Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Phân tích và đánh giá thực trạng chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.48 KB, 26 trang )

ĐỀ TÀI: Phân tích và đánh giá thực trạng chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam trong những năm gần đây
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với bất kỳ một quốc nào, dù là nước phát triển hay đang phát triển thì vốn có
một vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế cũng như
giải quyết các vấn đề chính trị, văn hóa và xã hội. Nguồn vốn để phát triển kinh tế có
thể được huy động ở trong nước hoặc từ nước ngoài, tuy nhiên nguồn vốn trong nước
thường có hạn, nhất là đối với những nước đang phát triển như Việt Nam (có tỷ lệ tích
luỹ thấp, nhu cầu đầu tư cao nên cần có một số vốn lớn để phát triển kinh tế).Vì vậy,
nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia. Hơn nữa, trong bối cảnh của nền kinh tế phát triển, tự do hoá thương mại
và ngày càng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Vai trò của vốn đầu tư đặc biệt
là vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài để phát triển kinh tế được đánh giá là rất quan
trọng. Bất kỳ một quốc gia nào muốn tăng trưởng và phát triển đều cần một điều kiện
không thể thiếu được, đó là phải thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho nền
kinh tế. Vấn đề về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho việc phát triển kinh tế - xã hội
đều được các quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển quan tâm. Việt Nam cũng
nằm trong quy luật đó. Hay nói cách khác, Việt Nam muốn thực hiện được các mục tiêu
công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH - HĐH) đất nước thì vấn đề quan trọng hàng đầu
là phải huy động và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sao cho có hiệu quả nhất.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khái niệm
 Theo khái niệm của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987: Đầu tư trực
I.
1.

tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng
tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính Phủ Việt Nam chấp thuận để
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp Liên doanh
hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này.





Theo quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam theo quy định tại
khoản 1 điều 2, Luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi bổ sung năm 2000 “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng
tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo

quy định của luật này”.
 Theo quan điểm của Hoa Kỳ - một trong những nước tiến hành đầu tư và tiếp
nhận đầu tư lớn nhất thế giới cho rằng “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là bất kỳ
dòng vốn nào thuộc sở hữu đa phần của công dân hoặc công ty của nước đi đầu
tư có được từ việc cho vay hoặc dùng để mua sở hữu của doanh nghiệp nước
ngoài
 Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như là một
khoản đầu tư với những quan hệ, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà
đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế
khác.Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc
quản lý doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác đó
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà
đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào vào quốc gia
đó để được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế
tại quốc gia đó với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình.
2. Đặc điểm và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài và hình thức đầu tư
2.1

Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
 Bản chất, mục tiêu: là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành
sản xuất kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu

kinh tế- xã hội nhất định. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư
bản một hình thứ cao hơn của xuất khẩu hàng hóa .
 Về góp vồn đầu tư trực tiếp nước ngoài:


-

Thứ nhất, gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các loại tài sản
khác giữa các quốc gia, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh tế
nước tiếp nhận đầu tư và làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi đầu tư.

-

Thứ hai, được tiến hành thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh nghiệp mới
(liên doanh hoặc sở hữu 100% vốn), hợp đồng hợp tác kinh doanh, mua lại các
chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở mức khống chế hoặc tiến
hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp.

-

Thứ ba, nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu hoàn toàn vốn đầu tư hoặc cùng sở
hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất định đủ mức tham gia quản lý trực tiếp hoạt
động của doanh nghiệp.

-

Thứ tư, là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan hệ thị
trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan hệ chính trị giữa
các nước, các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao.


-

Thứ năm, nhà đầu tư trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận động của
dòng vốn đầu tư.

-

Thứ sáu, FDI bao gồm hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước và đầu tư
từ trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào một nước và
dòng vốn di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước đó.

-

Thứ bảy, FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện.

Các đặc điểm nêu trên mang tính chất chung cho tất cả các hoạt động FDI trên toàn thế
giới. Đối với Việt Nam, quá trình tiếp nhận FDI diễn ra đã được 20 năm và những đặc
điểm nêu trên cũng đã thể hiện rõ nét. Chính những đặc điểm này đòi hỏi thể chế pháp
lý, môi trường và chính sách thu hút FDI phải chú ý để vừa thực hiện mục tiêu thu hút


đầu tư, vừa bảo đảm mối quan hệ cân đối giữa kênh đầu tư FDI với các kênh đầu tư
khác của nền kinh tế.
 Tỉ lệ phân chia lợi nhuận:

Tỉ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy định quyền và
nghĩa vụ mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia dựa theo tỉ lệ này.
Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi tức. Về quyền kiểm soát: Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh
và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự lựa chọn lĩnh

vực đầu tư, hình thức đầu tư, quy mô đầu tư cũng như công nghệ cho mình. Vì thế hình
thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính
trị, không có gánh nặng về nợ nần cho nền kinh tế nước nhận đầu tư. FDI thường kèm
theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư.Thông qua hoạt động FDI,
nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh ngiệm
quản lý



Quyền kiểm soát:

-Về quyền kiểm soát: Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh
và tự chịu về lỗ, lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự lựa cho9nj lĩnh vực đầu tư,
hình thức đầu tư, quy mô đầu tư cũng như công nghệ cho mình. Vì thế hình thức này
mang tính khả thi và hiệu quả kinhy tế cao, không có những ràng buộc về chính trị,
không có ganhgs nặng về nợ nần cho nước nhận đầu tư.



