Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn thành phố Hà Nội (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LỆ HẰNG

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04S

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS

. Cao Tanh

HÀ NỘI – 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LỆ HẰNG

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI



Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Cao Thị Oanh

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Viện khoa học xã hội, Viện hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG TRƯỜNG
HỢP ĐỒNG PHẠM .....................................................................................................8

1.1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
trong trường hợp đồng phạm ..........................................................................................8
1.2. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong
trường hợp đồng phạm .................................................................................................12
1.3. Căn cứ quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp
đồng phạm ....................................................................................................................21
1.4. Ý nghĩa việc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường
hợp đồng phạm .............................................................................................................36
Chương 2: THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..............................................................................................39
2.1. Kết quả quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp
đồng phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội...................................................................39
2.2. Những vi phạm trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong
trường hợp đồng phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội................................................49
2.3. Nguyên nhân của những vi phạm trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm ..................................................................59
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG
PHẠM .........................................................................................................................64
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật Hình sự....................................................64
3.2. Giải pháp về kiểm tra, tổng kết xét xử, giám đốc xét xử, kiểm sát và xây dựng án lệ ....67
3.3. Nâng cao năng lực, trình độ những người tiến hành tố tụng.................................69
3.4. Nâng cao chất lượng hồ sơ đầu vào.......................................................................71
KẾT LUẬN .................................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................76


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


BLDS:

Bộ luật Dân sự

BLHS:
BLTTHS:
CTTP:

Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng Hình sự
Cấu thành tội phạm

TNHS:
TAND:

Trách nhiệm Hình sự
Tòa án nhân dân

VKSND:
XPSH:

Viện kiểm sát nhân dân
Xâm phạm sở hữu

HĐXX:

Hội đồng xét xử


DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 1.1.
Bảng 2.1.

Thống kê khung hình phạt các tội xâm phạm sở hữu theo
BLHS 1999 và BLHS 2015
Thống kê số liệu vụ án và bị cáo các tội xâm phạm sở hữu đã
thụ lý trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2012- 2016

Bảng 2.2.

Thống kê số liệu vụ án và bị cáo các tội xâm phạm sở hữu đã
giải quyết trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2012- 2016

Bảng 2.3.

Thống kê số vụ án/bị cáo về các tội xâm phạm sở hữu trong
trường hợp đồng phạm trong 100 bản án

Bảng 2.4.

Thống kê loại, mức hình phạt đối với các bị cáo các tội xâm
phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm

DANH MỤC CÁC BIỂU
Số hiệu
Biểu đồ 2.1.
Biểu đồ 2.2.

Tên biểu

Số vụ án và bị cáo các tội xâm phạm sở hữu đã thụ lý trên địa
bàn thành phố Hà Nội từ năm 2012- 2016
Số vụ án và bị cáo các tội xâm phạm sở hữu đã giải quyết
trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2012- 2016


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước bối cảnh xã hội không ngừng phát triển ngày nay, đất nước ta đang trong
đà hội nhập, kinh tế- xã hội, khoa học- công nghệ không ngừng nâng cao, đời sống
người dân cũng ngày càng được cải thiện. Song song với sự phát triển đó, việc bảo vệ,
bảo đảm các quyền của công dân cũng cần được đề cao, trong đó có quyền sở hữu.
Với sự phát triển của xã hội ngày nay, tài sản của công dân ngày càng có giá trị cao,
điều này đã trở thành mục tiêu cho những tội phạm xâm phạm sở hữu phát triển phức
tạp và chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu tội phạm của nước ta. Nhiều khảo sát về tình hình
tội phạm đã cho thấy, tội phạm xâm phạm sở hữu thường tập trung ở các thành phố
lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,... Trong đó, rất nhiều vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chất đồng phạm, tội phạm đã có sự cấu kết, móc nối chặt chẽ với
nhau thực hiện hành vi phạm tội ngày càng tinh vi.
Tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất đồng phạm có tính chất phức tạp, xảy
ra ở nhiều nơi. Điều này gây tâm lý, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân, gây
ảnh hưởng không nhỏ về cả người và tài sản, tạo ra tình hình mất an ninh, trật tự tại
nhiều nơi. Các đối tượng phạm tội có tính chất đồng phạm ngày càng có phương thức,
thủ đoạn phạm tội tinh vi, công khai và táo bạo, thể hiện sự coi thường tính mạng, sức
khoẻ, tài sản người khác. Đặc biệt nghiêm trọng hơn còn thể hiện sự coi thường pháp
luật, coi thường kỷ cương phép nước. Tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất đồng
phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội- thủ đô của đất nước, là một trong những trung
tâm kinh kế- xã hội quan trọng lại càng là vấn đề đáng lưu tâm.
Toà án nhân dân với vai trò là cơ quan áp dụng pháp luật là một trong những
yếu tố quan trọng góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung,

các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Bằng hoạt động xét xử, ra bản án thích đáng,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, Toà án có vai trò không nhỏ trong
việc răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm. Điều này được thể hiện qua việc quyết
định hình phạt của Toà án. Quyết định hình phạt nghiêm minh, đúng đắn sẽ mang lại
hiệu quả trong công tác giáo dục, phòng ngừa tội phạm. Quyết định hình phạt chưa
nghiêm, không thoả đáng ngược lại sẽ gây những tác động tiêu cực, dẫn đến hiện
tượng coi thường pháp luật, coi thường phán quyết của Toà án, làm giảm lòng tin của
nhân dân, đặc biệt làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói
chung, tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng.

