việc trao đổi giữa HS và GV tỏ ra đơn giản và thường
xuyên; các em HS được chia thành các nhóm nhỏ để cùng học, khi có gì khó
không thể giải đáp được, HS sẽ yêu cầu sự trợ giúp từ GV bằng cách sử dụng
mặt khóc để cứu trợ.
Sự phân công công việc trong một nhóm rất rõ ràng, mỗi người một nhiệm
vụ, những HS yếu cũng được tham gia và bình đẳng như các bạn khác trong
nhóm. Điểm khác biệt lớn nhất là trước kia để đánh giá được mức độ hiểu bài
của HS sau mỗi tiết học, cô giáo cũng chỉ có thể kiểm tra một vài HS thì ở mô
hình này, tất cả các học sinh đều được các bạn khác trong nhóm, thậm chí là các
thành viên nhóm khác kiểm tra nên không xảy ra tình trạng “giấu dốt”.
Với cách thức hoạt động như vậy nên vai trò của GV trong lớp học chỉ là
định hướng và theo dõi hoạt động nhóm của HS. Khi phát hiện có nhóm cần sự
8



trợ giúp thì lúc đó GV mới tham gia hướng dẫn. Nói một cách khác là GV gần
như là giao lớp học cho chính các em HS tự quản.
2.2. Biện pháp 2: Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức
của HS.
Việc xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức của học sinh
gồm: xác định những kiến thức, kĩ năng( KT, KN) mà HS đã có và cần có; dự
kiến những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải
quyết.
Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng vận dụng mô hình
VNEN, GV không những phải nắm vững nội dung bài học mà còn phải hiểu HS
để lựa chọn PPDH, phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học và đánh
giá cho phù hợp. Như vậy, trước khi soạn giáo án cho giờ học mới, GV phải
lường trước các tình huống, các cách giải quyết nhiệm vụ học tập của HS. Nói
cách khác, tính khả thi của giáo án phụ thuộc vào trình độ, năng lực học tập của
HS, được xuất phát từ : những KT, KN mà HS đã có một cách chắc chắn, vững
bền; những KT, KN mà HS chưa có hoặc có thể quên; những khó khăn có thể
nảy sinh trong quá trình học tập của HS. Bước này chỉ là sự dự kiến; nhưng
trong thực tiễn, có nhiều giờ học do không dự kiến trước, GV đã lúng túng trước
những ý kiến không đồng nhất của HS với những biểu hiện rất đa dạng, đặc biệt
trong vận dụng mô hình VNEN việc tích cực, sáng tạo ở HS được đặt ra rất cao.
Do vậy, GV nên dành thời gian để nắm bắt, phân loại đối tượng, kết hợp với
kiểm tra đánh giá thường xuyên để có thể dự kiến trước khả năng đáp ứng các
nhiệm vụ nhận thức cũng như phát huy tích cực vốn KT, KN đã có của HS.
2.3. Biện pháp 3: Tăng cường tự học, nghiên cứu bài dạy trước khi lên
lớp. Tự làm những ĐDDH đơn giản, dễ làm, phù hợp, nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
Để thiết kế bài giảng, chuẩn bị các tình huống sư phạm, những đồ dùng dạy
học cho một tiết học cụ thể, GV phải xác định kĩ mục tiêu, nội dung yêu cầu của

bài học để lựa chọn PPDH cho phù hợp. Xác định mục tiêu, nội dung bài học
thường căn cứ vào các trường hợp sau:
9