Nhân tố ảnh hưởng


Nhân tố chính trị: Đối với nhân tố chính trị, đây là vấn đề được quan tâm đầu tiên của
các nhà đầu tư nước ngoài khi có ý định đầu tư vào một nước mà đối với họ còn nhiều
khác biệt. Khi đó một đất nước với sự ổn định và nhất quán về chính trị cũng như an
ninh và trật tự xã hội được đảm bảo sẽ bước đầu gây chọ được tâm lý yên tâm tìm
kiếm cơ hội làm ăn cũng như có thể định cư lâu dài. Môi trường chính trị ổn định là
điều kiện tiên quyết để kéo theo sự ổn định của các nhân tố khác như kinh tế, xã hội.
Đó cũng chính là lý do tại sao các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư vào một nước lại coi
trọng yếu tố chính trị đến vậy.

Nhân tố kinh tế: Đối với nhân tố kinh tế, bất cứ quốc gia nào dù giàu hay
nghèo, phát triển hoặc đang phát triển đều cần nguồn vốn nước ngoài để phát triển
kinh tế trong nước tùy theo các mức độ khác nhau. Những nước có nền kinh tế năng
động, tốc độ tăng trưởng cao, cán cân thương mại và thanh toán ổn định, chỉ số lạm
phát thấp, cơ cấu kinh tế phù hợp thì khả năng thu hút vốn đầu tư sẽ cao.
Ngoài ra, đối với các nhà đầu tư thì một quốc gia có lợi thế về vị trí địa lý, thuận lợi
cho lưu thông thương mại, sẽ tạo ra được sự hấp dẫn lớn hơn. Nó sẽ làm giảm chi phí
vận chuyển cũng như khả năng tiếp cận thị trường lớn hơn, rộng hơn. Còn tài nguyên
thiên nhiên, đối với những nước đang phát triển thì đây là một trong những lợi thế so
sánh của họ. Bởi nó còn chứa đựng nhiều tiềm năng do việc khan hiếm vốn và công
nghệ nên việc khai thác và sử dụng còn hạn chế, đặc biệt là những tài nguyên như dầu
mỏ, khí đốt … đó là những nguồn sinh lời hấp dẫn thu hút nhiều mối qua tâm của các
tập đoàn đầu tư lớn trên thế giới.
Nhân tố văn hóa - xã hội: Môi trường văn hóa – xã hội ở nước nhận đầu tư cũng
là một vấn đề được các nhà đầu tư rất chú ý và coi trọng. Hiểu được phong tục tập
quán, thói quen, sở thích tiêu dùng của người dân nước nhận đầu tư sẽ giúp cho nhà đầu
tư thuận lợi trong việc triển khai và thực hiện một dự án đầu tư. Thông thường mục đích
đầu tư là nhằm có chỗ đứng hoặc chiếm lĩnh thị trường của nước sở tại với kỳ vọng vào


sức tiêu thụ tiềm năng của nó. Chính vì vậy, mà trong cùng một quốc gia, vùng hay
miền nào có sức tiêu dùng lớn, thu nhập bình quân đầu người đi kèm với thị hiếu tiêu
dùng tăng thì sẽ thu hút được nhiều dự án đầu tư hơn.
Ngoài ra để đảm bảo cho hoạt động đầu tư được hiện thực hóa và đi vào hoạt động đòi
hỏi quốc gia tiếp nhận đầu tư phải đảm bảo một cơ sở hạ tầng đủ để đáp ứng tốt nhất
các nhu cầu đầu tư kể từ lúc bắt đầu triển khai, xây dựng dự án cho đến giai đoạn sản
xuất kinh doanh khi dự án đi vào hoạt động. Đó là cơ sở hạ tầng công cộng như giao
thông, liên lạc… các dịch vụ đảm bảo cho sinh hoạt và sản xuất như điện, nước cũng
như cácdịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh như ngân hàng - tài chính.
Bên cạnh đó nước sở tại cũng cần quan tâm đến việc trang bị một cơ sở hạ tầng xã hội

tốt, đào tạo đội ngũ chuyên môn có tay nghề, nâng cao trình độ nhận thức cũng như
trình độ dân trí của người dân, luôn ổn định tình hình trật tự an ninh - xã hội, có như
vậy mới tạo nên sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Nhân tố pháp lý:Pháp luật và bộ máy hành pháp có liên quan đến việc chi phối
hoạt động của nhà đầu tư ngay từ khi bắt đầu tìm kiếm cơ hội đầu tư cho đến khi dự án
kết thúc thời hạn hoạt động. Đây là yếu tố có tác động trực tiếp cũng như gián tiếp đến
hoạt động đầu tư. Nếu môi trường pháp lý và bộ máy vận hành nó tạo nên sự thông
thoáng, cởi mở và phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng như sức hấp dẫn và đảm bảo lợi
ích lâu dài cho các nhà đầu tư thì cùng với các yếu tố khác, tất cả sẽ tạo nên một môi
trường đầu tư có sức thu hút mạnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
2.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp quốc tế là hình thức chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một
phần đủ lớn vốn vào các dự án nhằm giành quyền điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn.
Trong những năm gần đây, hình thức này chiếm vị trí chủ yếu trong đầu tư quốc tế.Vai
trò của hoạt động này:


* Đối với nước đầu tư
Giúp các chủ đầu tư tận dụng lợi thế của nước tiếp nhận đầu tư, giảm chi phí sản
xuất, tìm kiếm nguồn vốn cung cấp nguyên vật liệu ổn định.
Giúp các chủ đầu tư có điều kiện đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ
mới và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Giúp các chủ đầu tw bành trướng sức mạnh kinh tế, nâng cao uy tín, mở rộng thị
trường tiêu thụ và tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
* Đối với nước nhận đầu tư
Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển:
- Góp phần giải quyết các khó khăn về kinh tế - xã hội như thất nghiệp, lạm phát,
nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp .
- Tăng nguồn thu và tạo điều kiện cải thiện tình hình ngân sách nhà nước, tạo ra môi
trường cạnh tranh tích cực.

