Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Toàn cầu hóa và vấn đề hội nhập kinh tế của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.29 KB, 16 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hội nhập
vào nền kinh tế quốc tế đang trở thành một xu thế khách quan với hầu hết tất cả
các quốc gia trên thế giới. Việt Nam cũng đang từng bước tham gia hội nhập
cùng với nền kinh tế quốc tế mà mở đầu rõ nhất bằng sự kiện chúng ta đã gia
nhập vào WTO tháng 11/2007. Đây cũng là thời cơ nhưng cũng là thách thức
không nhỏ đối với Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Nhận thức rõ
tầm quan trọng đó, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Toàn cầu hóa và vấn đề hội
nhập kinh tế của Việt Nam” để mong góp một phần nhỏ vào những cố gắng
chung trong việc xây dựng hệ thống lý luận kinh tế Việt Nam trong thời đại ngày
nay.

2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm chung về toàn cầu hóa.
Hiện nay có khá nhiều khái niệm về toàn cầu hóa:
- Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
nền kinh tế thế giới , tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các
quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ van hóa kinh tế v.v… trên quy
mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế , toàn cầu hóa hầu như được dùng
để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại nói
riêng. Cũng ở góc độ kinh tế , người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô
toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mai kĩ thuật, công nghe, thông tin, văn
hóa.
- Một khái niệm khác nêu ra bản chất của toàn cầu hóa như sau :” Toàn
cầu hóa là quá trình biến các vùng miền , các cộng đồng khác nhau từ trạng thái


biệt lập tách rời thành một trạng thái khác về chất, bằng sự liên kết gắn bó một
thể thống nhất hữu cơ trên quy mô toàn cầu . Khi đó một sự kiện, một hiện
tượng, một vấn đề xảy ra ở vùng miền này sẽ ảnh hưởng , tác động tới các vùng
miền các cộng đồng khác trên quy mô toàn thế giới”.
1.2. Các nhân tố dẫn đến tiến trình toàn cầu hóa kinh tế và quá trình
phát triển của nó.
1.2.1 Các nhân tố dẫn đến tiến trình toàn cầu hóa.
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình chuyên môn hóa,
hợp tác hóa sản xuất và phân công lao đọng đã vượt khỏi tầm tay của từng
nước.
Hai là, sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, nhất là sự phát
triển nhảy vọt về thông tin liên lạc, giao thông, đặc biệt là sự ra đờicủa công
nghệ thông tin.
Ba là, nhu cầu mở rộng thị trường, xuất khẩu tư bản , sự di cư ồ ạt về lao
động.
3


Bốn là, sự hòa hợp và tham gia rộng rãi vào các hoạt động quốc tế của các
quốc gia, đặc biệt là các nước thứ ba.
Năm là, Sự phát triển và phổ cập của kinh tế thị trường và cơ chế thị
trường.
Sáu là, sự xuất hiện của công ty xuyên quốc gia, các tổ chức quốc tế về
thương mại và tài chính, sự hình thành các hệ thống tài chính, ngân hàng quốc
tế, tao ra khối lượng giao dịch tiền tệ , hàng hóa khổng lồ.
1.2.2 .Quá trình diễn ra toàn cầu hóa kinh tế
Toàn cầu hóa kinh tế nãy sinh từ rất sớm và dần phát triển , để rồi tạo ra
những bước phát triển nhảy vọt như hôm nay. xuất hiện ngay từ ở thế kỷ XV và
diễn ra mạnh mẽ hơn ở cuối thế kỷ XIX. Cho đến nay, vẫn còn đang có những ý
kiến khác nhau về nguồn gốc và bản chất của quá trình toàn cầu hoá. Một số