Trường hợp 1: Đối với dạy bài mới thì có thể lựa chọn PPDH trực quan và
kết hợp với làm việc theo nhóm để tìm ra kiến thức.
Ví dụ: Diện tích tam giác ( Toán lớp 5).
Để hình thành cách tính diện tích một hình nói chung và diện tích hình tam
giác nói riêng có tính chất khái quát và trừu tượng. Với trình độ của HS tiểu
học, GV không thể sử dụng kiến thức cao cấp để trình bày. Do đó, với bài học
này, GV nên sử dụng PPDH trực quan kết hợp với các PPDH khác (vấn đáp,
quan sát) để tổ chức hoạt động dạy học.
Khi sử dụng PPDH trực quan để hình thành biểu tượng mới cho HS, GV cần
biết cách lựa chọn, sử dụng, bố trí hình ảnh, đồ dùng trực quan hợp lý và tăng
dần mức độ khái quát, trừu tượng để rèn tư duy cho HS; biết cách hướng dẫn
HS hoạt động trên hình ảnh trực quan, đồ dùng trực quan để nhận dạng và tạo ra
biểu tượng mới.
Sau đó, để kiểm nghiệm kết quả, phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh
thần hợp tác của HS, GV có thể lựa chọn, sử dụng PPDH hợp tác theo nhóm
nhỏ để tổ chức hoạt động thực hành làm các bài tập tiếp theo.
Trường hợp 2: Đối với dạy bài luyện tập thì có thể lựa chọn luyện tập kết
hợp với làm việc theo nhóm vận dụng những kiến thức đã học vào làm bài tập.
Ví dụ: Trong tiết luyện tập: Luyện tập về từ đồng nghĩa( LTVC lớp 5).
Để vận dụng kiến thức đã học ở tiết trước vào làm bài tập, GV tổ chức cho
nhóm trưởng điều hành các thành viên thực hiện các hoạt động học tập:
Bước 1 của hoạt động nhóm là tất cả các thành viên đều làm việc cá nhân để
thực hiện yêu cầu các bài tập: Bài tập 1: Tìm những từ đồng nghĩa trong đoạn
văn; bài tập 2: Xếp các từ thành nhóm từ đồng nghĩa; bài tập 3: Viết một đoạn
văn tả cảnh khoảng 5 câu, trong đó có dùng một số từ đã dùng ở bài tập 2.

Bước 2: Học sinh trao đổi kết quả bài làm với nhau theo cặp đôi;
Bước 3: Nhóm trưởng huy động kết quả của nhóm; Đại diện nhóm trình kết
quả trước lớp.
Sau phần trình bày của các nhóm, GV chốt và khắc sâu kiến thức.
10


Trường hợp 3: Nếu nội dung bài học yêu cầu ôn tập, hệ thống kiến thức thì
GV lựa chọn, sử dụng PPDH Ôn tập – Hệ thống hóa kiến thức để tổ chức hoạt
động dạy học.
Ví dụ: Trong tiết: Ôn tập: Vật chất và năng lượng( Khoa học lớp 5)
Để giúp HS ôn tập, hệ thống kiến thức đã học, GV chuẩn bị sẵn các câu hỏi
vào phiếu học tập và yêu cầu các nhóm thực hiện hoạt động ôn tập dưới sự điều
khiển của các nhóm trưởng: Trả lời theo các câu hỏi ôn tập từ câu 1 đến câu 7 ở
phiếu. Sau khi thực hiện xong nhiệm vụ, GV cho HS trở về toàn lớp để huy
động kết quả thảo luận của các nhóm thông qua trò chơi: “Ai nhanh ai đúng” để
điền vào các ô chữ sao cho phù hợp.
Phần GV chốt và khắc sâu kiến thức cần có hệ thống câu hỏi, mở rộng các
nội dung có liên quan đến bài học. Cuối hoạt động trò chơi, GV có thể hỏi HS:
Sự biến đổi hóa học của các chất: lớp gỉ sắt màu nâu; lớp gỉ đồng màu xanh trên
chiếc mâm đồng; từ vôi sống trở thành vôi tôi.. xảy ra trong những điều kiện
nào?
Như vậy, tùy từng loại bài cụ thể, để GV có những lựa chọn các PPDH, hình
thức tổ chức phù hợp song tất cả đều hướng tới mục tiêu: Học sinh được phát
huy tối đa tính tích cực, chủ động, tinh thần hợp tác, chia sẻ trong nhóm. Học
sinh được rèn luyện cách học, cách tư duy. Học sinh được tự học, hoạt động, trải
nghiệm, hợp tác từ đó có được năng lực mới (kiến thức, kĩ năng, các phẩm
chất, yếu tố khác của năng lực). Và giáo viên luôn chỉ ở góc độ tư vấn, hỗ trợ, tổ
chức quá trình tự học của HS.
2.4. Biện pháp 4: Thay đổi không gian lớp học phù hợp với thực tế, tổ