1


Quyết định hình phạt có vai trò quan trọng đối với việc xử lý tội phạm. Đối với các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất đồng phạm, việc quyết định hình phạt chính xác, cho
thấy sự đánh giá đúng đắn về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng đối tượng
phạm tội sẽ góp phần làm tăng tính nghiêm minh, tính răn đe, giáo dục của pháp luật.
Vì lẽ đó, quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường
hợp đồng phạm là một trong những vấn đề cần được quan tâm. Đặc biệt vấn đề này
đối với ngành Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội- nơi tập trung các cơ
quan quan trọng của đất nước, nơi pháp luật cần được nêu cao đi đầu lại càng cần
được đặt trong sự quan tâm sâu sắc. Thực tiễn xét xử chỉ ra rằng, vấn đề quyết định
hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn
thành phố Hà Nội có nhiều vấn đề đáng lưu tâm, còn tồn tại những sai lầm trong quyết
định hình phạt, thiếu tính thống nhất gây ảnh hưởng không nhỏ đến công tác đấu tranh
phòng ngừa các tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng, các loại tội phạm nói chung.
Việc tìm ra những tồn tại, sai lầm trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm
sở hữu trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội để kịp thời nắm
được nguyên nhân và đề ra các giải pháp khắc phục là vấn đề mang tính cấp thiết, cần
được quan tâm nghiên cứu kỹ càng.

Từ những phân tích nêu trên, nghiên cứu vấn đề quyết định hình phạt đối với
các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội
mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn nhằm đáp ứng đòi hỏi của xã hội với
công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng, các loại tội phạm
nói chung; đồng thời đưa ra cơ sở lý luận để có căn cứ quyết định hình phạt được
chính xác.
Bởi các lẽ trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Quyết định hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề
tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, Quyết định hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội là một trong
những vấn đề có ý nghĩa trong khoa học pháp lý hình sự. Liên quan đến đề tài này đã
được các nhà luật học nghiên cứu, đề cập trong các công trình, sách báo, tài liệu, luận
án, luận văn, tạp chí,... có thể kể đến như:
- Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội (2010); Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật

2


hình sự Việt Nam của tác giả Lê Văn Đệ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2005);
Trách nhiệm hình sự và hình phạt của tác giả GS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội (2001); Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung luật hình sự
"Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt" của GS.TSKH Lê Cảm,
Tập III, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2000); Định tội danh và quyết định hình phạt
của tác giả Dương Tuyết Miên, Nxb Lao động- xã hội, Hà Nội (2010); Tìm hiểu về
hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam của tác giả Đinh Văn
Quế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2010);... Ở các công trình nói trên, các tác giả
đã đề cập đến vấn đề Quyết định hình phạt dưới góc độ pháp lý nhưng chỉ dừng lại ở

tính lý luận chung, các khái niệm, định nghĩa về vấn đề quyết định hình phạt hoặc liên
quan đến vấn đề quyết định hình phạt nói chung. Chưa có công trình nào đề cập riêng
đến vấn đề quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp
đồng phạm.
- Bài viết "Quyết định hình phạt trong trường hợp chưa thành niên phạm tội"
của tác giả Trần Văn Dũng, Tạp chí Luật học (2000); Bài viết "Một số vấn đề về quyết
định hình phạt trong dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi" của tác giả Nguyễn Văn Hiện,
Tạp chí Toà án nhân dân (1999); Bài viết "Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình
sự về hệ thống hình phạt và quyết định hình phạt" của tác giả Phạm Mạnh Hùng, Tạp
chí Kiểm sát (2001);... Các bài viết trên đã có đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt
dưới góc độ luật hình sự nhưng đều chưa phải công trình nghiên cứu chuyên sâu. Các
bài viết cũng chưa đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt đối với tội phạm cụ thể, đặc
biệt chưa có bài viết nào về việc quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm.
- Đề tài "Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam"- Luận án Tiến sỹ
năm 2003 của tác giả Dương Tuyết Miên; Đề tài "Trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm sở hữu"- Luận án Tiến sỹ năm 2000 của tác giả Nguyễn Ngọc Chí; Đề tài
"Quyết định hình phạt trong những trường hợp đặc biệt"- Luận văn Thạc sỹ năm 2004
của tác giả Hoàng Chí Kiên; Đề tài "Căn cứ quyết định hịnh phạt: những vấn đề lý
luận và thực tiễn"- Luận văn Thạc sỹ năm 2006 của tác giả Phạm Đình Dũng; Đề tài
"Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu" (Trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng)- Luận văn Thạc sỹ năm 2015 của tác giả Nguyễn
Thế Văn; Đề tài "Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn
quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh"- Luận văn Thạc sỹ năm 2016 của tác giả Chu
Xuân Quyền;... Các đề tài trên đều đã đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt trong
các trường hợp khác nhau dưới góc độ luật hình sự và tội phạm học. Tuy nhiên, vấn đề

3


quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm lại

chưa được nghiên cứu sâu trong bất cứ đề tài nào. Đặc biệt, vấn đề này cũng chưa
được đề cập trên địa bàn thành phố Hà Nội, trung tâm văn hoá, chính trị, xã hội của
đất nước.
Qua việc tìm hiểu các công trình, bài viết, luận văn, luận án ở trên cho thấy, cơ
bản đã có các tài liệu nghiên cứu về vấn đề quyết định hình phạt cũng như có các công
trình nghiên cứu trực diện vấn đề với tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, việc nghiên
cứu vấn đề quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng
phạm lại còn bỏ ngỏ. Hơn nữa, nghiên cứu vấn đề này trên địa bàn thủ đô Hà Nội là
vấn đề cần thiết lại chưa được đề cập đến. Đến thời điểm tác giả nghiên cứu, đề tài
"Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm
từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là đề tài nghiên cứu có tính mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng tới mục đích nghiên cứu trên cơ sở lý luận và thực tiễn những
vấn đề về quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng
phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó, hình thành các khái niệm chuyên sâu về
vấn đề quyết định hình phạt, các căn cứ, nguyên tắc trong trường hợp này. Luận văn
cũng làm rõ tình hình thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu
trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm
2012- 2016, chỉ ra những sai lầm trong quyết định hình phạt, tìm ra những nguyên
nhân để kịp thời đề xuất những giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm nói
riêng, các loại tội phạm nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu được đề ra ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn yêu
cầu làm rõ những vấn đề:
Thứ nhất, nghiên cứu, phân tích và đưa ra khái niệm quyết định hình phạt đối
với tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm; Làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận xung quanh vấn đề quyết định hình phạt này; Phân tích các căn cứ pháp lý hình
sự đặt ra đối với vấn đề nghiên cứu; Thấy được ý nghĩa của vấn đề quyết định hình

phạt đối với tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm.
Thứ hai, phân tích, làm rõ vấn đề quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở
hữu trong trường hợp đồng phạm trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xử của ngành

