Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tìm hiểu về hiệp định TPP, có tác động tới môi trường quản trị trong ngành dệt may tại việt nam như thế nào những thách thức, thời cơ và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.21 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

TÌM HIỂU VỀ HIỆP ĐỊNH TPP, CÓ TÁC ĐỘNG TỚI
MÔI TRƯỜNG QUẢN TRỊ TRONG NGÀNH DỆT MAY
TẠI VIỆT NAM NHƯ THẾ NÀO? NHỮNG THÁCH THỨC,
THỜI CƠ VÀ GIẢI PHÁP.

HỌC PHẦN: QUẢN TRỊ HỌC

Người hướng dẫn: Ths Nguyễn Tiến Thành.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Khánh Lỵ

HÀ NỘI – 2015


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................3
1. Tìm hiểu chung về Hiệp định TPP............................................................3
1.1. Sự ra đời của Hiệp định TPP..................................................................3
1.2. Hiệp định TPP mở rộng và sự tham gia của Việt Nam..........................4
1.3. Vai trò của Hiệp định TPP đối với các nước thành viên........................4
2. Tác động của Hiệp định TPP đến môi trường quản trị trong ngành dệt
may tại Việt Nam...........................................................................................5
2.1. Môi trường bên ngoài............................................................................5
2.1.1. Thời cơ................................................................................................5
2.1.2. Thách thức..........................................................................................6
2.2. Môi trường bên trong.............................................................................8
2.2.1. Thời cơ................................................................................................8
2.2.2. Thách thức..........................................................................................9


3. Một số giải pháp nhằm tăng hiệu quả quản lí trong ngành dệt may khi
Việt Nam tham gia Hiệp định TPP..............................................................10
KẾT LUẬN........................................................................................................12


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bài viết này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích
dẫn và số liệu sử dụng trong bài viết đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao
nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Người thực hiện:
Nguyễn Thị Khánh Ly

1


LỜI MỞ ĐẦU
Để trở thành một nhà quản trị không phải là một việc dễ dàng, và để trở thành
một nhà quản trị giỏi lại càng khó khăn hơn nhiều lần. Để thực hiện tốt công việc của
mình như: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra, những người làm công tác quản
trị cần có cái nhìn đúng đắn và sự phân tích chính xác về sự thay đổi của môi trường
quản trị. Bởi lẽ, môi trường quản trị là tổng hợp các yếu tố và các điều kiện khách
quan, chủ quan có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp đến các hoạt động và sự tồn tại của tổ chức.
Sự biến đổi không ngừng của môi trường quản trị gây ảnh hưởng lớn tới sự phát
triển của các tổ chức và doanh nghiệp ở Việt Nam, đặc biệt là sau khi nước ta tham gia
kí kết Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (viết tắt là TPP).
Để thấy rõ hơn sự ảnh hưởng của Hiệp định TPP đối với môi trường quản trị ở
nước ta như thế nào, em đã chọn đề tài: “Tìm hiểu về Hiệp định TPP, có tác động tới
môi trường quản trị trong ngành dệt may tại Việt Nam như thế nào? Những thách thức,
thời cơ và giải pháp?”