chức các hoạt động dạy học linh hoạt phát huy tính tích cực sáng tạo của học
sinh.
Không gian lớp học được bố trí với nhiều thông tin. Có “góc cộng đồng” với
những tấm hình về người lao động và các ngành nghề. Có bản đồ “đường em
đến lớp” trong đó mỗi học sinh sẽ dán hình của mình tương ứng với vị trí nhà
mình trên bản đồ. Có các hộp thư: hộp thư điều em muốn nói, hộp thư cam kết,
11


hộp thư gửi bạn. Có góc lịch sử, góc địa lý, góc thư viện, góc sản phẩm… Tất
cả đều là những sản phẩm tự làm của cô và trò mà không lớp nào giống lớp nào.
Thay đổi không gian lớp học ở đây cũng thể hiện ở việc thay đổi tư thế ngồi
học. Lâu nay chúng ta vẫn luôn có thói quen để học sinh ngồi học theo các dãy
bàn mắt hướng lên bảng, giờ được thay thế bằng các nhóm học tập. Bàn ghế
được sắp xếp theo hình chữ U, các nhóm hoặc các học sinh trong nhóm được
ngồi đối diện nhau để thuận tiện trong việc học nhóm, tạo hứng khởi cho các em
trong học tập. Không gian này có thể thay đổi từng tuần tùy theo đặc trưng của
từng môn học và để đảm bảo cho học sinh được thay đổi vị trí, tránh trường
hợp ngồi lệch so với bảng trong thời gian dài.
Ví dụ: trong một tiết học toán: Cộng số đo thời gian ( SGK lớp 5 trang 131)
Thay cho tiết học toán thường là khô khan thì tiết học toán của lớp bắt đầu với
không khí gần giống với một tiết… ngoại khóa. Ghép đôi hai dãy bàn, từng
nhóm học sinh ngồi quay mặt lại với nhau. Có tất cả 5 nhóm được xếp hình chữ
U, mỗi nhóm có 6 em( riêng nhóm ở đáy chữ U là nhóm có 8 em). Trên bàn của
mỗi nhóm là một chiếc sọt nhỏ đựng dụng cụ học tập riêng của nhóm: bút lông,
bút màu, thước kẻ, miếng xốp xóa bảng… Mỗi nhóm có hai biểu tượng mặt
cười và mặt khóc do giáo viên làm bằng bìa cứng hoặc tấm xốp, sử dụng trong
giờ làm bài tập.
Sau phần khởi động với trò chơi “ Rung chuông vàng” với nội dung là đổi
các đơn vị đo thời gian. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu ví dụ 1 theo

hình thức toàn lớp để chỉ ra: Tìm thời gian ô tô đi từ Hà Nội đến Vinh ta phải
thực hiện phép tính cộng: 3 giờ 15 phút + 2 giờ 35 phút = ?
Học sinh lấy học cụ là những tờ bìa màu vàng có in sẵn các con số, đơn vị đo
thời gian và con dấu để học sinh ghép lại thành phép cộng và kết quả thích hợp.
Các bạn trong nhóm chụm đầu thảo luận. Thảo luận xong thì chạm tay lại, rồi
giơ biểu tượng mặt cười. Nhóm nào làm xong nhưng chưa tự tin vào đáp án của
mình thì gọi cô giáo bằng cách đưa biểu tượng mặt khóc. Lúc này, giáo viên tới
gần nhóm giúp học sinh thảo luận về đáp án.
12