4


Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội, thấy được những mặt tích cực, những
sai lầm, hạn chế trong vấn đề này; tìm ra được nguyên nhân của những sai lầm, hạn
chế trong việc quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp
đồng phạm của Toà án trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Thứ ba, đề xuất được các giải pháp kịp thời khắc phục những sai lầm, hạn chế
liên quan đến vấn đề quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu trong trường
hợp đồng phạm nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Hình sự
Việt Nam, các chính sách hình sự và thực tiễn xét xử tội phạm trên địa bàn thành
phố Hà Nội liên quan đến việc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở
hữu trong trường hợp đồng phạm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn dưới góc độ pháp lý hình sự các vấn đề liên
quan đến quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng
phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian 5 năm từ năm 2012 đến năm
2016. Góc độ nghiên cứu chủ yếu tập trung khảo sát 100 bản án về các tội xâm phạm
sở hữu có hình thức đồng phạm của TAND hai cấp thành phố Hà Nội.
Thời điểm tác giả nghiên cứu đề tài này, Bộ luật hình sự 2015 đã ban hành nhưng
sửa đổi vẫn chưa có hiệu lực. Các quy định hiện hành về quyết định hình phạt đối với các
tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm được tiến hành theo Bộ luật hình sự
1999 và các văn bản pháp luật hình sự hiện hành.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở nghiên cứu luận văn dựa trên phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Ngoài ra, các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực liên
quan đến vấn đề quyết định hình phạt cũng được tác giả sử dụng để nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng cụ thể trong luận văn để
thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, …

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, hệ thống về quyết định hình phạt
đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm. Ý nghĩa của luận văn
có thể kể đến:
- Về mặt lý luận, kết quả của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận
các vấn đề về quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp
đồng phạm làm phong phú về mặt tài liệu nghiên cứu khoa học để tham khảo cho các
bài viết, công trình nghiên cứu, bài giảng có liên quan.
- Về mặt thực tiễn, luận văn đưa ra các vấn đề thực tiễn, đánh giá, nêu ra các
sai lầm dễ mắc, bất cập trong việc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm
sở hữu trong trường hợp đồng phạm và đề xuất những giải pháp hợp lý, có ý nghĩa
trong việc xử lý tội phạm nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định
của pháp luật hình sự hiện hành trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Luận văn là công trình nghiên cứu chuyện sâu góp phần trang bị thêm các kiến thức
thực tiễn cho các cán bộ trong công tác xét xử để giải quyết các vụ án hình sự trong
trường hợp đồng phạm với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng cũng như với các tội

phạm nói chung.
Từ ý nghĩa trên, những đóng góp mới về khoa học của luận văn bao gồm:
- Phân tích, làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận, đưa ra vấn đề quyết định hình
phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm. Phân tích để thấy
rõ các cơ sở quyết định hình phạt trong trường hợp này.
- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành
về vấn đề quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp
đồng phạm và thực tiễn áp dụng pháp luật để quyết định hình phạt trên địa bàn thành
phố Hà Nội, nêu lên những hạn chế, bất cập, sai lầm trong thực tiễn áp dụng những
quy định của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt. Từ những hạn chế đó, tìm ra
các nguyên nhân để kịp thời nêu phương hướng khắc phục.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc quyết định hình phạt đối
với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm góp phần cho công tác đấu
tranh phòng ngừa có hiệu quả các tội phạm xâm hại sở hữu nói riêng cũng như các loại
tội phạm nói chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được kết cấu gồm 3 chương, cụ thể:

6


Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyết định hình phạt đối với
các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm
Chương 2: Thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng quyết định hình phạt đối với các
tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm.

7



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM
1.1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở
hữu trong trường hợp đồng phạm
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong
trường hợp đồng phạm
Quyết định hình phạt là một trong những hoạt động quan trọng của cơ quan tiến
hành tố tụng mà ở đây thực hiện là Toà án. Vấn đề quyết định hình phạt thể hiện tập
trung nhất bản chất giai cấp và chính sách pháp luật hình sự của một quốc gia. Có
quyết định hình phạt chính xác, có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật mới
phát huy được hết hiệu quả nhằm đạt được mục đích của hình phạt được pháp luật
hình sự đề ra. Khoa học luật hình sự đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề quyết định hình
phạt, tuy nhiên, một khái niệm chính thống của vấn đề này lại chưa được thống nhất.
Trong khoa học luật hình sự, quyết định hình phạt được nghiên cứu dưới hai
góc độ: góc độ luật hình sự và góc độ luật tố tụng hình sự. Luật hình sự nghiên cứu
vấn đề trong nội dung của việc quyết định hình phạt, hình phạt cụ thể được quyết định
là gì, mức hình phạt ra sao. Luật TTHS lại đề cập vấn đề quyết định hình phạt là một
hoạt động tố tụng của Toà án trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, trình tự, thủ tục để
thực hiện quyết định hình phạt.
Từ điển luật học định nghĩa quyết định hình phạt là “xác định loại và mức hình
phạt cụ thể (kể cả hình phạt bổ sung nếu có) trong phạm vi luật cho phép để áp dụng
đối với người phạm tội cụ thể” [42, tr.659].
ThS. Đinh Văn Quế đưa ra định nghĩa về quyết định hình phạt: “Quyết định
hình phạt là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành. Tòa
án lựa chọn loại hình phạt nào, mức hình phạt bao nhiêu phải tuân thủ theo những
quy định của Bộ luật hình sự”[20, tr.88].