người cho rằng, quá trình toàn cầu hoá bắt đầu từ khi người Thổ Nhĩ Kỳ kiểm
soát con đường tơ lụa. Với một số người khác, quá trình đó được bắt đầu từ sự
kiện vượt qua vùng biển thuộc mũi Hảo Vọng và việc khám phá ra châu Mỹ,
nhờ đó thế giới được mở rộng và các nguồn tài nguyên của thế giới từ các châu
lục khác được chuyển về châu Âu. Trong khi đó, một số người khác lại tin rằng,
toàn cầu hoá diễn ra từ cuối thế kỷ XIX cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
cuộc cách mạng công nghiệp tạo nên sự phát triển của lực lượng sản xuất và các
phương tiện vận tải.
Nhưng, dù xuất hiện sớm hơn hay muộn hơn, trong thời đại hiện nay, toàn
cầu hóa mang một nội dung với những nét đặc thù mới. Một số học giả gọi toàn
cầu hóa hiện nay là toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Bởi lẽ, quá trình đó đang chịu
sự chi phối mạnh mẽ của các nước tư bản, đặc biệt là các nước tư bản lớn.
Toàn cầu hóa hiện nay đang tác động hết sức mạnh mẽ đến các quốc gia
dân tộc, đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như đến cuộc
sống của từng người. Cách nhìn nhận và thái độ đối với toàn cầu hoá là hết sức

4


khác nhau. Trong khi một số nước đang phát triển tiếp nhận toàn cầu hoá một
cách hồ hởi thì ở nhiều nước phát triển, phong trào chống toàn cầu hoá lại diễn
ra một cách rộng khắp và thu hút hàng vạn người tham gia. Song, bất chấp thái
độ khác nhau, ủng hộ hay phản đối, toàn cầu hoá vẫn là một xu thế tất yếu và
ngày càng được mở rộng mà mỗi quốc gia dân tộc phải đối mặt với nó.
Tính tất yếu của toàn cầu hoá trước hết được biểu hiện ở tất yếu kinh tế.
Kinh tế, như mọi người đều biết, là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với sự
phát triển của văn minh nhân loại. Thực ra, thuật ngữ văn minh nhân loại vừa
mang ý nghĩa vật chất, vừa mang ý nghĩa tinh thần. Ưu thế của một nền văn
minh được thể hiện trong sự hoà quyện và kết hợp giữa yếu tố vật chất và yếu tố
tinh thần. Với ý nghĩa đó, lịch sử của nhân loại là lịch sử của sự giải phóng

mang tính chất tiến bộ khỏi sự tước đoạt về vật chất, đồng thời là lịch sử phát
triển của tự do thuộc về vương quốc của tinh thần.
Toàn cầu hoá là một hiện tượng vật chất hay kinh tế. Nhưng, ngoài ý
nghĩa là một hiện tượng vật chất, nó còn mang một ý nghĩa văn hoá, tinh thần
sâu sắc. Bởi lẽ, trên thực tế, không có một công việc nào của con người, không
có một hiện tượng nào trong xã hội lại chỉ mang ý nghĩa thuần tuý kinh tế.
Về phương diện kinh tế, trước hết, toàn cầu hoá tạo ra một sự thay đổi căn
bản trong hoạt động kinh tế của con người, làm thay đổi tính chất và vị trí của
thị trường. Nếu như trước đây, thị trường mang tính quốc gia thì hiện nay, thị
trường đã mang tính quốc tế. Do quá trình toàn cầu hoá, các quốc gia nhanh
chóng bị cuốn hút và trở thành một bộ phận phụ thuộc của nền kinh tế thế giới
hoặc quốc tế. Ngoài tính toàn cầu của thị trường hàng hoá và dịch vụ, tài chính
và tiền tệ cũng mang tính chất toàn cầu. Một yếu tố khác không kém quan trọng
làm cho thị trường có tính toàn cầu là công nghệ điện tử mới của thông tin và
viễn thông. Chính công nghệ mới đó không chỉ mang tính kinh tế, mà còn mang
tính chính trị và xã hội sâu sắc.

5


Về mặt xã hội, những nhu cầu của nền kinh tế toàn cầu đã và đang mang
lại những thay đổi to lớn trong thói quen lao động và lối sống của con người ở
tất cả các quốc gia dân tộc. Sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm
mang tính quốc tế, v.v. đang là những vấn đề làm đau đầu các quốc gia dân tộc.
Nói tóm lại, chính toàn cầu hoá đang làm cho những vấn đề toàn cầu của thời
đại tác động mạnh mẽ và nhanh chóng đến các quốc gia dân tộc. Ngày nay,
không một quốc gia dân tộc nào có thể làm ngơ trước sự lan truyền một cách
nhanh chóng và rộng rãi của các bệnh dịch, như SARS, cúm gà, v.v.; của các nạn
khủng bố, tội phạm quốc tế, v.v..
Về mặt chính trị, người ta thường nhắc tới những thách thức nghiêm trọng