Giáo viên nhận xét về kết quả của các nhóm, có lời khen cho nhóm làm
nhanh nhất và nhắc “nhóm chậm hơn cố gắng để lần sau có kết quả nhanh hơn”.
Tiết học “Cộng số đo thời gian” trôi qua nhẹ nhàng như thế.
Với tiết Luyện từ và câu: Từ trái nghĩa (Tiếng Việt 5 ).
Ở bài tập 1, giáo viên yêu cầu học sinh tìm các từ trái nghĩa trong các câu
thành ngữ, tục ngữ:
a. Ăn ít ngon nhiều.
b. Ba chìm bảy nổi.
c. Nắng chóng trưa, mưa chóng tối.
d. Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho.
GV yêu cầu các nhóm thi đua nhau tìm nhanh cặp từ trái nghĩa. Nhóm nhanh
nhất là nhóm nghĩ ra đáp án, viết vào tấm bảng hình chiếc lá và chạy đính lên
bảng bằng một miếng dán nam châm. Không khí thi đua sôi nổi khi nhóm nào
cũng muốn viết nhanh và đẹp để dành phần thắng. Cả những học sinh ngày
thường rất nhút nhát khi giơ tay phát biểu nhưng khi sinh hoạt nhóm lại tự tin
hẳn lên và tham gia tìm từ cùng các bạn.
2.5. Biện pháp 5: Quan tâm đến học sinh yếu và phát triển tư duy cho học
sinh giỏi đúng lúc.
Dạy học theo mô hình VNEN, việc mà GV cảm thấy khó nhất là thể hiện

phân hóa đối tượng trong tổ chức các hoạt động. GV phải chọn thời gian thích
hợp để tiếp sức cho HSY và nâng cao, mở rộng kiến thức cho HSG.
Đối với học sinh yếu, GV tiếp sức trong quá trình các nhóm làm việc bằng
cách dùng các câu hỏi gợi mở để hướng dẫn các em làm bài tập. Cuối mỗi hoạt
động, kiểm tra phần kiến thức cơ bản luôn dành cho đối tượng học sinh này.
Ngoài sự tiếp sức của GV, phát huy tối đa vai trò của nhóm trưởng về việc kiểm
tra, giúp đỡ, hướng dẫn thêm cho bạn của mình.
Đối với học sinh giỏi, việc mở rộng và nâng cao kiến thức phải trên cơ sở
học sinh đó nắm chắc các kiến thức cơ bản, sử dụng các kiến thức đã học một
cách linh hoạt, sáng tạo. Biết kích thích, gợi mở để các em có nhu cầu vận dụng
13


kiến thức đó. Có như vậy việc nâng cao kiến thức mới thực sự phát huy được
hiệu quả cao.
Để phát triển, mở rộng và nâng cao kiến thức cho học sinh, giáo viên cần
xuất phát từ các bài toán đơn giản, dễ hiểu. Qua mỗi bài, hay hệ thống bài, giáo
viên cần cho học sinh khái quát chung được cách giải. Giúp các em hiểu sâu,
nhớ lâu và hình thành kĩ năng giải các bài toán đó.
Khi học sinh đã nắm chắc cách giải thông thường, giáo viên nên khuyến
khích các em tìm nhiều cách giải khác, nhằm phát huy khả năng tư duy, gây
hứng thú học tập, học sinh học giỏi không mất thời gian chờ đợi những học
sinh học kém hơn.
GV cần thiết kế được các bài tập phù hợp cho các đối tượng học sinh trong
lớp, sao cho nội dung dạy học vừa sức, không bị quá tải song vẫn phát huy được
khả năng sáng tạo và năng khiếu của học sinh. Bài tập nâng cao giáo viên
chuẩn bị trước viết sẵn vào phiếu, quan sát quá trình làm bài của học sinh để
phát hiện những em làm bài xong quá sớm so với thời gian làm bài chung của
cả lớp. GV đặt phiếu ghi bài tập nâng cao vào hộp thư và thông báo cho những
em đó lên hộp thư của mình lấy bài tập về làm thêm.

Ví dụ 8: Bài: Diện tích hình tam giác (SGK Toán 5, trang 87).
GV tìm hiểu mục tiêu, kĩ năng kiến thức cần hình thành cho HS (khắc sâu
công thức tính diện tích tam giác; biết được sự phụ thuộc các đại lượng trong
công thức tính diện tích, rèn kĩ năng tính diện tích tam giác). Từ đó, dự kiến
chuẩn bị một số bài tập nâng cao để rèn tư duy cho học sinh giỏi:
Bài tập: Cho  ABC, đường cao * Yêu cầu 1: Diện tích hình tam giác ABC
AH = h, BC = a; AC = b; AB = c.

a) Cạnh BC tăng lên gấp 2 lần.