Từ góc độ luật TTHS, TS. Chu Thị Trang Vân đưa ra quan điểm: “Quyết định
hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân, là việc Tòa án lựa chọn loạt hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định
trong luật hình sự tương ứng với cấu thành tội phạm cụ thể để áp dụng với người
phạm tội, thể hiện trong các bản án phạm tội” [40, tr.73].
8


Để có thể quyết định hình phạt, Toà án phải dựa vào các căn cứ: Các quy định
của BLHS; Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; Nhân thân người
phạm tội; Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS. Luật hình sự Việt Nam quy định
hình phạt trong mỗi cấu thành tội phạm (CTTP) đa số là chế tài lựa chọn. Việc quyết
định hình phạt chính là việc lựa chọn một hình phạt, mức hình phạt cụ thể để áp dụng
đối với người phạm tội dựa vào các căn cứ nêu trên. Ngoài ra, cũng cần lưu ý vấn đề
quyết định hình phạt bổ sung là việc lựa chọn một hay nhiều hình phạt bổ sung mà
pháp luật cho phép để áp dụng bổ sung cho hình phạt chính mặc dù vấn đề quan trọng
nhất trong quyết định hình phạt vẫn tập trung vào quyết định hình phạt chính.
Việc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu cũng có tính chất,
đặc điểm tương tự như tác giả đã trình bày ở trên và căn cứ dựa trên các CTTP của các
tội xâm phạm sở hữu được quy định tại Chương XIV BLHS.
Qua việc nghiên cứu, phân tích các định nghĩa, khái niệm các học giả đưa ra về
quyết định hình phạt, với khái niệm về quyết định hình phạt nói chung, quyết định
hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng, tác giả có đồng quan điểm với
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí: “Quyết định hình phạt là việc nhận thức và áp dụng
pháp luật hình sự do Tòa án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện sau khi đã
định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để quyết định khung hình phạt,
loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung), mức hình phạt cụ thể áp dụng cho
cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định, phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình
phạt cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự” [9].

Quyết định hình phạt luôn đi đôi với hình phạt. Hình phạt là nội dung được
phản ánh trong quyết định hình phạt. Toà án là cơ quan tố tụng duy nhất, nhân danh
nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam bằng bản án tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự lựa chọn loại hình phạt, mức hình phạt cụ thể tương ứng với hành vi phạm tội
của mỗi tội phạm cụ thể được quy định tương ứng trong các CTTP nói chung, CTTP
về các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
Vấn đề quyết định hình phạt khi đặt ra đối với các trường hợp đồng phạm là
một trong những vấn đề cần lưu tâm. Ngoài các yếu tố cần chú ý về quyết định hình
phạt như đã phân tích, trình bày ở trên, quyết định hình phạt trong trường hợp đồng
phạm còn phải dựa vào tính chất của đồng phạm, vai trò và mức độ tham gia phạm tội
của từng người đồng phạm trong vụ án.

9


Từ những phân tích nêu trên, tác giả xin đưa ra khái niệm về quyết định hình
phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm như sau:
“Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng
phạm là việc nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Tòa án có thẩm quyền, nhân
danh Nhà nước thực hiện qua bản án sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng
trường hợp đồng phạm để quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính,
hình phạt bổ sung), mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với cá nhân mỗi người đồng
phạm trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định tại các điều luật tương
ứng thuộc chương quy định về Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS, phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của đồng phạm; vai trò và
mức độ tham gia tội phạm của từng người đồng phạm hoặc miễn hình phạt đối với
từng người đồng phạm theo quy định của Bộ luật hình sự”.
1.1.2. Đặc điểm của quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong
trường hợp đồng phạm
Với khái niệm về quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong

trường hợp đồng phạm được trình bày ở trên, những đặc điểm cần lưu ý trong trường
hợp này cụ thể như sau:
Thứ nhất, quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường
hợp đồng phạm chỉ do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền là Toà án, nhân danh
Nhà nước áp dụng đối với mỗi người phạm tội bằng bản án. Việc quyết định hình phạt
có sự liên quan chặt chẽ đối với vấn đề định tội danh. Việc Quyết định hình phạt là
hoạt động chỉ duy nhất Toà án có thẩm quyền quyết định. Tại phiên toà, căn cứ vào
diễn biến, thông qua việc đánh giá công khai, toàn diện các chứng cứ, tình tiết vụ án,
Tòa án sẽ quyết định áp dụng hình phạt nào, mức hình phạt bao nhiêu hay các biện
pháp pháp lý khác cho từng bị cáo, tác động trực tiếp vào các quyền của mỗi bị cáo
phải chịu trách nhiệm với Nhà nước.
Thứ hai, quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường
hợp đồng phạm cần phải căn cứ vào quy định cụ thể của các CTTP tại Chương XIV
BLHS 1999 (Đối với BLHS 2015 là Chương XVI) về các tội xâm phạm sở hữu. Đối
với mỗi tội phạm khác nhau, pháp luật hình sự phân chia theo từng chương rõ rệt căn
cứ vào khách thể là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm. BLHS quy định nhóm tội
xâm phạm sở hữu gồm 13 tội, từ điều 133 đến điều 145 BLHS 1999 (từ điều 168 đến
điều 180 BLHS 2015).

10


Căn cứ vào mục đích của người phạm tội khi thực hiện hành vi được mô tả
trong CTTP, nhóm tội phạm này được khoa học pháp lý hình sự phân loại thành:
- Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (8 tội): Cướp tài sản; Bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Cưỡng đoạt tài sản; Cướp giật tài sản; Công nhiên chiếm
đoạt tài sản; Trộm cắp tài sản; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản.
Nhóm tội phạm này có bản chất pháp lý thể hiện qua việc người phạm tội cố ý
thực hiện hành vi hoặc có mục đích chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ người khác

thành tài sản của mình hoặc cho người mà mình quan tâm bằng các hình thức khác
nhau. Nhóm tội phạm này xâm hại đến quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản. Do có
hình thức (biểu hiện) của hành vi chiếm đoạt tài sản trên thực tế khách quan khác nhau
nên BLHS xây dựng thành các tội danh với tính chất, mức độ khác nhau. Trên thực tế,
khi tội phạm thực hiện hành vi khách quan có thể có những thay đổi, được gọi là
chuyển hóa tội phạm nhưng về bản chất, hành vi nào biểu hiện tập trung nhất của việc
chiếm đoạt (bao gồm cả hành vi chiếm đoạt và mục đích chiếm đoạt) thì sẽ định tội
danh cho hành vi đó.
- Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt, nhưng có động cơ
vụ lợi (2 tội): Chiếm giữ trái phép tài sản; Sử dụng trái phép tài sản.
Nhóm tội phạm này có bản chất pháp lý thể hiện qua việc người phạm tội xâm
phạm đến khách thể là quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản của chủ sở hữu hoặc người
được giao quyền hợp pháp đối với tài sản từ chủ sở hữu mà không có mục đích xâm
phạm vào quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản (tức là không chiếm đoạt hoàn toàn
đối với tài sản). Người phạm tội có động cơ vụ lợi từ việc chiếm hữu, sử dụng tài sản
(có thể là khai thác giá trị của tài sản, thu hoa lợi, lợi tức từ tài sản mang lại,…).
- Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt và không có động cơ
vụ lợi (3 tội): Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; Vô ý gây thiệt hại nghiêm
trọng đến tài sản.
Nhóm tội này có bản chất pháp lý thể hiện qua việc người phạm tội không
chiếm đoạt tài sản, không có hành vi chiếm hữu hay sử dụng trái phép tài sản, cũng
không có động cơ vụ lợi từ việc chiếm hữu, sử dụng tài sản mà vì những lý do khác
nhau hoặc do những sơ xuất trong cuộc sống (làm việc, sinh hoạt...) mà gây thiệt hại
cho tài sản của cá nhân, tổ chức, làm cho tài sản bị thay đổi so với trạng thái ban đầu.

11


Thứ ba, quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp

đồng phạm thì những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội
phạm mà họ đã tham gia thực hiện. Đối với trường hợp đồng phạm, tất cả cá nhân mỗi
người phạm tội không kể họ tham gia tội phạm với vai trò gì đều phải bị truy tố, xét
xử, đưa ra quyết định hình phạt tương ứng về cùng một tội danh theo cùng điều luật và
phạm vi chế tài điều luật ấy quy định với họ.
Thứ tư, quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp
đồng phạm phải có sự phân hoá TNHS của từng người trong đồng phạm. Đối với các
đồng phạm cùng thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu, những người trong
đồng phạm không phải chịu TNHS do hành vi của những người đồng phạm khác tự ý
thực hiện, vượt quá tội phạm trong đồng phạm, không nằm trong ý thức của những
người đồng phạm khác. Việc phân hoá TNHS phải được xem xét, áp dụng đúng đối
với trường hợp đồng phạm nhằm mục đích đưa ra quyết định hình phạt đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Vấn đề phân hoá TNHS trong đồng phạm cùng thực hiện tội
phạm xâm phạm sở hữu còn cần căn cứ, xem xét vai trò, mức độ tham gia của mỗi
đồng phạm trong vụ án. Khi quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
trong trường hợp đồng phạm cần đánh giá rõ từng trường hợp phạm tội cụ thể; các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS; nhân thân hoặc tình tiết miễn hình phạt, miễn TNHS
của mỗi người trong đồng phạm. Tình tiết của riêng người nào chỉ được áp dụng đối
với riêng người đó.
1.2. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong
trường hợp đồng phạm
Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong
trường hợp đồng phạm cần đảm bảo thể hiện là những tư tưởng chỉ đạo, những chủ
trương, chính sách, định hướng cơ bản trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự. Từ
những nguyên tắc đó, Toà án có căn cứ, định hướng rõ ràng trong việc quyết định hình
phạt, đảm bảo công bằng, hợp lý, đúng pháp luật phù hợp với các giá trị tư tưởng, đạo
đức tồn tại trong xã hội nước ta. Hơn nữa, điều này còn làm nâng cao uy tín của Tòa
án, của các cơ quan bảo vệ pháp luật và của Nhà nước nói chung.
Vấn đề quyết định hình phạt nói chung, quyết định hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm nói riêng không có quy định cụ thể

những nguyên tắc phải tuân thủ trong BLHS Việt Nam. Qua nghiên cứu, ta có thể rút
ra các nguyên tắc Toà án cần tuân thủ trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm

12


phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm gồm có: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa; Nguyên tắc nhân đạo; Nguyên tắc công bằng; Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt.
1.2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế XHCN là nguyên tắc mang tính bao trùm nhất trong các
nguyên tắc cơ bản của luật hình sự. Pháp chế XHCN là sự tôn trọng, tuân thủ, chấp
hành nghiêm chỉnh hiến pháp, pháp luật của các cơ quan, nhân viên nhà nước, của các
tổ chức xã hội và nọi công dân [42, tr.603]. Pháp chế XHCN là phương thức quan
trọng của quản lý nhà nước, nguyên tắc này được thể hiện ở tầm hiến định và được
xây dựng từng bước qua các giai đoạn phát triển của nhà nước và pháp luật Việt Nam.
Pháp chế XHCN ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước giai cấp vô sản. Ngay từ
những bản hiến pháp đầu tiên, nguyên tắc pháp chế XHCN đã được ghi nhận là một
quy tắc hiến định. Nguyên tắc này được tái khẳng định tại Điều 12 Hiến pháp năm
1992 rồi đến Điều 8 Hiến pháp 2013.
Nguyên tắc pháp chế XHCN trong luật hình sự có thể được định nghĩa: là
những quy định cơ bản bao trùm nhất, được ghi nhận xuyên suốt trong các văn bản
pháp luật hình sự và mang ý nghĩa chỉ đạo đối với tất cả các hoạt động trong pháp luật
hình sự đòi hỏi người thực hiện phải triệt để tuân theo các quy định pháp luật ghi nhận.
Theo đó, tất cả những gì là cơ sở của TNHS, vấn đề định tội danh, quyết định hình
phạt, biện pháp tư pháp cũng như việc áp dụng các hình thức TNHS khác với tư cách
là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm đều phải được quy định trong đạo luật
hình sự. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức, tổ chức xã
hội, công dân phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật, trên tinh thần thượng
tôn pháp luật.
Quyết định hình phạt đối với tội phạm nói chung, đối với các tội xâm phạm sở

hữu trong trường hợp đồng phạm nói riêng là hoạt động mang tính cốt lõi của quá
trình xét xử của Toà án. Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi suốt
quá trình tiến hành tố tụng kể từ khâu điều tra, truy tố, xét xử đến khi Toà án quyết
định hình phạt đối với tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm sở hữu trong trường
hợp đồng phạm nói riêng phải tuân thủ đúng, phù hợp các quy định của pháp luật.
Nội dung thể hiện nguyên tắc pháp chế XHCN đối với các tội xâm phạm sở hữu
trong trường hợp đồng phạm gồm:
Một là, Toà án chỉ có thể quyết định hình phạt đối với các tội phạm xâm phạm
sở hữu trong trường hợp đồng phạm khi và chỉ khi hình phạt áp dụng được quy định
trong BLHS. Những hành vi bị coi là tội phạm phải được quy định thành các tội danh

13


cụ thể, rõ ràng bởi quy phạm pháp luật hình sự [38, tr.20-21]. Điều 2 BLHS 1999 quy
định:“Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự”. Điều 8 BLHS một lần nữa khẳng định nội dung nguyên tắc
pháp chế khi quy định tội phạm phải là hành vi đã được quy định trong BLHS. Định
nghĩa về hình phạt tại Điều 26 cũng không quên ghi nhận nguyên tắc này. Điều 45
BLHS về quyết định hình phạt quy định: “Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ
vào quy định của Bộ luật hình sự,…”.
Vấn đề quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp
đồng phạm theo đó phải được pháp luật hình sự quy định. Trên cơ sở các quy định của
pháp luật về các tội xâm phạm sở hữu được quy định cụ thể ở các điều luật từ Điều
133 đến 145 thuộc Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 1999 (từ
Điều 168 đến Điều 180 BLHS 2015). Tính chất và mức độ nghiêm khắc của mỗi hình
phạt, mức hình phạt đối với từng tội trong nhóm xâm phạm sở hữu tương ứng với mức
độ nguy hiểm cho xã hội mà hành vi phạm tội xâm phạm. Khi quyết định hình phạt đối
với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm, nguyên tắc pháp chế
XHCN đòi hỏi khi xét xử về tội phạm cụ thể nào của Chương về các tội xâm phạm sở

hữu, trước hết người áp dụng phải căn cứ vào các điều luật cụ thể được quy định trong
BLHS về tội phạm đó, sau đó, các nguyên tắc khác trong vấn đề quyết định hình phạt
được pháp luật hinhg sự ghi nhận mới được áp dụng để đưa ra mức hình phạt chính
xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hai là, cơ sở của quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong
trường hợp đồng phạm đúng pháp luật, công bằng và hợp lý là việc định tội danh
chính xác. Để quyết định hình phạt một cách nghiêm minh, việc định tội danh chính
xác đối với các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong chương về tội phạm này là
điều không thể không nhắc tới. Nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi tội phạm phải
được xác định đúng theo cấu thành tội phạm đã được BLHS ghi nhận. Loại hình phạt
cụ thể có thể được áp dụng cho người phạm tội phải được quy định bởi quy phạm pháp
luật hình sự và phải được xác định cho từng tội danh đã được quy định [38, tr.21].
Người phạm tội bị xét xử về tội danh gì thì hình phạt được áp dụng đối với họ phải
theo đúng tội danh đó [29, tr. 18].
Ba là, việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội nói chung, với tội phạm
xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm nói riêng phải được quy định thống
nhất bởi quy phạm pháp luật hình sự. Đối với từng tội phạm xâm phạm sở hữu cụ thể,
trong quá trình xét xử vụ án hình sự, nguyên tắc pháp chế được thể hiện ở chỗ, thẩm

14


phán và các hội thẩm nhân dân có nghĩa vụ phải tôn trọng mức hình phạt đã được xác
định bởi luật. Thẩm phán và hội thẩm nhân dân không được quyền áp dụng hình phạt
khác ngoài hình phạt đã được điều luật quy định trong khung hình phạt được giới hạn.
Cụ thể, khi xét xử và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu Hội đồng
xét xử phải căn cứ vào các quy định cụ thể của Chương XIV BLHS 1999 để cân nhắc
lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt tương xứng được quy định trong các điều
luật cụ thể, trong các điểm khoản cụ thể, sau đó, cân nhắc đối với từng đồng phạm cụ
thể trong vụ án trên cơ sở các quy định đã được pháp luật ghi nhận. Trường hợp nhất

định mà pháp luật cho phép, Hội đồng xét xử có quyền áp dụng việc quyết định hình
phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác
nhẹ hơn khi hội đồng xét xử căn cứ quy định Điều 47 BLHS 1999 cũng vẫn phải căn
cứ theo nguyên tắc quy định tại Điều 47 đã được BLHS ghi nhận, nó không nằm ngoài
nguyên tắc pháp chế XHCN mà tất cả người áp dụng pháp luật phải tuân theo.
Pháp luật hình sự Việt Nam có quy định vấn đề đạo luật hình sự không có hiệu
lực hồi tố. Tuy nhiên, ở giai đoạn chuyển giao hiệu lực giữa BLHS 1999 và BLHS
2015, hiệu lực hồi tố của đạo luật hình sự lại được quy định như một trường hợp ngoại
lệ. Đối với các trường hợp tội phạm được quy định trong đạo luật hình sự, đạo luật nào
có lợi hơn đối với người phạm tội sẽ được ưu tiên áp dụng và có hiệu lực hồi tố. Hiệu
lực hồi tố này thể hiện tính khoan hồng, đảm bảo quyền lợi cho tội phạm được áp dụng
không chỉ ở nước ta mà còn nhiều nước trên thế giới.
Bốn là, Toà án nhân danh nhà nước thực hiện việc quyết định hình phạt đối với
mỗi bị cáo trong trường hợp đồng phạm của các tội xâm phạm sở hữu phải được thể
hiện công khai tại phiên toà và bằng một bản án. Nguyên tắc pháp chế thể hiện ở tính
chính xác của hình phạt được tuyên, tính lập luận logic, hình phạt được quyết định phù
hợp thể hiện bằng bản án là một văn bản quy phạm pháp luật được nhân danh nhà
nước ban hành. Để thực hiện được điều này, hội đồng xét xử trong suốt quá trình xét
xử vụ án để đi đến quyết định hình phạt phải thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục Bộ
luật TTHS quy định, bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN trong TTHS “Mọi hoạt
động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này” (Điều 3 Bộ luật
TTHS).
Nguyên tắc pháp chế là nguyên tắc nền tảng cơ bản. Đảm bảo nguyên tắc pháp
chế về quyết định hình phạt là yêu cầu thiết yếu, khách quan đối với hoạt động áp
dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền. Điều này giúp duy trì, đảm bảo hiệu