- Giúp ng ười lao động và các nhà quản lý học hỏi và nâng cao trình độ.
Đối với các nước đang phát triển:
- Là nguồn vốn quan trọng để thực hiện CNH - HĐN, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển với thế giới.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH, hiện đại.
- Góp phần phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng và trình độ cao, tạo thêm việc làm
cho người lao động.


- Là nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước nhỏ bé của các nước đang phát
triển.
- Giúp các doanh nghiệp trong nước mở cửa thị trường hàng hóa thế giới.
- Có điều kiện tiếp thu khoa học - công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến
và tác phong làm việc công nghiệp.
Tuy nhiên, FDI cũng có những hạn chế nhất định: Luồng FDI chỉ đi vào những
nước có môi trường kinh tế - chính trị ổn định, môi trường đầu tư hấp dẫn. Nếu nước
nhận đầu tư không có kế hoạch đầu tư chi tiết, cụ thể và khoa học dễ dẫn tới tình trạng
đầu tư tràn lan, tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực bị khai thác cạn kiệt, khó bố trí đầu
tư theo nghành và vùng lãnh thổ; nếu không thẩm định chặt chẽ còn có thể du nhập thiết
bị, công nghệ lạc hậu; nếu chính sách, pháp luật cạnh tranh không đầy đủ còn dễ dẫn tới
tình trạng doanh nghiệp nước ngoài chèn ép doanh nghiệp trong nước.
2.3 Các hình thức đầu tư nguồn vốn FDI
Theo luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam, có các hình thức FDI như sau:


Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc vốn của nhà
đầu tư nước ngoài: là doanh nghiệp do chủ nước ngoài đầu tư 100% vốn tại nước
sở tại, có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo qui định pháp luật của

nước sở tại.

 Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nước đầu tư trong nước và nhà đầu
tư nước ngoài: là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước ngoài góp
vốn chung với doanh nghiệp ở nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Các
bên tham tham gia cùng điều hành doanh nghiệp, chia sẻ lợi nhuận và rủi ro theo
tỷ lệ góp vốn




Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Đây là một văn bản được kí kết giữa một chủ đầu
tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước để tiến hành 1 hay nhiều hoạt động






sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở pháp lý .
Đầu tư phát triển kinh doanh.
Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Đầu tư việc sáp nhập hoặc mua lại doanh nghiệp.
Các hình thức khác như: hợp đồng xây dựng, kinh doanh, chuyển giao; hợp đồng
xây dựng, chuyển giao, kinh doanh; hợp đồng xây dựng chuyển giao…

II.Thực trang đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
Phân tích thực trạng FDI ở VN trong những năm gần đây
1 Quy mô đầu tư FDI ở Việt Nam
Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 ( sửa đổi bổ sung năm 2005) có hiệu lực,
1


Việt Nam đã đạt được kết quả khả quan trong thu hút nguồn vốn FDI. Luật này đã bổ
sung và chi tiết hóa các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn
cảnh mới.
Thống kê cho thấy các nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam tăng từ 20,7 tỷ USD
trong giai đoạn 1991- 2000 lên gần 70 tỷ USD trong những năm 2001 – 2011, nhưng tỉ
trọng so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội lại giảm từ hơn 24,3% xuống hơn 22,75%
trong cùng giai đoạn. Từ năm 2000 đến 2013 đã có khoảng 13842 dự án FDI được cấp
phép đăng kí đầu tư tại Việt Nam, với tổng số vốn đăng kí 205 631,9 triệu USD. Trong
đó, số vốn được thực hiện là 76 126,9 triệu USD, chiếm 37,02% số vốn đăng kí.
Trong giai đoạn 2000 – 2013 quy mô bình quân một dự án cũng có xu hướng
tăng. Trong những năm 2001-2005, quy mô bình quân dự án còn dưới 10 triệu USD,
thì giai đoạn sau đó đã tăng lên được trên 12 triệu USD/ dự án.
Năm

Số dự án

Vốn đăng kí
( triệu USD)

2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006

391
555
808

791
811
970
987

2838,9
3142,8
2998,8
3191,2
4574,9
6839,8
12004,0

Tổng số vốn
thực hiện
( triệu USD)
2413,5
2450,5
2591,0
2650,0
2852,5
3308,5
4100,1

Quy mô bình
quân một dự án
( triệu USD)
16,06
5,66
3,71

4,03
5,61
7,05
12,16


2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Tổng số

1544
1171
839
1240
1191
1287
1257
13842

21347,8
71700,00
23100,0
19764,0
15618,0
16348,0

21600,0
205631,9

8030,0
13,8
11500,0
61,22
10000,0
27,53
11000,0
15,94
11000,0
13,11
10460,0
12,70
11500,0
17,18
76126,9
14,86
Trích: Tổng cục thống kê
Với các số liệu trên ta có thể nhận thấy rằng kết quả thu hút FDI vào Việt Nam
giai đoạn 2000- 2013 đã thể hiện một phần xu hướng tăng giảm đầu tư toàn cầu, cả
mức vốn đăng kí và mức vốn thực hiện đều đạt điểm cao nhất là vào năm 2008, sau đó
giảm dần đến 2013. Nguyên nhân của lượng vốn FDI giảm là do ảnh hưởng bởi tình
hình chung của kinh tế tài chính thế giới do vụ khủng bố 11/9/2001 tại Mỹ, cuộc khủng
hoảng kinh tế tài chính năm 2008…. Ngoài ra theo bộ kế hoạch và đầu tư, sự sụt giảm
của lượng vốn FDI vào Việt Nam như hiện nay là do sự vắng bóng của các dự án lớn
nên khiến cho vốn giảm nhanh như vậy.