A
c

b

b) Chiều cao AH giảm đi một nửa.

h

B

H

(Hình 4) thay đổi như thế nào nếu:

a

M

Hình 4


C

* Yêu cầu 2: Điểm M nằm vị trí nào trên
cạnh BC để điện tích hình tam giác ABM
bằng 1/2 diện tích hình tam giác ABC;
14


Với những hoạt động này, GV luyện tập cho HS biết xác định sự phụ thuộc
của các giá trị (diện tích, độ dài đáy, đường cao); qua đó, GV rèn luyện tư duy
sáng tạo cho học sinh giỏi.
Trong quá trình vận dụng mô hình VNEN vào dạy học, GV không nên nghĩ
hoạt động nhóm là cứ nhất nhất phải nhóm từ đầu đến cuối tiết học mà nên hiểu
mục tiêu giáo dục hiện nay là cá thể hóa, chứ không phải là dạy cho 35-40 HS.
Trong quá trình hoạt động nhóm, nếu gặp những tình huống khó đa số học sinh
không tự giải quyết được, thì giáo viên trở về hoạt động toàn lớp để hướng dẫn,
tiếp sức. Quá trình dạy không phải chỉ là truyền đạt kiến thức mà còn là phát
triển năng lực, năng khiếu, phẩm chất của người học. Nên gợi ra các ý để HS tự
suy nghĩ, đánh giá, hạn chế việc hướng dẫn, giải thích. Khi đưa vào áp dụng thì
GV không nên áp đặt, rập khuôn. Vận dụng mô hình tổ chức sao cho phù hợp
với trường, lớp và đối tượng HS như vậy mới đạt được hiệu quả.
2.6. Biện pháp 6: Những kinh nghiệm trong việc tổ chức kiểm tra đánh
giá học sinh.
Đánh giá học sinh là một khâu rất quan trọng nhằm: Nắm được năng lực tiếp
thu bài của học sinh trong lớp để đặt ra yêu cầu học tập đối với từng học sinh:
yêu cầu cao hơn đối với học sinh giỏi, yêu cầu ở mức độ cơ bản đối với học sinh
trung bình và yếu. Thu thập thông tin phản hồi về cách dạy của GV để điều
chỉnh sao cho phù hợp, bổ khuyết những điểm yếu của học sinh. Có nhiều
phương pháp đánh giá kết quả học tập của học sinh, phương pháp đánh giá nào

cũng có ưu điểm và nhược điểm, không có phương pháp nào là hoàn hảo mọi
mặt, do đó không nên cực đoan đề cao hoặc bác bỏ một phương pháp nào mà
phải nghiên cứu chúng thấu đáo để sử dụng đúng lúc, đúng chỗ. Bất kể hoạt
động nào cũng cần kiểm tra đánh giá, đây là cũng việc cần thiết trong công tác
giảng dạy của giáo viên. Các em ở lứa tuổi này còn ham chơi, nếu giáo viên
không thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở thì các em sẽ lơ là trong học tập. Bởi
vậy giáo viên cần kiểm tra để động viên khuyến khích kịp thời, tạo động lực học