của toàn cầu hoá đối với chủ quyền quốc gia. Điều đó được lý giải bằng sự tác
động của kinh tế đối với chính trị. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự
hội nhập về chính trị. Với lôgíc đó, người ta nói đến sự suy yếu của mô hình
quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, người ta thường nói về
sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc hơn là đề cập đến sự độc lập
hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, không có và không thể có một quốc
gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài trong bối cảnh toàn
cầu hoá. Chẳng hạn, do lôgíc nội tại của nó, toàn cầu hoá kinh tế vừa đòi hỏi,
vừa muốn hướng tới sự tự do về thương mại và đầu tư ngày càng tăng lên một
cách chưa từng có. Do đó, những hiệp định thương mại đa phương được thể chế
hoá trong WTO tất yếu hạn chế khả năng hành động một cách đơn phương của
các chính phủ trong việc bảo vệ lợi ích cục bộ của họ. Vì lẽ đó, người ta coi
những hiệp định thương mại đa phương ấy có tác dụng tiêu cực đối với bất kỳ
chủ quyền quốc gia riêng lẻ nào. Đúng như U.Bek đã nhận xét, “cộng đồng thế
giới hình thành trong quá trình toàn cầu hoá trên nhiều lĩnh vực chứ không chỉ
trong lĩnh vực kinh tế đang làm suy yếu, đặt dấu hỏi về sức mạnh của quốc gia
dân tộc, thâm nhập vào khắp các đường biên giới lãnh thổ bằng nhiều phụ thuộc
xã hội đa dạng, các quan hệ thị trường, bằng mạng truyền thông, các phong tục,

6


tập quán khác lạ của dân cư, không liên quan đến vùng lãnh thổ xác định của nó.
Điều đó biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực quan trọng nhất, là cơ sở của uy tín
quốc gia dân tộc trong chính sách thuế, quyền hạn tối cao của bộ máy cảnh sát,
trong chính sách đối ngoại, trong lĩnh vực an ninh quân sự”.
Như vậy, toàn cầu hoá kinh tế là khía cạnh quan trọng nhất của toàn cầu
hoá; nó đang tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực chính trị. Đến lượt mình, những
thay đổi về chính trị lại có tác động trở lại đối với kinh tế. Song, điều cần quan
tâm và nhấn mạnh lại chính là ở sự tác động của kinh tế và những thay đổi chính

trị đối với văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá.
1.2.3 Tác động của toàn cầu hóa đến kinh tế - xã hôi
Những tác động tiêu cực của Toàn Cầu Hóa Kinh Tế: Những tác động tiêu
cực của quá trình Toàn Cầu Hóa Kinh Tế bắt nguồn từ nguyên nhân cơ bản là
các nước công nghiệp phát triển, nhất là Mỹ hiện còn chiếm ưu thế trong nền
kinh tế thế giới, thao túng quá trình Toàn Cầu Hóa Kinh Tế, lợi dụng quá trình
Toàn Cầu Hóa Kinh Tế để tăng cường bóc lột các nước nghèo thu lợi nhuận độc
quyền cao. Có thể nêu ra một số tác động tiêu cực sau đây của quá trình Toàn
Cầu Hóa Kinh Tế:
– Toàn Cầu Hóa Kinh Tế thông qua tự do hóa thương mại thường đem lại
lợi ích lớn hơn cho các nước công nghiệp phát triển vì sản phẩm của họ có chất
lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp, do đó có sức cạnh tranh cao dễ chiếm lĩnh
thị trường. Mặc khác, tuy nói là tự do hóa thương mại song các nước công
nghiệp phát triển vẫn áp dụng những hình thức bảo hộ công khai (như áp dụng
hạn ngạch) hoặc trá hình (như tiêu chuẩn lao động, môi trường…). Tuy có
chuyển giao công nghệ song các nước công nghiệp phát triển thường không
chuyển giao những thành tựu mới nhất mà thậm chí là chuyển giao những công
nghệ lạc hậu hoặc đã khấu hao hết giá trị vào các nước chậm phát triển. Điều
này tác động xấu đến sự phát triển kinh tế ở các nước chậm phát triển và dẫn
7


đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế ở các nước này.
– Toàn Cầu Hóa Kinh Tế tác động trực tiếp đến lĩnh vực chính trị và an
ninh quốc gia. Nó tạo ra nguy cơ cho các nước chậm và đang phát triển bị lệ
thuộc vào kinh tế, từ đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị, gây nguy hại đến chủ
quyền dân tộc và an ninh quốc gia. Thông qua con đường trao đổi, hợp tác kinh
tế, đầu tư, viện trợ, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hóa, các thế lực
đế quốc đứng đầu là Mỹ muốn áp đặt hệ tư tưởng tư sản vào các nước khác, thực
hiện “diễn biến hòa bình” thay đổi chế độ xã hội theo hướng thân phương Tây.

Đối với các nước XHCN, chúng tìm cách xóa bỏ chế độ XHCN và vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng Sản… Thông qua con đường kinh tế, Mỹ và các thế lực đế
quốc tìm cách gây sức ép với nhiều nước khác trong đó có các nước đi theo con
đường XHCN về những vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo…, dùng
mọi hình thức để can thiệp vào công việc nội bộ của nước đó.
– Toàn Cầu Hóa Kinh Tế làm trầm trọng thêm những bất công xã hội, làm
sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Những
nước được hưởng lợi nhiều nhất trong quá trình Toàn Cầu Hóa Kinh Tế là những
nước có nền KTTT phát triển (Mỹ, EU, Nhật…), những nước chịu nhiều thiệt
thòi nhất trong quá trình Toàn Cầu Hóa Kinh Tế là những nước có nền kinh tế
đang và chậm phát triển, các yếu tố của KTTT chưa được hình thành đồng bộ.
Theo báo cáo của chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), toàn thế giới
vẫn còn hơn 1,2 tỷ người nghèo. Hiện tại, dân chúng ở 85 quốc gia có mức sống
thấp hơn so với cách đây 10 năm. Các nước công nghiệp phát triển, với khoảng
1,2 tỷ người, chiếm 1/5 dân số thế giới hiện đang chiếm tới 86% GDP toàn cầu,
trong khi đó các nước nghèo chiếm 1/5 dân số thế giới nhưng chỉ tạo ra 1% GDP
toàn cầu. Năm 1985, thu nhập bình quân tính theo đầu người ở các nước giàu chỉ
gấp 76 lần so với các nước nghèo thì đến năm 1997, sự chênh lệch này đã tăng:
288 lần. Theo tổng kết của UNDP, từ khi diễn ra quá trình Toàn Cầu Hóa đến
nay, trên thế giới có 10 nước giàu lên, 130 nước nghèo đi, trong đó 60 nước
8


GDP bình quân đầu người thấp hơn trước khi tham gia Toàn Cầu Hóa. Tổng số
nợ nước ngoài của các nước kém phát triển lên tới gần 2000 tỷ USD. Trong đó,
250 tỷ thuộc 41 quốc gia kém phát triển nhất. Trong số những nước vay nợ để
phát triển, chưa đến 10% số nước có khả năng trả được nợ. Số còn lại biến thành
con nợ lưu cữu. Nợ nước ngoài quá lớn của nhiều nước hiện nay như tảng đá
đeo lên cổ họ đã kéo lùi sự tăng trưởng kinh tế ở những nước này.
– Toàn Cầu Hóa Kinh Tế có thể làm cho mọi hoạt động và đời sống con

người trở nên kém an toàn. Từ an toàn của từng con người, từng gia đình đến an
toàn quốc gia và an toàn của hệ thống thương mại, hệ thống tài chính toàn cầu.
– Do tác động của Toàn Cầu Hóa Kinh Tế các dòng hàng hóa, dịch vụ,
vốn, công nghệ… dễ lưu thông trên bình diện toàn thế giới. Song cũng chính vì
vậy mà sự đổ vỡ và “khủng hoảng” ở một khâu hoặc ở một nước nào đó theo
hiệu ứng lan truyền có thể làm rung chuyển đến tất cả các quốc gia và khu vực
trên thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Châu Á năm 1997 là một ví
dụ.
– Toàn Cầu Hóa Kinh Tế có thể giúp cho các nước công nghiệp phát triển
lợi dụng việc trả lương cao, các thiết bị nghiên cứu khoa học tốt, môi trường làm
việc thuận lợi để thu hút nhân tài từ các nước đang phát triển. Do vậy, nguy cơ
chảy máu chất xám là một hiểm họa thực sự của các nước đang phát triển trong
cơ lốc của Toàn Cầu Hóa Kinh Tế.