Nhiều ông lớn là các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam và

liên tục rót vốn vào những dự án tỷ USD. Sự hiện diện của những nhà đầu tư nước
ngoài, là các tập đoàn lớn như Intel, Samsung, Posco, LG... đã minh chứng cho thấy,
Việt Nam đang là điểm đến đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài với lợi thế về
nhân công giá rẻ, dồi dào và chi phí thấp và môi trường kinh doanh ngày càng được cải
thiện. Các dự án tập trung nhiều nhất thuộc lĩnh vực công nghiệp như thép, điện, chế
tạo, nghỉ dưỡng, du lịch, bất động sản...Nhờ có sự hiện diện của các tập đoàn đa quốc
gia, doanh nghiệp Việt Nam cũng đã tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu và
nâng cao hơn nữa trình độ công nghệ, chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, theo đánh giá
của nhiều chuyên gia thì hiệu quả kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt
Nam từ các dự án tỷ USD vẫn chưa được nhiều.
Các doanh nghiệp FDI đã làm rất tốt việc kết nối hai khu vực doanh nghiệp FDI với
DN nội địa, song Việt Nam lại chưa làm tốt để phát triển công nghiệp phụ trợ, giúp
daonh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, cần sớm có chính


sách liên kết DN FDI và DN trong nước là rất quan trọng để DN Việt Nam tận dụng tốt
các dự án tỷ USD vào Việt Nam và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
1.2 Cơ cấu đầu tư
Sau hơn 20 năm thu hút vốn FDI từ các nước, hiện nay Việt Nam nhận được nguồn
vốn FDI của hơn 90 quốc gia trên thế giới.
Các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào Việt Nam

TT

Đối tác đầu tư

Số dự án

1


Hàn Quốc

2

Tổng vốn đầu tư đăng ký Quy mô dự án bình
(USD)

quân (Triệu USD/DA)

4.892

44.452.4

9.08

Nhật Bản

2.830

39.176.2

13.84

3

Singapore

1.497

34.168.2


23.10

4

Đài Loan

2.497

29.866.7

11.96

5

BritishVirginIslands

603

19.209.2

0.03

6

Hồng Kông

972

16.799.1


0.01

7

Malaysia

516

13.282.9

0.02

8

Hoa Kỳ

779

11.217.9

0.01

9

Trung Quốc

1.271

8.718.7


6.85

10

Thái Lan

409

7.011.5

0.01

Nguồn: Tính toán của tác giả từ nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê (Lũy
kế các dự án còn hiệu lực đến năm 2014) và Cục Đầu tư nước ngoài (Tính đến
ngày 20 tháng 12 năm 2015).
Tính đến hết năm 2015, đã có 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt
Nam, trong đó Hàn Quốc dẫn đầu với tổng vốn đầu tư cấp mới và vốn mở rộng hiện có
44.452.4 triệu USD vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam. Trong giai đoạn 1995 - 1997


đầu tư từ Hàn Quốc vào Việt Nam ở mức độ vừa phải (dưới 1 tỷ USD), phần lớn các
dự án có quy mô vừa và nhỏ tập trung các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, giầy
dép. Giai đoạn từ 1997 - 2004, nguồn đầu tư có sự giảm sút, thấp nhất là mức 15, 2
triệu USD vào năm 1997. Từ 2005 nguồn đầu tư tăng mạnh đến năm 2011 Hàn Quốc
với 3,112 dự án, chiếm tổng số 23,960,5 triệu USD; năm 2012 có 3197 dự án với số
vốn 24,816,0 triệu USD; năm 2013 tăng lên 3611 dự án với tổng số vốn là 29,653,0
triệu USD, năm 2014 và 2015 trở thành quốc gia dẫn đầu về vốn FDI đăng ký tại Việt
Nam.
Đứng thứ hai là Nhật Bản với 2.830 dự án, chiếm tổng số 39.176.2 triệu USD

vốn đầu tư. Giai đoạn 1995 - 1998 đầu tư của Nhật Bản ổn định ở mức trên 500 triệu
USD. Đến giai đoạn 1998 - 2003, luồng đầu tư từ Nhật Bản giảm sút, trong đó mức
thấp nhất là 71,6 triệu USD vào năm 1999. Năm 2004 đầu tư từ Nhật Bản đã có sự
chuyển biến rõ rệt, liên tục tăng và đạt kỷ lục vào năm 2008 với 7,6 tỷ USD vốn đầu tư
đăng ký. Năm 2009 do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm cho nguồn vốn
từ Nhật Bản giảm còn có 715 triệu USD, giảm hơn 10 lần so với năm 2008. Từ năm
2010 vốn đầu tư đã phục hồi cho tới năm 2015 tổng vốn đầu tư đăng ký là 39.176.2
triệu USD.
Đứng thứ ba là Singapore với 1.497 dự án, với tổng số vốn đầu tư là 34.168.2
triệu USD. Từ giai đoạn 1995 - 2015 đến nay, Singapore luôn duy trì vị trí là đối tác lớn
đầu tư vào Việt Nam (trừ năm 2008). Khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 - 1998
đã ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn vốn đầu tư của Singapore vào Việt Nam. Trong vòng
6 năm khủng hoảng (từ 1999 - 2005), lượng đầu tư của Singapore sụt giảm nghiêm
trọng và duy trì ở mức độ thấp so với thời kỳ 1995 - 1996. Chỉ đến 2006, khi Việt Nam
triển khai Hiệp định Kết nối hai nền kinh tế, vốn đầu tư từ Singapore mới tăng trở lại,
xong có sụt giảm vào năm 2009 do khủng hoảng kinh tế thế giới và tăng trở lại vào
2010, nhưng lại có xu hướng giảm nhẹ vào những năm gần đây.