2


NỘI DUNG
1.Tìm hiểu chung về Hiệp định TPP.
1.1.Sự ra đời của Hiệp định TPP.
Hiệp định TPP (tên tiếng Anh là Trans-Pacific Strategic EconomicPartnership
Agreement) đây là Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương. Lúc đầu chỉ có
bốn nước tham gia Hiệp định, vì vậy nên còn được gọi là P4.
Hiệp định này có khởi nguồn là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do
nguyên thủ 3 nước Chi-lê, Niu Di-lân và Xinh-ga-po (P3) phát động và đàm phán nhân
dịp Hội nghị cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mê-hi-cô. Vào tháng 4 năm 2005, Brunây xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng
kết thúc, biến P3 thành P4.
Đây là Hiệp định mang tính "mở". Tuy đây không phải là một chương trình hợp
tác trong khuôn khổ APEC nhưng tất cả các thành viên trong APEC đều có thể gia
nhập nếu có quan tâm đối với Hiệp định này. Xinh-ga-po đã nhiều lần thể hiện mong
muốn mở rộng TPP và sử dụng TPP như một công cụ để hiện thực hóa ý tưởng về Khu
vực Mậu dịch Tự do Châu Á-Thái Bình Dương của APEC (FTAAP).
Hiệp định TPP có phạm vi điều chỉnh khá rộng, bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ
(chưa bao gồm dịch vụ tài chính do được đàm phán sau), vệ sinh an toàn thực phẩm
(SPS), rào cản kỹ thuật (TBT), chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính
phủ và minh bạch hóa. Ngoài ra, còn có một chương về hợp tác và hai văn kiện đi kèm
về Hợp tác Môi trường và Hợp tác Lao động.
Theo thỏa thuận, các bên tham gia P4 sẽ tiếp tục đàm phán và ký hai văn kiện
quan trọng về đầu tư và dịch vụ tài chính, chậm nhất là sau hai năm kể từ khi P4 chính
thức có hiệu lực (tức là từ tháng 3 năm 2008).
Điểm nổi bật nhất của P4 là tự do hóa rất mạnh về hàng hóa. Thuế nhập khẩu
được xóa bỏ hoàn toàn và phần lớn là xóa bỏ ngay từ khi Hiệp định có hiệu lực.
Về dịch vụ, P4 thực hiện tự do hóa mạnh theo phương thức chọn-bỏ. Theo đó,

tất cả các ngành dịch vụ đều được mở, trừ những ngành nằm trong danh mục loại trừ.
Tháng 9 năm 2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP. Tiếp theo đó, tháng 11 năm 2008,
Úc và Pê-ru cũng tuyên bố tham gia TPP. Tại buổi họp báo công bố việc tham gia của
Úc và Pê-ru, đại diện các bên khẳng định sẽ đàm phán để thiết lập một khuôn khổ mới
cho TPP. Kể từ đó, các vòng đàm phán TPP được lên lịch và diễn ra cho đến nay.
1.2.Hiệp định TPP mở rộng và sự tham gia của Việt Nam.

3


Từ năm 2006, qua nhiều kênh, Xinh-ga-po đã rất tích cực mời Việt Nam tham
gia TPP - P4. Trước những cân nhắc cả về khía cạnh kinh tế và chính trị, Việt Nam
chưa nhận lời mời này của Xinh-ga-po.
Tuy nhiên, với việc Mỹ quyết định tham gia TPP, và trước khi tuyên bố tham
gia TPP, Mỹ đã mời Việt Nam cùng tham gia Hiệp định này, Việt Nam đã cân nhắc lại
việc tham gia hay không tham gia TPP.
Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia Hiệp định TPP với tư cách thành
viên liên kết. Tháng 11 năm 2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách
này, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP. Trước đó, tháng 10 năm 2010,
Ma-lai-xia cũng chính thức tham gia vào TPP, nâng tổng số nước tham gia đàm phán
lên thành 9 nước.
1.3.Vai trò của Hiệp định TPP đối với các nước thành viên.
Thứ nhất, Hiệp định TPP cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế về căn
bản đối với tất cả thương mại hàng hóa, dịch vụ và điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực về
thương mại trong đó có thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nhằm tạo ra các cơ hội
và lợi ích mới cho doanh nghiệp, người lao động và người tiêu dùng của các nước
thành viên.
Thứ hai, TPP tạo thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và dây chuyền cung ứng,
cũng như thương mại không gián đoạn, đẩy mạnh tính hiệu quả và hỗ trợ thực hiện
mục tiêu về tạo việc làm, nâng cao mức sống, thúc đẩy các nỗ lực bảo tồn và tạo thuận