15


tập cho các em. Đồng thời rèn các em có tính siêng năng, thấy được những thiếu
sót của mình để sữa chữa, khắc phục.
GV cần vận dụng cách đánh giá HS theo nhiều chiều: GV đánh giá học sinh,
học sinh đánh giá lẫn nhau và nêu cao ý thức tự đánh giá ở mỗi học sinh để biết
mình đã hoàn thành những nội dung nào qua bài học và những nội dung nào
chưa thực hiện được để có kế hoạch phấn đấu vươn lên.
2.7. Biện pháp 7: Công tác phối kết hợp giữa giáo viên và phụ huynh học
sinh.
Để nâng cao chất lượng giáo dục, giáo viên chủ động gặp gỡ và trao đổi tình
hình học tập của con em đến tận từng phụ huynh, giúp họ biết được tình hình
học tập của con em mình để cùng hợp tác khắc phục. Có thể giới thiệu với phụ
huynh phương pháp giáo dục mới vận dụng mô hình VNEN, từ đó đồng tình,
ủng hộ với phương pháp giáo dục mới, đồng thời biết cách hướng dẫn các em
cách học ở nhà, tránh tình trạng bắt các em học quá tải, hoặc xỉ mắng khi các
em chưa làm được bài tập gây tổn thương tinh thần cho các em, làm các em
thiếu tự tin trong học tập. Cuối học kì, cuối năm học giáo viên cần có đánh giá
tổng kết, thông báo kết quả tiến bộ của HS đến tận phụ huynh, giúp học sinh có
thêm nguồn động viên từ phía gia đình. Có như vậy mới phát huy toàn diện tính
tích cực của học sinh trong học tập và mọi hoạt động.

2.8. Biện pháp 8: Nhà trường có kế hoạch tổ chức các hoạt động: Hội thi
GV dạy giỏi; dự giờ, góp ý giờ giảng của GV; Hội thảo khoa học về đổi mới
PPDH theo hướng tích cực;...tạo điều kiện cho GV tham gia, học tập, rèn luyện
để có kinh nghiệm lựa chọn, vận dụng mô hình VNEN vào dạy học.
Để mô hình VNEN thực sự được vận dụng và mang lại hiệu quả, nhà trường
cần quan tâm, chỉ đạo sâu sát về công tác đổi mới phương pháp dạy học đặc biệt
chỉ đạo việc vận dụng mô hình lớp học VNEN thông qua tổ chức các hoạt động
như: Hội thi GV dạy giỏi; dự giờ, góp ý giờ giảng của GV; Hội thảo khoa học về
đổi mới PPDH theo hướng tích cực;...tạo điều kiện cho GV tham gia, học tập, rèn
luyện để có kinh nghiệm lựa chọn, vận dụng mô hình VNEN vào dạy học. Hơn
16


nữa là cần một sự tâm huyết, tự học, tự nghiên cứu và tổ chức hướng
dẫn cho giáo viên cụ thể, điều chỉnh hợp lí, chu đáo… không chỉ cho
một giáo viên mà cho nhiều giáo viên có trình độ nhận thức khác nhau.
3. Kết quả đạt được sau khi thực hiện các giải pháp:
Qua một học kì áp dụng một số biện pháp trên, bản thân tôi nhận thấy HS có
chiều hướng tiến bộ tích cực, ý thức tự giác của các em được nâng cao dần; các
em tham gia các hoạt động phong trào nhiệt tình, mạnh dạn, sôi nổi. Nhiều em
khá tự tin trong giao tiếp. Cụ thể:
+ Trong học tập các em tham gia xây dựng bài sôi nổi, biết bày tỏ quan điểm
của mình, biết giúp bạn sửa chữa khuyết điểm để cùng tiến bộ, lập nhóm bạn
gần nhà cùng học tập, HS khá giúp đỡ bạn yếu, tham gia hoạt động nhóm mạnh
dạn và luân phiên nhau cử nhóm trưởng- thư kí để hoạt động.
+ Khả năng diễn đạt trước đám đông của một bộ phận học sinh trước đây rất
nhút nhát, rụt rè nay tự tin hơn, dám nghĩ hơn, dám phát biểu nhận xét một cách
khá đầy đủ, lưu loát suy nghĩ của mình khi được yêu cầu phát biểu ý kiến. Kết
quả điều tra cuối năm như sau:
* Nội dung: “Thảo luận nhóm” qua quan sát HS thực hành thảo luận

nhóm trong các tiết Khoa học- Địa lí- Lịch sử.