1.3 Cơ cấu đầu tư FDI vào VN theo ngành
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo ngành

TT

Chuyên ngành

Số dự án

1


CN chế biến, chế tạo

2

Tổng vốn đầu tư đăng ký Tỷ trọng vốn đăng
(Triệu USD)



10,555

156,739,9

56,89%

KD bất động sản

487

50,674,5

18,39%

3

SX, ppđiện,khí,nước,đ.hòa

107

12,584,1


4,56%

4

Xây dựng

1,278

12,137,0

4,40%

5

Dvụ lưu trú và ăn uống

430

11,315,8

4.10%

6

Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa

1,689

4,572,7


1.65%

7

Thông tin và truyền thông

1,259

4,221,2

1,53%

8

Nông,lâm nghiệp;thủy sản

546

3,989,3

1.44%

9

Vận tải kho bãi

499

3,896,1


1,41%

10

Nghệ thuật và giải trí

149

3,637,1

1,32%

11

Khai khoáng

89

3,385,7

1.22%

12

HĐ chuyên môn, KHCN

1,907

2,047,5


0.74%

13

Y tế và trợ giúp XH

107

1,767,9

0.59%

14

Cấp nước;xử lý chất thải

41

1,361,1

0.49%

15

Tài chính,n.hàng,bảo hiểm

82

1,333,5


0.48%

16

Giáo dục và đào tạo

243

849,1

0.30%

17

Dịch vụ khác

155

729,1

0.26%


18

Hành chính và dvụ hỗ trợ

156


263,4

0.09%

Tổng số

19,691

275,473,0

100%

Nguồn: Tính toán của tác giả từ nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê (Lũy kế các
dự án còn hiệu lực đến năm 2014) và Cục Đầu tư nước ngoài (Tính đến ngày 20 tháng
12 năm 2015).
Lũy kế tính đến hết năm 2015, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đứng đầu
về số vốn đầu tư cũng như số dự án, đạt 156,739,9 triệu USD với 10,555 dự án chiếm
56,89% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đầu tư vào khu vực bất động sản đứng thứ 2, mặc dù
số dự án không nhiều nhưng quy mô của các dự án lớn, với tổng số vốn đầu tư lên tới
hơn 50,674,5 triệu USD, chiếm 18,39% tổng vốn đầu tư.
Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp được khuyến khích nhưng lĩnh vực này lại
thu hút rất ít dự án.Tính đến hết năm 2015, chỉ có 546 dự án FDI còn hiệu lực với tổng
vốn đạt 3,989,3 triệu USD, chiếm 1.44% tổng vốn FDI tại Việt Nam. Quy mô vốn của
các dự án đều nhỏ, chủ yếu được sử dụng vào hoạt động chăn nuôi, sản xuất thức ăn
gia cầm, chế biến sản phẩm gia cầm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

1.4. Cơ cấu FDI vào Việt Nam theo vùng kinh tế
Đồng bằng Bắc Bộ và Đông Nam Bộ là hai vùng có tỷ trọng đầu tư lớn nhất trong
giai đoạn 2001-2013, chiếm tới 57,15% tổng đầu tư. So với giai đoạn 2001- 2005, cơ
cấu đầu tư giai đoạn 2005-2013 có sự đồng đều hơn giữa các vùng. Tỷ trọng đầu tư vào

Đồng bằng Bắc Bộ và Đông Nam Bộ có xu hướng giảm nhẹ, lần lượt giảm 1% và 0,9%.
Trong khi đó, tỷ trọng của các vùng khác có xu hướng tăng nhẹ. Mặc dù vậy, xét từ giác
độ đầu tư của doanh nghiệp theo các vùng thì chênh lệch đầu tư còn rất lớn. Thực tế cho
thấy, đầu tư của doanh nghiệp rất hạn chế tại các vùng khó khăn như vùng Trung du và
miền phía Bắc (dưới 5%) và vùng Tây Nguyên với tỷ lệ đầu tư (2-3%) tổng đầu tư của
doanh nghiệp.


Tỷ trọng đầu tư theo vùng 2001-2013 (Đơn vị: %)
Loại vùng
2001-2005
2005-2013
2001-2013
Trung du và miền núi phía 7,10
7,00
7,40
Bắc
Đồng bằng Bắc Bộ
27,70
26,40
27,10
Bắc Trung Bộ và Duyên hải 17,40
17,90
17,60
miền Trung
Tây Nguyên
4,00
5,10
4,55
Đông Nam Bộ