lợi cho việc hội nhập qua biên giới cũng như mở cửa thị trường trong nước.
Thứ ba, TPP thúc đẩy việc đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh thông qua việc
giải quyết các vấn đề mới, trong đó bao gồm việc phát triển nền kinh tế số và vai trò
ngày càng tăng của các doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế toàn cầu.
Thứ tư, TPP bao gồm các yếu tố mới được đưa ra để bảo đảm rằng các nền kinh
tế ở tất cả các cấp độ phát triển và doanh nghiệp thuộc mọi quy mô đều có thể hưởng
lợi từ thương mại.
Thứ năm, TPP được ra đời để tạo ra nền tảng cho việc hội nhập kinh tế khu vực
và được xây dựng để bao hàm cả những nền kinh tế khác xuyên khu vực châu Á –
Thái Bình Dương.
2.Tác động của Hiệp định TPP đến môi trường quản trị trong ngành dệt

4


may tại Việt Nam.
2.1.Môi trường bên ngoài.
2.1.1. Thời cơ.
Môi trường kinh tế: Các yếu tố kinh tế là các yếu tố gây ra sự biến động trong
nền kinh tế, được phản ánh thông qua các chỉ số như: tổng sản phẩm quốc nội, tốc độ
tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá, lãi suất, thâm hụt và thặng
dư ngân sách nhà nước, cán cân thanh toán quốc tế…
Khi bắt đầu có hiệu lực, TPP sẽ tạo ra động lực quan trọng cho sự phát triển của
dệt may Việt Nam, góp phần đưa dệt may Việt Nam lên một tầm cao mới trong tương
lai gần.
Thứ nhất, khi Việt Nam gia nhập TPP, đại bộ phận hàng dệt may của nước ta sẽ
được hưởng thuế suất 0% khi xuất khẩu vào các nước thành viên TPP. Khi đó, thuế
nhập khẩu vào Mỹ và các nước trong TPP sẽ giảm xuống bằng 0. Đây là một lợi thế rất
lớn để ngành dệt may tăng thị phần trên trường quốc tế.
Thứ hai, các nước tham gia TPP đa số là những đối tác xuất khẩu quan trọng

của Việt Nam, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản. Có đến 40% giá trị hàng hóa của Việt Nam
được xuất sang 11 nước tham gia TPP, trong đó những mặt hàng quần áo, dệt may và
da giày chiếm đến 31% tổng giá trị. Trong năm 2015, tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm và
hàng hóa dệt may của Việt Nam sang các nước TPP là hơn 9,8 tỉ USD trong tổng số
gần 14,9 tỉ USD hàng dệt may của Việt Nam xuất đi toàn thế giới.
Thứ ba, thị trường lao động của ngành dệt may cũng sẽ ảnh hưởng theo chiều
hướng tích cực. Khi thuế suất bằng 0%, hàng hóa xuất khẩu sang các nước TPP sẽ tăng
lên nhiều, điều này đồng nghĩa với việc thị trường lao động trong nước sẽ có nhiều
thay đổi. Lực lượng lao động tham gia vào ngành dệt may sẽ cao hơn kéo theo chất
lượng lao động sẽ cao hơn.
Ngoài ra, Hiệp định TPP còn giúp Việt Nam cân bằng được quan hệ thương mại
đối với các thị trường trên thế giới, điều này hạn chế được sự phụ thuộc quá mức vào
một thị trường nhất định. Hiện nay thị trường Đông Á như ASEAN, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông đang chiếm tỷ trọng trong kim ngạch xuất
nhập khẩu của nước ta, trong đó xuất khẩu luôn ở trên mức 60%, nhập khẩu lên tới
75%. Việc tham gia hiệp định TPP giúp đa dạng hơn các thị trường mục tiêu đồng thời
hạn chế việc phụ thuộc và sự mất cân đối trong tình trạng xuất nhập khẩu hiện nay của

5


nước ta.
Văn hóa – xã hội
Tham gia vào Hiệp định TPP sẽ tạo ra các cơ hội giúp Việt Nam nâng cao tốc
độ tăng trưởng về kinh tế và xã hội, điều đó sẽ tạo thêm nhiều việc làm và nâng cao
thu nhập cho người lao động trong ngành dệt may nói riêng và người lao động trong cả
nước nói chung, đồng thời góp phần xoá đói giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế cũng
giúp ta có thêm nguồn lực để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực cho ngành dệt may
nâng cao tay nghề và năng suất lao động và giúp chăm sóc sức khỏe cộng đồng được
tốt hơn.

Đặc biệt, trong Hiệp định TPP có bao gồm cả các cam kết về bảo vệ môi trường
nên tiến trình mở cửa, tự do hóa thương mại và thu hút đầu tư sẽ được thực hiện theo
cách thân thiện với môi trường hơn, giúp ngành dệt may của nước ta tăng trưởng bền
vững hơn và môi trường Việt Nam được cải thiện hơn.
Chính trị - pháp luật
TPP mang đến cho việt Nam khả năng hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp luật,
đẩy mạnh cải cách hành chính hướng tới một môi trường thuận lợi, cạnh tranh bình
đẳng và minh bạch hóa hơn. Ngoài ra, TPP còn thúc đẩy kiểm soát các vấn đề liên
quan đến bảo vệ môi trường, chất lượng sản phẩm, quyền lợi và an toàn lao động…
Khoa học – công nghệ
Tham gia TPP Việt Nam có thể tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Điều này
giúp Việt Nam mở ra cơ hội hợp tác với các công ty, tập đoàn lớn của các quốc gia
thành viên trong TPP, từ đó thúc đẩy một làn sóng đầu tư mới, cải thiện năng lực sản
xuất, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, tận dụng các cơ hội xuất khẩu và nâng cao
năng lực cạnh tranh, quá trình chuyển giao công nghệ trong ngành dêt may nói riêng
và đối với nền kinh tế đất nước nói chung.
2.1.2. Thách thức
Môi trường kinh tế
Tham gia TPP Việt Nam phải chịu thách thức về xu hướng đầu tư rất nhanh và
mạnh của các nhà đầu tư nước ngoài với lợi thế cả về tài chính, công nghệ và thị
trường đều vượt xa so với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Khi đó, doanh nghiệp
Việt Nam sẽ rơi vào thế yếu vì doanh nghiệp Việt yếu hơn các doanh nghiệp nước

6


ngoài về mọi mặt.
Bên cạnh đó, mặt yếu của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là năng suất lao
động thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực cũng như các nước trên toàn cầu.

Chỉ số năng suất lao động của khu vực sản xuất của Việt Nam chỉ đạt 2,4 trong khi các
quốc gia sản xuất dệt may lớn khác như Trung Quốc là 6,9 và Indonesia là 5,2. Đây là
điểm yếu lớn nhất của dệt may nói riêng và các ngành sản xuất sử dụng lao động nói
chung. Do vậy, năng suất lao động là yếu tố quan trọng trong việc quyết định đến giá
thành sản phẩm. Với việc năng suất lao động của Việt Nam thấp như vậy thì giá thành
sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị đẩy lên cao hơn so với sản phẩm cùng loại
của các nước khác, kéo theo sản phẩm của Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh kém.
Khi gia nhập TPP, lao động các nước có thể có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để
tìm kiếm việc làm tại thì trường Việt Nam, với tay nghề chưa cao và trình độ phổ
thông, lao động Việt Nam có thể rơi vào tình trạng không tìm kiếm được việc làm,
điều này làm cho vấn đề thất nghiệp và thiếu việc làm ở nước ta ngày càng gia tăng,
đồng thời cũng ảnh hưởng lớn tới an ninh và trật tư, an toàn xã hội.
Văn hóa – xã hội
Việc mở rộng thị trường và giao lưu buôn bán với các nước trên thế giới khiến
người lao động tiếp cận nhiều nèn văn hóa và tôn giáo, với trình độ người lao động
trong ngành dệt may đa phần là lao động phổ thông có nhận thức chưa cao dễ dẫn đến
sự lai tạp văn hóa, dễ bị kẻ xấu lợi dụng vào việc chống phá tổ chức hay nhà nước Việt
Nam.
Bên cạnh đó, khi nền kinh tế phát triển, cuộc sống của người lao động được cải
thiện và nâng cao, họ có thể sẽ dễ sa vào các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều khi đất
nước mở cửa, hội nhập với thế giới.
Chính trị - pháp luật
Bên cạnh đó, thủ tục hành chính, hải quan; chi phí không chính thức…, theo
yêu cầu TPP, còn rườm rà và lớn hơn cả phần thuế được cắt giảm trong TPP. Song,
năng lực quản lý yếu kém, thiếu hụt lao động, năng suất lao động thấp, thiếu vốn đầu
tư và công nghệ… cũng là một trong những yếu tố kìm hãm việc tăng năng lực sản
suất cũng như xuất khẩu của doanh nghiệp VN trong khuôn khổ TPP. Môi trường
cũng là vấn đề nhức nhối đối với những ngành sản xuất gây ô nhiễm có liên quan đến
dệt may (như ngành nhuộm). Ngoài ra, khả năng các nước nhập khẩu hàng dệt may


7


Việt Nam đưa ra các hàng rào kỹ thuật và thương mại phi thuế quan…để cản trở xuất
khẩu dệt may của Việt Nam là khó tránh khỏi.
Khoa học – công nghệ
Việc tiếp thu nền khoa học tiên tiến của các nước trên thế giới sẽ tạo sự ỉ lại cho
lao động Việt Nam khiến họ hạn chế khả năng sáng tạo và tự đổi mới. Khi việc nhập
khẩu các máy móc thiết bị hiện đại vào nước ta trở nên dễ dàng hơn với giá cả thấp
hơn thì các thiết bị do Việt Nam sản xuất sẽ ít được chú ý tới bởi còn thua kém máy
móc, công nghệ của các nước tiên tiến khác.
2.2.Môi trường bên trong.
2.2.1. Thời cơ.
Khách hàng
Việt Nam có thị trường nội địa khá rộng lớn với hơn 86 triệu dân, đây là những
khách hàng tiềm năng của ngành dệt may. Khi tham gia Hiệp định TPP Việt Nam có cơ
hội để tiếp cận các thị trường rộng lớn như: Mỹ, Nhật Bản, Canada… với thuế nhập
khẩu bằng 0%, điều đó đã giúp cho nhiều người biết đến các sản phẩm dệt may của
Việt Nam hơn và thị trường khách hàng từ đó cũng được mở rộng ra. Không chỉ vậy,
các sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam cũng có mặt phổ biến hơn ở các thị trường
nước ngoài, tạo điều kiện cạnh tranh với các sản phẩm dệt may của các quốc gia khác,
tăng số lượng khách hàng biết đến và sử dụng sản phẩm dệt may Việt Nam.
Nhà cung cấp
Việt Nam ra nhập TPP sẽ có sự liên kết chặt chẽ hơn với các nước thành viên,
từ đó nguồn nguyên liệu dành cho dệt may cũng được tìm kiếm và nhập khẩu dễ dàng
và phong phú hơn trước. Bên cạnh đó, khi mức thuế nhập khẩu hàng hóa là 0% thì chi
phí nhập khẩu nguyên vật liệu cho ngành dệt may sẽ giảm bớt, giá thành của sản phẩm
của ngành dệt may cũng hạ xuống tạo sức cạnh tranh cho hàng hóa ngành dệt của Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
Đối thủ cạnh tranh

Ngành dệt may là một vùng đất màu mỡ không chỉ có Việt Nam mà các quốc
gia khác trong TPP đều hướng tới nhằm tăng lợi nhuận và phát triển kinh tế của đất
nước, chính vì vậy mà các đối thủ cạnh tranh trong ngành rất lớn, điều đó thúc đẩy các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam năng động hơn, sáng tạo hơn trong quá trình quản lý
và sản xuất kinh doanh để có được khả năng cạnh tranh cao, có nhiều lợi thế cạnh

8


tranh và chiếm được nhiều ưu thế trên thị trường ngành dệt thế giới so với các nước
thành viên khác trong TPP.
Nguồn lao động dồi dào, giá rẻ là ưu điểm lớn nhất của các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam, điều đó tạo nên lợi thế cạnh tranh của ngành dệt may nước ta với các
đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực và trên thế giới.
2.2.2. Thách thức.
Khách hàng
Khi ra nhập thị trường thế giới, yêu cầu của khách hàng ngày càng trở nên khắt
khe hơn đối với hàng hóa dệt may Việt Nam, với chất lượng hàng chưa cao so với các
nước có công nghệ và truyền thống lâu đời khiến cho lượng khách hàng của các sản
phẩm dệt may Việt Nam cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Việc xóa bỏ thuế nhập
khẩu làm cho hàng hóa và các sản phẩm dệt may của các nước bạn thâm nhập vào thị
trường Việt Nam với giá rẻ hơn và chất lượng tốt hơn cũng làm một lượng lớn khách
hàng trong nước bị giảm sút.
Nhà cung cấp
Trong sản xuất dệt may , nguyên liệu đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng
quyết định đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất. Ngành dệt may Việt Nam sử
dụng các nguyên liệu chính là: bông xơ, xơ sợi tổng hợp, len, đay ,tơ tằm, xơ liber
khác, các loại hoá chất cơ bản khác và thuốc nhuộm…trong đó quan trọng nhất là
bông xơ và xơ sợi tổng hợp.
Do không chủ động được về nguồn nguyên liệu (khoảng 80% nguyên liệu sử

dụng cho ngành dệt may phải nhập từ nước ngoài) nên ngành dệt may Việt Nam phải
chịu sức ép nặng nề của việc tăng giá nguyên liệu trên thế giới. Ngoài ra, nguồn
nguyên liệu phụ thuộc vào nhập khẩu mà không thống nhất ở một vài đơn vị có chức
năng nhập và do nhiều đầu mối, thậm chí không phải ngành dệt may vẫn đứng ra nhập
và phân phối theo nhiều loại giá khác nhau, làm cho biến động giá đầu vào khiến đầu
ra không ổn định. Hiện nay phần lớn nguyên liệu sử dụng cho ngành dệt may phải
nhập từ Trung Quốc. Ngoài ra còn nhập của một số nước như: Thái Lan, Australia,
Hàn Quốc, Pakistan…làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của ngành dệt may, gây nên
tình trạng bị động trong điều hành sản xuất…trong khi các doanh nghiệp dệt may khác
thuộc các nước thành viên TPP có nguồn nguyên liệu ổn định hơn, dễ dàng tạo ra sản
phẩm có giá cả cạnh tranh với các sản phẩm hàng hóa dệt may của Việt Nam, thu hút

9


được sự chú ý của khách hàng trong và ngoài nước.
Đối thủ cạnh tranh
Từ khi Hiệp định TPP được kí kết, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã đi tắt đón
đầu bằng cách chuyển nhà máy từ nhiều quốc gia khác trong khu vực Châu Á sang
Việt Nam, điều đó đã gây sức ép lớn trong cạnh tranh cho các doanh nghiệp dệt may ở
nước ta. Vì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đa phần có quy mô nhỏ, khả năng huy
động vốn không cao, năng suất lao động thấp và công nghệ lạc hậu, đi sau các doanh
nghiệp dệt may nước ngoài.
Tham gia TPP Việt Nam đối mặt với các đối thủ cạnh tranh khác như: Hàn
Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Singapore, Philippines… là các nước xuất khẩu hàng may
với kim ngạch xuất khẩu cao hơn Việt Nam bởi họ có thể tạo ra được nhiều lợi thế hơn
so với các sản phẩm hàng dệt may của nước ta.
Qua đó có thể thấy ngành dệt may Việt Nam có quá nhiều đối thủ cạnh tranh
lớn. Điều này làm cho mức độ cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu thế giới rất gay gắt
và quyết liệt buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đầu tư đúng mức về mọi phương

diện để trụ được một cách vững vàng trên thị trường thế giới.
3.Một số giải pháp nhằm tăng hiệu quả quản lí trong ngành dệt may khi
Việt Nam tham gia Hiệp định TPP.
- Để có thể có được hiệu quả và lợi ích cao nhất khi tham gia Hiệp định TPP,
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải nhanh chóng hình thành chuỗi cung ứng
hoàn chỉnh từ thiết kế - nguyên phụ liệu - may - phân phối và có sự liên kết hữu cơ
giữa các khâu, để tạo sự thống nhất, dây chuyền và tự động hóa trong sản xuất các sản
phẩm ngành dệt may.
- Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần lập nên một hàng rào kỹ thuật và
thương mại phi thuế quan ở một mức độ nào đó cũng là một giải pháp mà các nhà
hoạch định chính sách cần phải nghĩ tới. Vì khi đó ngành dệt may sẽ tránh được việc
có dòng sản phẩm cạnh tranh ồ ạt nhập khẩu vào Việt Nam trong khi các doanh nghiệp
Việt Nam có năng lực cạnh tranh còn yếu, trình độ tay nghề của người lao động còn
hạn chế.
- Cần có những chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may, đào tạo
lực lượng lao động lành nghề có trình độ tay nghề cao để có năng suất lao động cao.
Từ đó, các sản phẩm của ngành dệt may có xuất xứ từ Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh

10


mạnh hơn đối với các nước thành viên TPP và trên trường quốc tế.
- Về thể chế, để thực thi các cam kết trong TPP, Việt Nam cần phải điều chỉnh,
sửa đổi một số quy định pháp luật về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao động, môi
trường …để đáp ứng được những yêu cầu được đề ra.
- Về mặt xã hội, với những cơ hội mới có được từ TPP, Việt Nam sẽ có thêm
nhiều điều kiện để tạo công ăn việc làm mới cho lực lượng lao động đồi dào trong
nước nhằm giải quyết vấn đề thất nghiệp đang diễn ra hiện nay, đồng thời cũng giúp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành nước ta thực sự có lợi thế cạnh tranh nhằm
đưa đất nước phát triển hơn về kinh tế.

Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có các các biện pháp trợ giúp để chủ động xử
lý kịp thời các tác động tiêu cực có thể xảy ra như các tệ nạn xã hội gia tăng, sự chống
phá của các thế lực thù địch cũng có thể dễ dàng xâm nhập vào nước ta hơn …

11


KẾT LUẬN
Từ khi gia nhập TPP, ngành dệt may nước ta được cho là ngành hưởng nhiều lợi
thế nhất, nhưng bên cạnh đó cũng đối mặt với không ít khó khăn và thách thức. Việc
tham gia và Hiệp định TPP mang lại nhiều khó khăn hay thách thức điều đó phụ thuộc
vào việc quản lí, đánh giá và đưa ra các chính sách phù hợp của những nhà lãnh đạo
các doanh nghiệp dệt may nói riêng và các doanh nghiệp trong nước nói chung. Để có
đưa được những quyết định và quyết sách hợp lí, đúng đắn, đáp ứng nhu cầu thực tế,
những nhà quản trị doanh nghiệp cần có cái nhìn chính xác và sự đánh giá khách quan
về môi trường quản trị bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
Hiệp định TPP không chỉ tác động tới môi trường quản trị của riêng ngành dệt
may, mà còn có ảnh hưởng lớn tới môi trường quản trị của các ngành sản xuất kinh
doanh khác tại Việt Nam, chính vì vậy mà chúng ta cần có cái nhìn toàn diện và sự
điểu chỉnh sát xao từ Chính phủ cho đến từng doanh nghiệp trong mọi ngành nghề, để
tận dụng được những cơ hội mà TPP mang lại, đồng thời cũng có thể hạn chế tối đa
những trở ngại có thể xuất hiện trong quá trình tham gia Hiệp định, để đưa đất nước
Việt Nam phát triển nhanh và bền vững trên trường quốc tế.

12



×