TSHS
25

Thực hành thảo luận nhóm
Chưa biết cách lắng nghe, hay
Biết cách lắng nghe, hợp tác
tách ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%
23
92
2
8

* Chất lượng môn Toán- Tiếng Việt kiểm tra cuối học kì I:
17


Môn

Điểm 9,10
SL
%

Điểm 7,8
SL

%

Điểm 5,6
SL
%

Điểm dưới 5
SL
%

Toán

22

88

2

8

1

4

0

0

Tiếng Việt


23

92

2

8

0

0

0

0

 Kết quả xếp loại cuối HKI đạt cao:
KT-KN: Hoàn thành 25/25 em
Năng lực : Đạt 25/25 em
Phẩm chất: Đạt 25/25 em

PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa, phạm vi sử dụng của đề tài:
18


Qua một năm triển khai vận dụng mô hình VNEN vào dạy học, thời
gian chưa nhiều nhưng đã có những sự thay đổi rõ rệt trong cách dạy
và cách học. Chức năng, vai trò của giáo viên trong mỗi tiết học đã
thay đổi hẳn; mối quan hệ giáo viên và học sinh ; học sinh với học sinh

đã thật sự gần gũi, tạo không khí thân thiện, tươi vui; đảm bảo mục
tiêu “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” cho học sinh tiểu học. Quá
trình dạy học thay để giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng tài liệu
hướng dẫn học tập để tự học, phối hợp trong nhóm để phát hiện kiến
thức mới; tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Giáo viên chỉ hỗ trợ và
hướng dẫn học sinh khi cần thiết. Với h ình thức nhóm chủ đạo trong
quá trình học tập, học sinh có nhiều cơ hội độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý
kiến riêng khi làm việc cá nhân và có nhiều cơ hội phát huy năng lực
hợp tác khi học nhóm, được tranh luận, tự đánh giá bản thân và đánh
giá các bạn. Học sinh đã quen với học nhóm; tự điều khiển hoạt động
trong nhóm từ đó giúp học sinh có ý thức để chủ động trong học tập.
Học sinh đã thể hiện được khả năng của mình khi điều khiển và có thể
hướng dẫn các bạn khác học, giúp cho việc tổ chức hướng dẫn không
chỉ là của cô giáo như trước đây. Một điều dễ nhận thấy, đó là học sinh
đã mạnh dạn, linh hoạt và sáng tạo hơn trong học tập, tư duy độc lập,
hợp tác để phát hiện chiếm lĩnh kiến thức bài học. Sự thay đổi phương
pháp sư phạm đã tạo cho học sinh tâm thế mới trong việc học tập, học sinh chủ
động, tích cực hơn. Từ đó phát triển các kỹ năng cơ bản cốt lõi, đặc biệt là kỹ
năng giao tiếp, ứng xử và các kỹ năng “mềm” khác trong cuộc sống và trong
tương lai: kỹ năng điều khiển, kỹ năng hợp tác,...đào tạo con người thích ứng
yêu cầu xã hội hiện đại.
Với các giáo viên trực tiếp vận dụng mô hình lớp học VNEN tại
trường tôi đang giảng dạy, dường như những bỡ ngỡ, khó khăn ban đầu
đang dần lùi xa; bắt đầu cảm nhận được niềm vui khi học sinh thật sự
tự tin, linh hoạt, chủ động trong học tập. Lớp học vận dụng m ô hình
VNEN đã thấy có những tiến bộ rõ rệt về tính dân chủ, tự quản, tự chủ,
19