9


10


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆT NAM
2.1 Tính tất yếu của hội nhập kinh tế ở Việt Nam
Báo cáo chính trị – Đại hội IX (2001) và NQ 07 – Bộ Chính trị (tháng
11/2001) bàn về HNKTQT, nhấn mạnh: Nước ta chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc,
giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi HNKTQT là một nội dung quan trọng trong
đường lối phát triển kinh tế và đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
HNKTQT là một trong những định hướng quan trọng để tranh thủ ngoại lực,

khai thác nội lực, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân
chủ công bằng văn minh và ngày càng củng cố định hướng XHCN Nội dung chủ
yếu của HNKTQT mà nước ta cần và có thể tham gia từng bước là mở cửa thị
trường về thương mại, đầu tư và dịch vụ. Hội nhập kinh tế có cả hình thức đa
phương và song phương, vừa tham gia vào các tổ chức và diễn đàn kinh tế thế
giới và khu vực, vừa thiết lập quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học – kỹ thuật
với từng nước. HNKTQT là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh thủ
vừa cạnh tranh, vừa tận dụng cơ hội vừa đối phó thách thức. Đối với nước ta
hiện nay, thách thức lớn nhất là khả năng cạnh tranh yếu về kinh tế, là sự yếu
kém về năng lực dự báo chiều hướng phát triển kinh tế thế giới trong điều kiện
TOÀN CẦU HÓA, là trình độ non kém của đội ngũ cán bộ và bộ máy công
quyền… Do vậy, chúng ta phải tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở rộng
thị trường với một lộ trình hợp lý. Lộ trình này được xác định trên cơ sở tính
toán căn cứ vào các yêu cầu và cam kết của ta khi gia nhập các tổ chức kinh tế
khu vực và quốc tế, các thỏa thuận đàm phán song phương, đa phương. Tuy
nhiên, xác định lộ trình HNKTQT không chỉ xác định thời gian mở cửa thị
trường trong nước cho hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nước ngoài thâm nhập mà
còn phải tính toán thời điểm nền kinh tế nước ta từng bước vươn lên chiếm lĩnh
11


thị trường quốc tế, phát triển thị trường trong nước.
Với nhận thức và nhu cầu nói trên, suốt mấy chục năm qua Đảng ta luôn
luôn nhấn mạnh yêu cầu mở rộng sự hợp tác kinh tế quốc tế, đẩy mạnh xuất
khẩu, tranh thủ vốn, công nghệ từ bên ngoài. Đại hội IX lần đầu tiên đã nêu khái
niệm “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và tháng 11/2001 Bộ Chính trị Trung
ương Đảng đã thông qua nghị quyết riêng là Nghị quyết 07/NQ-TW về hội nhập
kinh tế quốc tế. Cũng theo tinh thần đó Đại hội X bổ sung thêm ý “tích cực” sau
ý “chủ động” hội nhập kinh tế quốc tế nhằm nhấn mạnh thêm quyết tâm hội

nhập. Trên thực tế nước ta đã hội nhập với kinh tế thế giới khi gia nhập Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1995, tổ chức thương mại thế giới WTO
(năm 2006) ký các hiệp định thương mại – đầu tư song phương với EU, Hoa Kỳ
rồi sau đó là Nhật Bản theo các thông lệ quốc tế.
2.2 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ đổi mới đến
nay.
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đặt ra từ Đại hội
Đảng VI (1986) trên cơ sở đường lối đổi mới và “mở cửa” nền kinh tế và trên cơ
sở chính sách, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với phương châm đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Về các bước đi trong quá trình hội nhập
chúng ta cần xem xét đến hai mặt:
a. Đối với bên ngoài.
- Chúng ta đã thực hiện lần lượt các bước đi cụ thể, đó là:
Năm 1993 đã khai thông quan hệ với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB).
Tháng 1/1995 gửi đơn xin gia nhập WTO (chính thức là thành viên của
tổ chức này vào tháng 11/2007). Ngày 25/07/1995 đã chính thức gia nhập Hiệp
hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời tham gia vào AFTA và chương
trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT), cũng trong năm này ta tiến
hành bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ.
Tháng 3/1996 tham gia diễn đàn Á – Âu (ASEM) với tư cách là thành
12


viên sáng lập.
Ngày 15/6/1996 gửi đơn xin gia nhập APEC và đến tháng 11/1998 được
công nhận là thành viên của APEC.
Năm 2000 ký hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ …
b. Đối với trong nước.
Chúng ta đã làm 3 việc cơ bản: Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật, văn

bản dưới luật tạo hành lang pháp lý phù hợp cho hội nhập (Ví dụ: Luật Doanh
nghiệp, Luật Công ty, Luật Đầu tư nước ngoài, …); thực hiện sự chuyển đổi thể
chế kinh tế, đổi mới chính sách và hệ thống kinh tế vĩ mô và cố gắng cải cách
kinh tế, xây dựng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với luật pháp và tập quán quốc tế; để thống nhất việc chỉ đạo quá trình Việt Nam
hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 10/2/1998 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định
31/1998-TTg thành lập Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. Ủy ban này
có nhiệm vụ giúp Thủ tướng chỉ đạo và điều hành các cán bộ, ban, ngành trong
việc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3 Thành tựu và hạn chế
a. Thành tựu
Việt Nam ra khỏi tình trạng bị bao vây cấm vận, cô lập, tạo dựng được
môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới. Tính
đến năm 2004, Việt Nam đã ký 90 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và 40 hiệp định chống đánh thuế hai lần với
các nước và vùng lãnh thổ, 81 thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc; có quan hệ
thương mại với trên 160 quốc gia và nền kinh tế; thiết lập quan hệ với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế; là thành viên của ASEAN, ASEM, APEC, …
Thực hiện thành công Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
(1991-2000) GDP tăng trưởng bình quân 8.2%/năm trong giai đoạn 1991 –
2000, khoảng 7% trong hai năm 2001 và 2002, 7.24% năm 2003, 7.69% năm
2004, 8.4% năm 2005 và 8.17% năm 2006 và là nước có tốc độ tăng GDP cao
13


thứ hai thế giới, chỉ đứng sau Trung Quốc. Hạ tầng cơ sở được cải thiện rõ rệt.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế một cách tích cực theo hướng tăng dần
tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị nông nghiệp
trong cơ cấu tổng thu nhập quốc dân. Cơ cấu vùng kinh tế cũng bắt đầu thay đổi

theo hướng hình thành các vùng trọng điểm, các KCN tập trung, các KCX.
Chuyển toàn bộ nền kinh tế sang môi trường cạnh tranh, lấy mục đích và hiệu
quả kinh tế xã hội làm cơ sở, thay đổi thói quen trông chờ vào sự bảo hộ nơi
Nhà nước của các doanh nghiệp.
Mở rộng được thị trường Xuất – Nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước
phát triển, tạo thêm việc làm,

tăng thu ngân sách. Năm 1990 kim ngạch xuất

khẩu mới đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu là 2,752 tỷ USD thì năm 2001 kim
ngạch xuất khẩu đã đạt 15 tỷ USD (nếu tính cả dịch vụ thì đạt 17,6 tỷ USD),
tăng mỗi năm trung bình trên 20%, có năm tăng 30% (gấp hơn 7 lần năm 1990).
Năm 2003 xuất khẩu đạt 20,176 tỷ USD, xuất khẩu bình quân đầu người đạt trên
200 USD, đây là mức được thế giới công nhận là quốc gia có nền xuất khẩu bình
thường. Bên cạnh xuất khẩu hàng hóa,xuất khẩu dịch vụ và hợp tác lao động
cũng đạt được mức tăng trưởng liên tục. Xuất khẩu dịch vụ giai đoạn 2001-2003
đạt khoảng 8,15 triệu USD, tăng bình quân 9.65%/năm. Từ 2001 đến nay có 127
nghìn người đi làm việc ở nước ngoài, tăng 27% so với thời kỳ 1996-2000. Số
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đã tăng lên 16.200 so với 495 doanh nghiệp
năm 1991.
Thu hút được một nguồn lớn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). Đến
nay ta đã thu hút được trên 41.538 tỷ USD vốn đầu tư từ 64 quốc gia và vùng
lãnh thổ với trên 4.370 dự án. Trong đó đã thực hiện trên 24.658 tỷ USD. Nguồn
đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta:
chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất
khẩu, giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động và hàng chục vạn lao
động gián tiếp. Tranh thủ được kỹ thuật tiên tiến và khoa học quản lý mới. Tranh
thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn, đồng thời
14