15



quả, hiệu lực của pháp luật đã được đặt ra, giúp tạo lập và duy trì trật tự xã hội, tôn
trọng kỷ cương, phép nước.
1.2.2. Nguyên tắc nhân đạo
Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng lên được Cương lĩnh Đảng cộng sản
Việt Nam xác định là xã hội mà ở đó, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân [11, tr.8- 9].
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam đề cao, ghi nhận một nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quan điểm phát triển vì con người là quan điểm mang
tính chất hiến định. Quan điểm này thể hiện tập trung nhất đó là chủ nghĩa nhân đạo.
Điều này đã được nâng lên thành nguyên tắc hiến định “nguyên tắc nhân đạo”.
Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc quan trọng của pháp luật Việt Nam nói
chung, pháp luật hình sự nói riêng. Đây là nguyên tắc chi phối cả phương pháp điều
chỉnh của pháp luật, cả tính chất của các quan hệ pháp lý và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
các chương, điều của BLHS [41, tr.31]. Theo nghĩa rộng, nguyên tắc nhân đạo trong
luật hình sự chính là việc kịp thời có các chế định về TNHS làm cơ sở phục vụ cho
quá trình đấu tranh bảo vệ các mối quan hệ xã hội; nhân đạo trước hết là thể hiện trách
nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ các lợi ích của xã hội, Nhà nước, công dân.
Theo nghĩa hẹp, nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự thể hiện thái độ khoan hồng
của pháp luật đối với người phạm tội.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo có thể hình thành như sau: Một là,
đối với người phạm tội, việc áp dụng hình phạt chỉ cần thiết đến mức cần và đủ cho
việc đạt được mục đích cải tạo, giáo dục, phòng ngừa. Hai là, hình phạt và các biện
pháp khác của TNHS không nhằm mục đích gây đau đớn về thể xác và hạ thấp phẩm
giá con người.
Trước hết, khi xét xử vụ án, tuyệt đối không được có thái độ định kiến với bị
cáo, coi họ là người có tội bởi lẽ “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9 Bộ luật TTHS
2003). Việc xét xử vụ án phải đặt mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội lên hàng
đầu với thái độ thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật. Quá trình xét xử các

bị cáo cần cân nhắc tất cả các đặc điểm tốt về nhân thân của người phạm tội trong
phạm vi luật định; xem xét tính chất, mức độ của tội phạm được thực hiện bởi mỗi bị
cáo; hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội để có thể đưa ra quyết định một hình phạt ở
mức cần thiết vừa đủ sự răn đe, phòng ngừa người khác phạm tội cũng như việc lôi

16


kéo thành tổ chức đồng phạm lớn và đề cao mục đích giáo dục mỗi người phạm tội để
nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình gây ra những ảnh hưởng tiêu cực như thế nào
cho xã hội, lấy đó làm bài học sửa chữa, cải tạo cũng như giáo dục, vận động quần
chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung,
tội phạm xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm nói riêng.
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong việc quyết định hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm cũng cần căn cứ vào các quy định của
pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu quy định tại Chương XIV của BLHS
1999 (Chương XVI của BLHS 2015) để xem xét quyết định hình hình phạt đối với
người phạm tội. Cần tuân thủ đúng các nguyên tắc xử lý về tội phạm, phân loại rõ ràng
đối với mỗi đồng phạm trong vụ án, áp dụng đúng các vấn đề về miễn, giảm hình phạt,
miễn TNHS, các quy định khi áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với
tội phạm là phụ nữ có thai, người già. Toà án khi quyết định hình phạt cần có sự cân
nhắc hài hoà, đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của công dân cũng như của người phạm
tội. Khi có bất cứ sự thiên lệch hay ý chí chủ quan cực đoan nào trong hoạt động quyết
định hình phạt, điều đó sẽ đều dẫn đến sự bất công và thiếu tính nhân đạo.
Tuân thủ nguyên tắc nhân đạo trong việc quyết định hình phạt đối với tội phạm
nói chung, tội phạm xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm nói riêng không
đồng nghĩa với việc bỏ qua các quy định chung của pháp luật hình sự về quyết định
hình phạt mà tùy tiện quyết định. Các quy định đối với từng hình phạt, mức hình phạt
cụ thể vẫn cần dựa trên cơ sở cấu thành tội phạm đã được BLHS quy định tương ứng
với các quy định tại chương về các tội xâm phạm sở hữu mà áp dụng một cách hài

hoà, có căn cứ, luận cứ để đưa ra hình phạt và mức hình phạt thoả đáng.
Có thể nói, nguyên tắc nhân đạo XHCN là nguyên tắc thể hiện rõ chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta trong chính sách pháp luật nhằm xây dựng một nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nguyên tắc nhân đạo
không chỉ giúp đề cao các giá trị và khả năng quản lý xã hội, quản lý nhà nước bằng
pháp luật mà còn làm sáng tỏ yêu cầu về đạo đức mới trong chính sách pháp luật nói
chung, pháp luật hình sự nói riêng, lấy đạo lý của sự nhân đạo, khoan hồng làm
phương pháp ưu tiên để giáo dục, cải tạo, cảm hoá những người vi phạm pháp luật và
người phạm tội.
1.2.3. Nguyên tắc công bằng
Ph.Ăngghen đã viết: “Công bằng luôn luôn là sự biểu hiện có tính tư tưởng hệ
của các quan hệ kinh tế hiện hữu hoặc là từ mặt bảo thủ, hoặc là từ mặt cách mạng

17


của các quan hệ đó” [1, tr.273]. Nước ta ngay từ các chủ trương, đường lối, chính sách
đã thể hiện rõ việc coi trọng nguyên tắc công bằng. Hiến pháp nước ta ghi nhận
nguyên tắc công bằng qua điều luật rõ rệt: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật” (Điều 16 Hiến pháp 2013). Cụ thể hoá nguyên tắc hiến định này, Điều 3 BLHS
1999 quy định: “2. Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân
biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội”.
Với ngành luật hình sự, nguyên tắc công bằng được thể hiện là sự tương xứng
giữa tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và TNHS của mỗi
người phạm tội phải gánh chịu. Đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu trong trường
hợp đồng phạm, nguyên tắc công bằng theo đó được thể hiện là sự tương xứng giữa
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm phạm các quan hệ sở hữu
được pháp luật bảo vệ và TNHS của từng người đồng phạm thực hiện hành vi phạm
tội đó phải gánh chịu. Mục đích và nội dung trọng tâm của ngành tư pháp hình sự khi
ghi nhận nguyên tắc công bằng suy cho cùng chính là để đảm bảo vấn đề quyết định

hình phạt.
Đối với các tội xâm phạm sở hữu, tính công bằng được thể hiện thông qua các
cấu thành tội phạm được phân loại rõ ràng theo từng điều, khoản, điểm; qua việc xem
xét, đánh giá tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi chiếm đoạt tài sản, mức độ
chiếm đoạt hoặc gây thiệt hại về tài sản của người phạm tội để phân loại tội phạm một
cách cụ thể. Nguyên tắc công bằng đòi hỏi khi quyết định hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội do hành vi xâm phạm quan hệ sở hữu gây ra; vai trò, vị trí của từng
người đồng phạm khi thực hiện hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS, nhân thân của mỗi người đồng phạm thực hiện tội phạm xâm phạm sở hữu.
Một loạt các chế định, quy phạm pháp luật hình sự cũng được ghi nhận để đảm bảo
thực hiện nguyên tắc công bằng khi quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở
hữu như: các quy định về đường lối xử lý tại các đoạn 2 và 3 khoản 2 Điều 3 BLHS
1999 và 2015; về miễn TNHS tạiĐiều 25 BLHS 1999 và Điều 29 BLHS 2015; về hệ
thống các hình phạt; các quy định về vấn đề quyết định hình phạt v.v... Quyết định
hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm tuân theo
nguyên tắc công bằng được thể hiện ở hai mặt: Công bằng giữa những người đồng
phạm cùng thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu trong vụ án; Công bằng với
chính người phạm tội xâm phạm sở hữu.

18


Nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở
hữu trong trường hợp đồng phạm đòi hỏi hình phạt và mức hình phạt được quyết định
phải phản ánh một cách đúng đắn tư tưởng, đường lối, chính sách về vấn đề công bằng
của đất nước, thể hiện hài hoà với dư luận xã hội, ý thức, pháp luật và đạo đức xã hội.
Vấn đề quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng
phạm phải có sức thuyết phục người dân ở tính chính xác, tính công bằng, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.

Nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt nói chung, quyết định hình
phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp đồng phạm nói riêng như là
một nguyên tắc có tính giá trị chung, gắn kết các nguyên tắc của luật hình sự. Nguyên
tắc công bằng có khả năng dung hoà và điều hoà giữa các nguyên tắc của luật hình sự,
hoàn toàn phù hợp với tư tưởng pháp lý tiến bộ của thế giới, đảm bảo quyền con
người, quyền công dân trong xã hội.
1.2.4. Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt
Cá thể hoá hình phạt là làm cho hình phạt được tuyên phù hợp với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phù hợp với nhân thân cũng như
hoàn cảnh phạm tội của người phạm tội [42, tr.91]. Cá thể hoá hình phạt được xác định
là một trong những nguyên tắc của luật hình sự nói chung, của việc quyết định hình
phạt nói riêng. Trong áp dụng luật hình sự, nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc
cá thể hoá TNHS.
Khi quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp
đồng phạm, Toà án phải căn cứ vào các quy định của BLHS về tội phạm xâm phạm sở
hữu, về vấn đề đồng phạm và các văn bản liên quan. Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc
là khi quyết định hình phạt, cần căn cứ vào tính chất, vai trò, mức độ tham gia của mỗi
đồng phạm trong vụ án, nhân thân của từng người đồng phạm và các tình tiết giảm
nhẹ, tăng nặng TNHS. Từ đó, Toà án sẽ quyết định chọn loại và mức hình phạt cụ thể
tương ứng với từng đối tượng trong vụ án đồng phạm với các tội xâm phạm sở hữu đã
được quy định trong BLHS. Người phạm tội ở mức độ nào thì phải chịu TNHS tương
ứng ở mức độ đó. Điều kiện giảm nhẹ hay tăng nặng TNHS của bị cáo này không
đương nhiên dùng để áp dụng cho bị cáo khác cùng phạm một tội xâm phạm sở hữu
trong trường hợp đồng phạm. Tình tiết về nhân thân người phạm tội nào trong đồng
phạm thì phải áp dụng với chính người phạm tội đó, không đương nhiên áp dụng cho
đồng phạm khác. Các tình tiết miễn hay loại trừ TNHS, miễn hình phạt của riêng
người phạm tội nào trong đồng phạm thì chỉ áp dụng riêng đối với người phạm tội đó.

19



×