30,60
29,50
30,05
Đồng bằng sông Cửu Long 13,20
13,40
13,30
Nguồn: Vụ quản lý vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Đầu tư nước ngoài giai đoạn 2005-2013 thể hiện sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng
đồng đều hơn giữa các vùng. Tỷ trọng vốn đầu tư FDI tại khu vực Trung du miền núi
phía Bắc và Bắc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung có xu hướng tăng lên. Ví dụ như năm
2013 tỷ trọng vốn FDI của hai khu vực này lần lượt là 16,97% và 29,58%, trong khi
năm 2005, tỷ trọng này lần lượt chỉ là 2,35% và 5,41%., còn vùng Đông Nam Bộ và
Đồng bằng Sông Hồng lại có xu hướng giảm xuống.
Tỷ trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng
2005 2007
Đồng bằng 34,47 30,38
sông Hồng
Trung du 2,35 2,85
và miền
núi phía
Bắc
Bắc Trung 5,41 17,27
Bộ

duyên hải
miền
Trung
Tây
0,51 0,67
Nguyên

Đông Nam 54,79 39,82
Bộ

2008
8,34

2009
6,15

2010
19,26

2011
40,55

2012
30,91

2013
31,01

0,34

0,69

3,24

2,87

8,14


16,97

51,49

29,48

36,44

8,98

18,65

29,58

0,24

0,43

0,48

0,09

0,55

0,04

33,61

60,61


31,42

42,59

37,09

19,28


Đồng bằng 2,18
sông Cửu
Long

8,16

5,97

0,93

9,16

4,48

3,70

3,13

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Đầu tư nước ngoài giữa các vùng đã có sự chuyển dịch dường như hợp lý hơn,

đặc biệt là sự tăng trưởng mạnh mẽ đầu tư nước ngoài ở vùng Bắc Trung bộ và Duyên
hải miền Trung. Điều này được lý giải do định hướng chiến lược của Chính phủ về phát
triển Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung quy định tại Nghị định 92/2006/NĐ-CP, và
nỗ lực của các địa phương tạo môi trường kinh doanh, cũng như pháp lý thuận lợi nhằm
tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài của các địa phương. Như vậy, xét theo cơ
cấu vùng,mặc dù trong chiến lược phát triển dài hạn có định hướng phát triển vùng và
các vùng kinh tế lớn đều có quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm thu hẹp khoảng
cách phát triển giữa các vùng, nhưng trên thực tế cơ cấu đầu tư, đặc biệt là đầu tư công,
còn nhiều bất cập, chưa được điều chỉnh phù hợp để thúc đẩy sự phát triển vùng theo
những định hướng đã vạch ra.

1.5. Cơ cấu đầu tư FDI vào Việt Nam theo hình thức đầu tư
Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, tính đến tháng 10/2014, các nhà đầu tư nước ngoài đến
từ 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam dưới 6 hình thức. Trong đó,
hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm ưu thế cả về số lượng dự án lẫn tổng vốn
đầu tư đăng ký, vượt trội hơn hẳn các hình thức đầu tư còn lại.


Cụ thể, lũy kế đến nay, cả nước đã thu hút được 17.219 dự án có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký lên tới trên 244 tỷ USD.
Dẫn đầu là các dự án FDI đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài với 13.886 dự
án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 166,35 tỷ USD (chiếm 81% tổng số dự án và 68% tổng
vốn đầu tư đăng ký của cả nước).
Hình thức liên doanh đứng thứ hai với 2.912 dự án và 59,8 tỷ USD vốn đăng ký
(chiếm 17% tổng số dư án và 25% tổng vốn đầu tư đăng ký). Tiếp theo là 4 hình thức
đầu tư còn lại, lần lượt theo thứ tự là: Hình thức Hợp đồng xây dựng - kinh doanh chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao (BT) có 12 dự án với 8,17 tỷ USD vốn đầu
tư đăng ký. Hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có 215 dự án với 5,13 tỷ USD.
Hình thức Công ty cổ phần có 193 dự án với 4,5 tỷ USD. Cuối cùng là hình thức Công
ty mẹ - con chỉ có duy nhất 1 dự án với vốn đăng ký 98 triệu USD.



Cơ cấu vốn FDI tại Việt Nam phân theo hình thức đầu tư
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, với hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, quyền điều
hành hoàn toàn thuộc về chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý toàn bộ và chịu trách
nhiệm hoàn toàn về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án FDI. Điều này tạo
tâm lý thoải mái, tự chủ, không chịu sự ràng buộc cho nhà đầu tư. Đây là ưu điểm lớn
để hình thức này luôn chiếm ưu thế trong cơ cấu vốn FDI của cả nước so với các hình
thức đầu tư khác.
2. Những đánh giá chung về đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam trong thời gian
qua:
2.1: Những thành tựu đạt được:
Kết thúc năm 2015, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cam kết mới và vốn
thực hiện của khối doanh nghiệp khu vực này đều tăng so với năm ngoái.
 FDI góp phần bổ sung nguồn vốn

Báo cáo cập nhật của Tổng cục Thống kê (GSO) cho thấy tính từ đầu năm 2015 đến
ngày 15-12-2015, nguồn vốn FDI cam kết vào Việt Nam đạt 22,76 tỉ đô la Mỹ, tăng
12,5% so với 2014.