giảm đáng kể nợ nước ngoài. Các nhà tài trợ đã cam kết dành cho nước ta gần
20 tỷ USD, chủ yếu là cho vay ưu đãi và một phần là viện trợ không hoàn lại.
b. Hạn chế
Nhiều ngành, cấp và doanh nghiệp còn chưa nhận thức đầy đủ, những cơ
hội và thách thức của tiến trình hội nhập này cũng chưa thực sự nắm vững để có
kế hoạch chủ động nắm bắt thời cơ, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn
ít hiểu biết về lộ trình và các yêu cầu của hội nhập. Đa số vẫn trông chờ ở sự bảo
hộ của Nhà nước.
Hệ thống pháp luật, chính sách quản lý nền kinh tế thị trường không đồng
bộ, còn thay đổi, chưa phù hợp thông lệ quốc tế, do đó chưa đáp ứng yêu cầu hội
nhập. Chính sách điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế thiếu đồng bộ, nhất quán và
chưa phù hợp với điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp nhìn chung còn yếu, chính sách vĩ mô chưa tạo
được động lực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Thêm
vào đó năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập còn yếu, việc chỉ đạo và
thực hiện quá trình hội nhập còn bất cập; chưa có một chiến lược tổng thể về hội
nhập kinh tế quốc tế cho cả giai đoạn dài với các lộ trình mở cửa trong từng lĩnh
vực cụ thể.
2.4 Giải pháp đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
Trước bối cảnh quốc tế và thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam,
trong thời gian tới rất cẩn có một số nhóm giải pháp để có thể đẩy mạnh tiến
trình này, cụ thể:
- Nâng cao nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế, chống tư tưởng ỷ lại,
trông chờ vào bảo hộ của Nhà nước.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng cách tăng cường đổi
mới nền kinh tế trong nước vào hướng xuất khẩu, đầu tư thiết bị và công nghệ
tiên tiến, khai thác các ngành mà Việt Nam có lợi thế trước mắt và lâu dài, tăng
cường cải cách hành chính, đặc biệt là tổ chức thực hiện. Tăng cường năng lực
và sự phối hợp của các bộ, ngành trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

15


- Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao
tính chủ động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh đi đôi với việc giải quyết vấn đề
việc làm và thay đổi ngành nghề của người lao động.
- Coi trọng phát triển thị trường trong nước đi đôi với mở rộng thị trường
xuất khẩu, quản lý tốt nhập khẩu. Đẩy mạnh và phát triển thương mại dịch vụ.
- Xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống văn bản pháp luật phục vụ
phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chuẩn bị sẵn sàng chấp nhận thách thức mở cửa thị trường để các ngành
kinh tế phải vươn lên không trông chờ mãi vào bảo hộ của Nhà nước.
- Đào tạo nguồn nhân lực cho tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế.
 Kết luận chung về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Bằng các bước đi vững chắc chúng ta đang từng bước tiến vào thị trường
thế giới, và đang trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thế giới.
Qua thực tiễn 20 năm đổi mới đã chứng minh con đường đổi mới theo hướng
hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng. Tuy còn
một số hạn chế trong khi thực hiện, nhưng về căn bản đã đưa nước ta từ một nền
kinh tế tập trung bao cấp kém phát triển, trở thành một nền kinh tế thị trường
đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Là sinh viên Học viện Hành Chính thì phải
nhận thức được xu thế toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay là hết sức cần thiết bởi
chúng ta là những cán bộ quản lý kinh tế trong tương lai, là những người trực
tiếp điều hành kinh tế đất nước nên phải có nhận thức đúng và rõ ràng xu thế
hiện nay trên thế giới để có phương pháp học tập tốt hơn, sau này trở thành
những người lãnh đạo thực sự giỏi để đưa đất nước tiến bước trên con đường xã
hội chủ nghĩa.


16



×