Tải bản đầy đủ (.ppt) (11 trang)

Tuần 11. Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân tích và so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.65 KB, 11 trang )


Thế nào là thao tác lập luận phân tích?
Thế nào là thao tác lập luận so sánh?


Tiết thứ: 43

LUYỆN TẬP VẬN DỤNG KẾT HỢP CÁC
THAO TÁC LẬP LUẬN PHÂN TÍCH VÀ
SO SÁNH.
I. ÔN TẬP HAI THAO TÁC LẬP LUẬN:
1. Lập luận phân tích:
Chia nhỏ vấn đề ra theo một tiêu chí nào đó để làm sáng
tỏ vấn đề đang bàn luận.


2. Lập luận so sánh:
Đặt đối tượng đang bàn luận trong tương quan với đối tượng
khác để làm sáng tỏ đối tượng.

II. VẬN DỤNG HAI THAO TÁC:

1. Bài tập 1:
Đoạn văn

Đoạn văn có sử dụng
những thao tác nào? Chỉ ra
cụ thể?

“Chớ tự kiêu tự đại. Tự kiêu tự đại là khờ dại. Vì mình hay, còn nhiều người
hay hơn mình. Mình giỏi, còn nhiều người giỏi hơn mình. Tự kiêu tự đại tức


là thoái bộ. Sông to bể rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ
lượng của nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn thì một chút nước cũng
đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu tự mãn thì cũng như cái
chén, cái đĩa cạn”


Đoạn văn có sử dụng những thao tác lập luận phân tích và so
sánh:

“Chớ tự kiêu tự đại. Tự kiêu tự đại là khờ dại. Vì mình
hay, còn nhiều người hay hơn mình. Mình giỏi, còn
nhiều người giỏi hơn mình. Tự kiêu tự đại tức là thoái
bộ. Sông to bể rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa
được, vì độ lượng của nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ,
cái đĩa cạn thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ
lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu tự mãn thì cũng
như cái chén, cái đĩa cạn”

Phân tích

+So sánh: Để thấy sự
nhỏ bé, vô nghĩa và
đáng thương của thói
tự kiêu tự mãn đối với
mỗi cá nhân trong tập
thể hoặc cộng đồng

Thao tác nào đóng
vai trò chủ yếu, thao
tác nào là bổ trợ?

Thao tác phân tích đóng vai trò chủ đạo, thao tác so sánh có vai trò bổ
trợ.


Từ sự tìm hiểu trên ta
rút ra kết luận gì về việc
sử dụng hai thao tác
-Phân tích nhằm giúp con người nhận thức bằng tư duy
này trong khi viết văn?
trừu tượng, so sánh giúp con người nhận thức bằng tư
duy cụ thể.
-Mỗi VB nghị luận thường có một thao tác lập luận chủ
đạo và một hoặc hơn một thao tác lập luận khác bổ trợ thì
văn bản mới sinh động, hấp dẫn.


-Bài tập 2: Vận dụng kết hợp phân tích và so sánh, viết đoạn
văn bàn về vẻ đẹp một tác phẩm văn học, tác giả .

-Chia thành 4 nhóm: trao đổi, thảo luận và đại diện nhóm trình
bày. Nhận xét, rút kinh nghiệm.

Gợi ý:
-Đoạn văn viết về vấn đề gì? Viết ra nhằm mục đích gì?
-Cần trình bày những luận điểm nào? Cần đưa ra những luận cứ nào
để làm sáng tỏ luận điểm?
-Sử dụng thao tác nào là chủ đạo?




Đoạn văn tham khảo:
“ Không phải đến Xuân Diệu, thơ Việt nam mới đụng đến thời gian. Xưa
Nguyễn Du đã từng than: “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”. Gần chúng ta hơn,
Tản Đà tặc lưỡi: “Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê !”. Nhưng chỉ với Xuân
Diệu, thời gian trở thành một nỗi ám ảnh. Thời gian trong thơ ông không chỉ là
cảm xúc, là thi hứng, mà còn là nhân tố kiến trúc của tác phẩm nghệ thuật. Có
thể nói, Xuân Diệu nhìn đời bằng con – mắt – thời – gian, “chất Xuân Diệu”,
phong cách thơ của ông là ở đó.
Xuân Diệu có hẳn một bài thơ trực tiếp trình bày quan niệm của ông về thời
gian. Ông ví thời gian như dòng nước chảy, đời người như con thuyền trôi.
Dòng nước thời gian cứ trôi vô tình, không để ý đến tình cảm, ý chí của con
người đi trên thuyền (“Nước không vội vàng/ cũng không trễ tràng/ nước trôi vô
tình”).Thời gian cũng như đời người “một đi không trở lại” (“Thuyền không trở
về / nước cũng mất luôn”).Nhưng thời gian mất là mất số tháng ngày hữu hạn
trong cái quỹ “ba vạn sáu ngàn ngày là mấy” của đời người, còn thời gian,
khách quan thì tồn tại vĩnh viễn như trời đất. Đời người, do vậy cũng trở nên
thoáng chốc và quý giá”


“ Không phải đến Xuân Diệu, thơ Việt nam mới đụng đến
thời gian. Xưa Nguyễn Du đã từng than: “Ngày vui ngắn
chẳng tày gang”. Gần chúng ta hơn, Tản Đà tặc lưỡi:
“Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê !”. Nhưng chỉ với
Xuân Diệu, thời gian trở thành một nỗi ám ảnh. Thời gian
trong thơ ông không chỉ là cảm xúc, là thi hứng, mà còn
là nhân tố kiến trúc của tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói,
Xuân Diệu nhìn đời bằng con – mắt – thời – gian, “chất
Xuân Diệu”, phong cách thơ của ông là ở đó.
Xuân Diệu có hẳn một bài thơ trực tiếp trình bày quan
niệm của ông về thời gian. Ông ví thời gian như dòng

nước chảy, đời người như con thuyền trôi. Dòng nước
thời gian cứ trôi vô tình, không để ý đến tình cảm, ý chí
của con người đi trên thuyền (“Nước không vội vàng/
cũng không trễ tràng/ nước trôi vô tình”).Thời gian cũng
như đời người “một đi không trở lại” (“Thuyền không trở
về / nước cũng mất luôn”).Nhưng thời gian mất là mất số
tháng ngày hữu hạn trong cái quỹ “ba vạn sáu ngàn ngày
là mấy” của đời người, còn thời gian, khách quan thì tồn
tại vĩnh viễn như trời đất. Đời người, do vậy cũng trở nên
thoáng chốc và quý giá”

so sánh

Phân
tích


Bài tập 3. Viết lại và hoàn thiện đoạn văn đã trình bày ở bài 2.



×