Trong số này, cả nước có được 2.013 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký
đạt 15,58 tỉ đô la Mỹ, tăng 26,8% về số dự án và giảm 0,4% về số vốn so với cùng kỳ
năm ngoái. Cùng thời gian này có 814 lượt dự án FDI đã cấp phép từ các năm trước
được cấp vốn bổ sung với 7,18 tỉ đô la Mỹ. Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án
cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 22,76 tỉ đô la Mỹ, tăng 12,5% so với năm 2014.
Tuy nhiên kết quả này có thể sẽ thay đổi theo hướng cao hơn. Cụ thể như năm ngoái,
Cục Đầu tư nước ngoài cho biết tổng vốn FDI cam kết trong năm lên tới gần 22 tỉ đô la
Mỹ, chứ không phải là 20,23 tỉ đô la Mỹ như con số ước tính đã công bố đến ngày 2012.
 Khu vực FDI thúc đẩy tăng trưởng, tăng thu ngân sách, cân đối vĩ mô:


Năm 2015, Việt Nam được nhiều tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là có môi
trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, ổn định tạo niềm tin vững chắc cho
nhà đầu tư. Minh chứng cho điều này, khu vực FDI đã chiếm bình quân khoảng 25%
tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm 2011 - 2015. Điều này đã góp phần tích cực
trong hội nhập kinh tế, thúc đẩy đổi mới thủ tục hành chính và hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường, nâng cao trình độ nguồn nhân lực quản trị doanh nghiệp tại Việt Nam...
Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến hết quý
I/2015, có 267 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới được cấp giấy chứng nhận
đầu tư với tổng số vốn đăng ký đạt hơn 1,2 tỷ USD, chỉ bằng 59,4% so với cùng kỳ.
Việt Nam đã thu hút được 1,837 tỷ USD vốn FDI trong đó, lĩnh vực xây dựng, bất động
sản dẫn đầu với 203 triệu USD đăng ký mới. Theo dự báo năm 2015, vốn đăng ký FDI
sẽ đạt khoảng 18 tỷ USD và vốn giải ngân kỳ vọng đạt 12 tỷ USD, sau khi Việt Nam
hoàn tất nhiều thỏa thuận đàm phán từ các hiệp định thương mại song phương, đa
phương, nhất là hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, đàm phán Hiệp định đối tác
Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP)…


Như vậy, FDI không những góp phần khơi dậy đầu tư trong nước mà còn giúp kinh tế
Việt Nam hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh tích lũy không đáp ứng
nhu cầu về đầu tư, nguồn vốn FDI đã thực sự là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu
tư phát triển. Bên cạnh đó, nó còn góp phần đáng kể vào thu ngân sách và các cân đối vĩ
mô; chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp; tạo việc
làm, tăng năng suất lao động; đổi mới và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. Tính đến
nay, khu vực có vốn FDI đã tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động trực tiếp và một
số lượng lớn lao động gián tiếp khác…
Tổng quan FDI vào Việt Nam lũy kế tính đến ngày 20/3/2015 cho thấy, tỷ trọng dự
án FDI vào Việt Nam theo đối tác đầu tư đứng đầu là Hàn Quốc, tiếp đến là Nhật Bản,
Đài Loan, Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông, Hoa Kỳ…; tỷ trọng đầu tư đăng ký theo
đối tác, đứng đầu là Hàn Quốc, tiếp đến là Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, British
Virginlslands, Hồng Kông, Hoa Kỳ, Malaysia, Trung Quốc, Thái Lan…; tỷ trọng FDI

đăng ký vào Việt Nam phân theo địa phương, đứng đầu là thành phố Hồ Chí Minh, sau
đó là Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng…
 Chuyển biến tích cực về công nghệ:

Cùng với mục tiêu thu hút vốn đầu tư, FDI được đánh giá là kênh quan trọng để thu
hút công nghệ từ các nước có nền công nghệ phát triển vào Việt Nam. Điều này, góp
phần quan trọng vào việc đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ công nghệ của toàn bộ
nền kinh tế nói chung và của các DN Việt Nam nói riêng.
Thiếu công nghệ cao, rõ ràng là nền kinh tế Việt Nam không thể cạnh tranh và không
thể rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước khác, cũng như không thể đạt được
mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với thực trạng mới chỉ có 6-8%
Doanh Nghiệp có vốn FDI sử dụng công nghệ cao, số còn lại chưa là loại tiên tiến, hiện


đại, chỉ ở mức trung bình thì thu hút FDI năm 2015 đã có bước tiến bộ đáng kể về công
nghệ cao.
Khu vực FDI sử dụng công nghệ cao hơn hoặc bằng công nghệ tiên tiến đã có trong
nước và thuộc loại phổ cập trong khu vực. Theo bộ khoa học & công nghệ, một số
ngành đã thực hiện tốt chuyển giao công nghệ như dầu khí, điện tử, viễn thông tin học,
cơ khí chế tạo, ô tô, xe máy, và dệt may, giày dép, trong đó có viễn thông, dầu khí được
đáng giá có hiệu quả nhất. Theo thống kê từ năm 1993 đến nay, Việt nam đã có khoảng
hơn 900 hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được phê duyệt/đăng ký, trong đó có 600
hợp đồng của doanh nghiệp FDI, chiếm 63,6%. Thông qua hợp đồng chuyển giao công
nghệ, khu vực FDI đã góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt
Nam, nâng cao năng lực công nghệ trong nhiều lĩnh vực. Xét về cấp độ chuyển giao
công nghệ, công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hiệu quả cao nhất.
 Tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực:

Tạo công ăn việc làm và đào tạo nghề là một trong những đóng góp quan trọng của
khu vực FDI. Hiện nay, khu vực FDI tạo ra trên 2 triệu lao động trực tiếp và khoảng 3-4

triệu lao động gián tiếp, góp phần quan trọng trong việc giải quyết vấn đề việc làm cho
lao động Việt nam. Đồng thời, theo nghiên cứu cho thấy lương trung bình của công dân
khu vực FDI cao hơn đáng kể so với các khu vực khác dao động trong khoảng từ 3050% tùy theo từng ngành khác nhau. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, khu
vực này có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đồng thời, khu vực FDI còn góp phần chuyển giao kinh nghiệm,
nâng cao trình độ, chất lượng quản lý cho lao động Việt Nam.
 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa

Tác động của FDI đến đến cơ cấu kinh tế nước ta được thể hiện thông qua cơ cấu
vốn đầu tư. Qua các năm cơ cấu vốn đầu tư theo ngành có sự chuyển dịch ngày càng


phù hợp với xu thế CNH-HĐH đất nước. Đại bộ phận nguồn vốn FDI hiện nay đầu tư
vào ngành công nghiệp và dịch vụ với 58,4% tổng vốn đầu tư FDI. Tỷ trọng ngành
nông nghiệp tăng 2,41%, thấp hơn mức 3,44% của năm 2014; đóng góp 0,4 điểm phần
trăm vào mức tăng chung. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,64%, cao hơn nhiều
mức tăng 6,42% của năm trước, đóng góp 3,20 điểm phần trăm, trong đó ngành công
nghiệp tăng 9,39% so với năm trước (công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,60%); ngành
xây dựng tăng 10,82%, đây là mức tăng cao nhất kể từ năm 2010. Khu vực dịch vụ tăng
6,33%, đóng góp 2,43 điểm phần trăm.
Với trình độ công nghệ cao hơn mặt bằng chung cả nước, tốc độ tăng trưởng công
nghiệp – xây dựng của khu vực FDI đạt bình quân 18%/năm, cao hơn tốc độ tăng
trưởng toàn ngành. Đến nay, khu vực FDI đã tạo ra gần 45% giá trị sản xuất công
nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như
viễn thông, khai thác, chế biến dầu khí, công nghệ thông tin,…Ngoài những đóng góp
vào tăng trưởng kinh tế, khu vực FDI còn góp phần nhất định vào chuyển dịch cơ cấu
kinh tế thông qua việc áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra, đầu tư FDI cũng góp phần mở rộng hợp tác đầu tư với các nước và thúc
đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam. Cùng với các nhân tố khác, Đầu
tư nước ngoài FDI đã góp phần nâng cao vị thế của Việt nam trên trường quốc tế.

2.2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh các kết quả tích cực nêu trên của FDI 2015, còn có những vấn đề, cụ thể:
Trong top 10 đối tác đầu tư lớn nhất trong 2015, chiếm tới trên 80% tổng số vốn đăng
ký, cho thấy sự mất cân đối trong đầu tư tại Việt Nam giữa đầu tư còn ít của các đối tác
tiềm năng đến từ các nước như: Đức, Pháp, Thụy Sỹ, Mỹ, Canada, Nga... mà chủ yếu
đến từ châu Á như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc... Các đối


tác tiềm năng khác đều đầu tư ở vị trí khiêm tốn: Hoa Kỳ ở thứ tự 16 dự án, Australia
17 dự án, Pháp 22 dự án, Đức 24 dự án, Canada 34 dự án, Nga 30...
Vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu đánh giá lại thực tế này, làm rõ nguyên nhân vì sao
dòng vốn FDI từ các nước: Mỹ, Canada, Đức, Pháp, Thụy Sỹ, Nga... các nước khác từ
châu Âu, Bắc Mỹ, châu Úc đến Việt Nam còn khiêm tốn?
Từ góc độ nhìn nhận về hiệu quả và an ninh kinh tế lâu dài, cần tiến hành nghiên cứu
các giải pháp về chính sách, về xúc tiền đầu tư... để có được một tỷ lệ đầu tư của từng
nước tương xứng với tiềm năng của nước đó và giữa các nước tại Việt Nam trong giai
đoạn tới. Một tỷ lệ đầu tư FDI tại Việt Nam giữa các nước được đề xuất nghiên cứu là:
các nhà đầu tư đến từ châu Á sẽ giữ mức 35%, tương ứng là châu Âu 25%, châu Mỹ
25%, châu Úc 10% và còn lại là từ các khu vực khác thay cho tỷ lệ hiện tại là: châu Á
70% trong đó đầu tư đến từ Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan là khá cao chưa kể các
dự án có yếu tố từ người Hoa khác.
Việc tăng cường thu hút FDI từ các nước phát triển như: Mỹ, châu Âu, Nhật Bản... là
yếu tố quan trọng để tiếp cận được công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế. Tuy nhiên, mức độ thu hút FDI từ Mỹ, châu Âu như hiện nay thực sự
đã hạn chế khả năng tiếp cận, tiếp thu công nghệ từ các nước này, trong khi hàm lượng
công nghệ cao tại nhiều các dự án khác còn rất ít, hiệu quả thấp, sử dụng nhiều lao
động... cho thấy là một vấn đề không nhỏ cần có giải pháp để cân bằng lại trong thời
gian tới.
Mặt khác, việc người nước ngoài thông qua người Việt Nam đứng tên mua bất động
sản là một dạng đầu tư “chui” có vốn nước ngoài, chứa đựng nhiều tiềm ẩn bất lợi về

lâu dài. Công tác quản lý nhà nước tại các địa phương cần phải kiểm soát chặt chẽ vấn
đề này. Nói chung, đối với các dự án đầu tư đã được cấp phép ở những vùng nhạy cảm


về quốc phòng, và các dạng đầu tư “chui” cần được thu hồi. Các nhà đầu tư núp bóng
hoặc cho núp bóng phải được xử lý nghiêm.
Cũng trong năm 2015, vấn đề phát triển công nghiệp hỗ trợ vẫn chưa khắc phục được
các tồn tại từ năm 2014 chuyển sang. Điển hình như, số lượng doanh nghiệp Việt Nam
đạt tiêu chuẩn sản xuất, cung cấp sản phẩm cho các doanh nghiệp FDI như Samsung,
Canon... vẫn còn rất thấp so yêu cầu của các nhà đầu tư. