Tải bản đầy đủ (.pptx) (18 trang)

Tuần 15. Đọc thêm: Vận nước (Quốc tộ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.67 KB, 18 trang )

ĐỌC THÊM

QUỐC TỘ ( PHÁP THUẬN)
CÁO TẬT THỊ CHÚNG ( MÃN GIÁC THIỀN SƯ)
QUI HỨNG ( NGUYỄN TRUNG NGẠN)

GIÁO VIÊN: NGUYỄN THỊ HẰNG NGA
THPT HOÀI ĐỨC B


I- QUỐC TỘ ( VẬN NƯỚC)
Đỗ Pháp Thuận



Thiền Sư Pháp Thuận (chữ Hán: 法法法法  Pháp Thuận Thiền Sư, 914-990)
tên thật là Đỗ Pháp Thuận ( 法法法 ), là thiền sư đời thứ 10, dòng 
Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Sư trụ trì ở Chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ải. Không biết
tểu sử là người ở đâu. Sư họ Ðỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu
rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm
thầy. Sau khi đắc pháp, Sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ.



Ðang vào lúc nhà Tiền Lê dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, Sư
tham dự đắc lực. Ðến khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận phong
thưởng. Vua Lê Ðại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên,
chỉ gọi Ðỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho Sư.

Chùa Nhất Trụ- cố đô Hoa Lư- Ninh Bình- nơi thờ thiền sư Pháp
Thuận và Khuông Việt




I- QUỐC TỘ ( VẬN NƯỚC)
Đỗ Pháp Thuận




Quốc tộ (Hán tự:  國國 ) là một trong
những bài thơ sớm nhất có tên tác giả
của văn học viết Việt Nam.
Đây là bài thơ nổi tếng trong 
lịch sử Việt Nam, nếu như 
Nam quốc sơn hàđược coi là bản 
tuyên ngôn độc lập đầu tên của 
Việt Nam thì Quốc tộ được coi là bản
tuyên ngôn hòa bình đầu tên của Việt
Nam. Bài thơ là câu trả lời của thiền sư 
Đỗ Pháp Thuận đối với Hoàng đế Lê Hoàn
 khi được hỏi "Vận nước ngắn dài thế
nào?".


I- QUỐC TỘ ( VẬN NƯỚC)
Đỗ Pháp Thuận

國國
法法法法法法
法法法法法法
法法法法法法

法法法法法法
Phiên âm
Quốc tộ
Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh..


I- QUỐC TỘ ( VẬN NƯỚC)
Đỗ Pháp Thuận



Dịch nghĩa:
Vận nước
Vận nước như dây mây leo quấn quýt,
Ở cõi trời Nam [mở ra] cảnh thái bình.
Vô vi ở nơi cung điện,
[Thì] khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh.


I- QUỐC TỘ ( VẬN NƯỚC)
Đỗ Pháp Thuận




1. “Vận nước như mây quấn”




- Vận nước phụ thuộc vào nhiều quan hệ ràng
buộc, không thể chỉ dựa vào một yếu tố mà
thành (đường lối trị quốc tốt, quan hệ ngoại giao
tốt, có tiềm năng quân sự, tiềm lực kinh tế, sự
nhất trí cao giữa người đứng đầu và muôn
dân…)

- Hình ảnh so sánh: hiểu về vận nước phải sâu
sắc chứ không đơn giản, dễ dãi.


I- QUỐC TỘ ( VẬN NƯỚC)
Đỗ Pháp Thuận



2. Suy nghĩ của tác gia

- Đem hiểu biết của mình về tư tưởng trị nước bày
tỏ với nhà vua để đất nước hoà bình, dân an
cư…
- Vô vi (vô vi pháp của nhà Phật): từ bi bác ái, điện
các (triều đình, nhà vua) 法 muốn giữ yên và phát
triển vận nước thịnh vượng, vua phải làm những
gì thuận vơí tự nhiên, lòng người, phải lấy Đức
để trị nước và lo cho dân
- “Chốn chốn tắt binh đao”: đất nước không còn
chiến tranh, nước thanh bình thì vận nước và

ngôi vua bền vững.
-> Hai câu cuối là nét đẹp truyền thống của dân tộc
Việt Nam: yêu nước, khao khát nhân đạo, hoà
bình.


II. Có bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng)
– Mãn Giác thiền sư

• Mãn Giác ( 法法 ), 1052-1096, là một 



Thiền sư Việt Nam thuộc đời thứ 8 của dòng
Thiền Vô Ngôn Thông. Sư nối pháp Thiền sư 
Quảng Trí và truyền tâm ấn lại cho đệ tử là 
Bản Tịnh. Với bài thơ "Cáo tật thị chúng", ông
được nhiều người coi là một nhà thơ đại biểu
của dòng văn thơ Lý-Trần
Đại sư Mãn Giác tên tục là Nguyễn Trường
(theo là Lý Trường 法法 ), thân phụ là Hoài Tố
làm chức Trung thơ Viên ngoại lang. Thiếu thời,
Lý Nhân Tông thường mời con em các danh gia
vào hầu hai bên, Nguyễn Trường nhờ nghe
nhiều, nhớ kỹ học thông cả Nho, Thích nên
được dự tuyển. Sau những lúc việc quan,
Nguyễn Tường thường chú tâm vào Thiền học.
Đến khi vua lên ngôi, vì rất mến chuộng nên
vua Lý Nhân Tông ban cho Nguyễn Trường hiệu
Hoài Tín.



II. Có bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng)
– Mãn Giác thiền sư




Năm 1096, cuối tháng 11, khi lâm bệnh
nặng Sư gọi chúng(đệ tử) đọc bài kệ, sau
này được biết dưới tên Cáo tật thị chúng
Nói xong Sư ngồi kết già thị tịch, thọ 45
tuổi. Sau lễ hoả táng, xá lợi được thờ tại
chùa Sùng Nghiêm, vua thuỵ hiệu là Mãn
Giác.


II. Có bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng)
– Mãn Giác thiền sư

Dịch nghĩa:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.


II. Có bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng)

– Mãn Giác thiền sư



Thích Thanh Từ dịch thơ:

Xuân đi trăm hoa rụngXuân đến trăm hoa nở
Trước mắt việc đi mãiTrên đầu, già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua – sân trước – một cành mai.


II. Có bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng)
– Mãn Giác thiền sư



Kê: thể văn mà Phât giáo dùng để truyền
bá giáo lí nhà Phât, viết bằng văn vần,
nhiều bài có giá trị văn chương.



- Diễn tả qui luât vân đông và biến đổi
của thiên nhiên, đời người.


II. Có bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng)
– Mãn Giác thiền sư


1. Bốn câu thơ đầu:



- Câu 1 và 2: qui luật biến đổi của thiên nhiên, cây cối biến
đổi theo thời tiết, theo mùa. Hoa rụng, hoa nở 法 sự luân hồi,
xuân và hoa tạo bầu khí ấm áp, đầy sức sống.



- Câu 3 và 4: qui luật biến đổi của đời người, mái đầu bạc là
tượng trưng cho tuổi già, con người biến đổi trước thời
gian, nhưng không luân hồi như cây cối mà đi về phía huỷ
diệt, không thể cứu vãn.


II. Có bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng)
– Mãn Giác thiền sư



2. Hai câu thơ cuối

- Hai câu thơ cuối không tả cảnh thiên nhiên mà có ý nghĩa triết lý sâu sắc.
- Cành mai:
+ Ý nghĩa tượng trưng: bên cạnh qui luật biến đổi của vạn vật cũng có những
qui luật về sự bất biến. Đây là sự bất biến về tư tưởng, tình cảm, tinh
thần…
+ Hình tượng nghệ thuật đẹp: cái đẹp của tinh thần lạc quan, mạnh mẽ, kiên
định trước những biến đổi của trời đất và thời cuộc.

(Phật giáo thịnh hành, con người thời Lí dù xuất gia tu hành nhưng không quay
lưng với cuộc đời).


III. Hứng trở về (Quy hứng) – Nguyễn Trung Ngạn



Nguyễn Trung Ngạn 法法法 (1289–1370) tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, sinh tại làng Thọ Hoàng, huyện Thiên Thi, tỉnh
Hưng Yên. Nguyễn Trung Ngạn từ nhỏ đã thông minh xuất chúng, nổi tếng thần đồng. Năm 15 tuổi (1304) ông đã đỗ hoàng
giáp đời vua Trần Anh Tông, có trong tay bằng tến sĩ (cùng khoa với Mạc Ðĩnh Chi), năm 24 tuổi được làm Giám quân, năm
28 tuổi đi sứ nhà Nguyên. Tính ông cương trực, tài kiêm văn võ, có nhiều đóng góp cho công việc xây dựng và bảo vệ đất
nước lúc bấy giờ. Ông phò tá Vua Trần Minh Tông trong các chiến dịch bình định vùng Đà Giang và dẹp loạn ở Lào. Trong cuộc
đời làm quan qua năm đời vua triều Trần, ông từng được phong Đại học sĩ Trụ quốc Hướng huyện bá, Thiếu bảo Khai quốc
nội hầu,... cuối cùng làm đến chức Ðại hành khiển tước Thân quốc công, thọ 82 tuổi. 

Ông là một nhà thơ lỗi lạc với nhiều bài thơ được tuyển chọn trong các tuyển tập thơ sau này, đồng thời cũng là một nhà
thông thái về pháp luật. Ông và Trương Hán Siêu biên soạn bộ "Hoàng triều đại điển", bộ luật "Hình thư". Chữ Hán của
Nguyễn Trung Ngạn đánh dấu một thời điểm mà trong đó Nho học đã giành những vị trí mới trong công việc quản lý đất
nước và chấp chính ở triều đình. 

Về văn, theo lời giới thiệu về ông trong "Toàn Việt thi lục" của Lê Quý Đôn, ông từng cùng Trương Hán Siêu soạn bộ "Hoàng
triều đại điển", khảo soạn "Hình thư"; về thơ, ông viết rất nhiều, "Toàn Việt thi lục" chép được 84 bài.

Đền thờ Nguyễn Trung Ngạn


III. Hứng trở về (Quy hứng) – Nguyễn Trung Ngạn




Đền thờ Nguyễn Trung Ngạn

法法法法法法法法
法法法法法法法法
法法法法法法法法
法法法法法法法法



Lão tang diệp lạc tàm phương tận,
Tảo đạo hoa hương giải chính phì.
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,
Giang Nam tuy lạc bất như quy.



Dâu già lá rụng tằm vừa chín,
Lúa sớm nở hoa thơm, cua đang lúc béo.
Nghe nói ở nhà, dẫu nghèo vẫn tốt,
Đất Giang Nam tuy vui cũng chẳng bằng về nhà.


III. Hứng trở về (Quy hứng) – Nguyễn Trung Ngạn



Bài thơ được sáng tác khi tác gia đi sứ
sang Trung Quốc
* Nỗi nhớ, lòng yêu nước và niềm tự hào

dân tộc
- Nỗi nhớ hiện lên qua những sinh hoạt đời
thường (trồng dâu, nuôi tằm, trồng lúa,
sinh hoạt đạm bạc)法 cốt lõi của cảm xúc là
lòng yêu quê hương xứ sở.
- Cảm xúc bắt nguồn từ nhận thức lí trí: dẫu
nghèo khó vẫn hơn danh vọng chốn phần
hoa đô hội.
- Tiếng gọi trở về khắc khoải trong lòng kẻ
xa quê 法 Lòng yêu nước, niềm tự hào dân
tộc là cảm xúc chủ đạo của bài thơ.
Nguyễn Trung Ngạn
( 1289- 1370)


DẶN DÒ:
Học thuộc 3 bài thơ, và cho biết suy nghĩ của mình về vẻ đẹp
của một bài thơ mà em tâm đắc nhất trong số 3 bài thơ trên.



×