tự học, tự tin, tích cực và sôi nổi trong các vấn đề cần thảo luận, điều

mà nhiều người hoài nghi khi mới triển khai. Vai tr ò cá nhân của nhiều
học sinh cũng được phát huy thông qua các hoạt động giáo dục.
Qua một thời gian trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy để vận dụng tốt những
mặt tích cực của mô hình VNEN vào dạy học, người giáo viên cần lưu ý những
điểm sau:
- GV phải tự học, tìm hiểu kĩ về mô hình trường học mới VNEN, để từ đó
mới có những chọn lọc, tích hợp vào chương trình dạy học đảm bảo chuẩn kiến
thức- kĩ năng của Bộ Giáo dục – Đào tạo quy định và nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện cho học sinh đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về giáo dục hiện
nay.
- GV nên dành thời gian để nắm bắt, phân loại đối tượng, kết hợp với kiểm
tra đánh giá thường xuyên để có thể dự kiến trước khả năng đáp ứng các nhiệm
vụ nhận thức cũng như phát huy tích cực vốn KT, KN đã có của HS.
- GV phải nghiên cứu kĩ bài dạy, chuẩn bị các tình huống sư phạm có thể xãy
ra, từ đó chuẩn bị các đồ dùng dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của HS.
- Thay đổi không gian lớp học phù hợp với thực tế lớp, tổ chức các hoạt
động dạy học linh hoạt phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh.
- Quan tâm đúng lúc đến học sinh yếu và phát triển tư duy cho học sinh giỏi.
- GV cần vận dụng cách đánh giá học sinh theo nhiều chiều: GV đánh giá
học sinh, học sinh đánh giá lẫn nhau và nêu cao ý thức tự đánh giá ở mỗi học
sinh để biết mình đã hoàn thành những nội dung nào qua bài học và những nội
dung nào chưa thực hiện được để có kế hoạch phấn đấu vươn lên.
- Mô hình VNEN còn khá mới mẻ với nhiều GV, vì vậy nhà trường phải có
kế hoạch tổ chức hội thảo chuyên môn với chuyên đề này, thi GV dạy giỏi, dự
giờ thăm lớp để có những chỉ đạo, tiếp sức phù hợp.
20


Tóm lại: Qua áp dụng một số biện pháp trên vào thực tế lớp mình phụ trách

năm học 2015 – 2016, tôi nhận thấy đề tài này có tính khả thi, có khả năng vận
dụng vào thực tế và mang tính cần thiết giúp học sinh chủ động hơn trong học
tập, giảm bớt sự phụ thuộc vào thầy, cô giáo. Qua báo cáo nội dung sáng kiến
này chuyên môn trường cũng đã trao đổi thảo luận và thống nhất sẽ đưa vào áp
dụng cho các lớp trong năm học tới. Với hiệu quả đạt được khi vận dụng mô
hình trường học mới VNEN vào quá trình dạy học cho HS lớp 4, tôi mong
muốn những biện pháp trên sẽ được nhân rộng cho các trường học trong huyện,
để thu hút các em học sinh, các bậc phụ huynh cùng các thầy, cô giáo hưởng
ứng tích cực, đảm bảo theo mong muốn của xã hội về nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện trong giai đoạn hiện nay.
2. Đề xuất – kiến nghị:
* Đối với trường:
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học: diện tích phòng học
đạt chuẩn, bàn ghế đúng quy cách.
- Tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo chuyên môn cấp trường, cấp cụm để
trao đổi kinh nghiệm về vận dụng mô hình VNEN vào dạy học.
* Đối với ngành:
- Thường xuyên mở các lớp tập huấn chỉ đạo, triển khai sâu rộng về vận
dụng mô hình VNEN vào dạy học theo từng khối lớp cụ thể để giáo viên nắm
bắt phương pháp dạy học theo mô hình.

Trên đây là những sáng kiến của bản thân, mặc dù đã được trải nghiệm, vận
dụng một số mặt tích cực của mô hình VNEN trực tiếp vào quá trình giảng dạy
nhưng thời gian chưa nhiều, vừa học, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm nên rất cần
sự góp ý, bổ sung của đồng nghiệp.
21


NGƯỜI VIẾT


Đoàn Thị Kim Tuyến
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KH-SK NGÀNH GD-ĐT HUYỆN

XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KH-SK HUYỆN LỆ THỦY

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Chỉ thị, hướng dẫn nhiệm vụ năm học của Bộ GD-ĐT, Sở GD-ĐT và phòng
GD-ĐT.
22


2, Chuẩn kiến thức- kĩ năng của Bộ GD - ĐT.
3, Bộ sách giáo khoa lớp 5( theo chương trình hiện hành).
4, Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 2, 3, 4 theo mô hình VNEN - NXB Giáo dục.
5, Hướng dẫn học Toán lớp 2, 3, 4 theo mô hình VNEN - NXB Giáo dục.
6, Tài liệu tập huấn dạy học theo mô hình Trường học mới Việt Nam - NXB
Giáo dục.
7, Tổ chức lớp học theo mô hình Trường học mới VNEN- NXB Giáo dục.

23



×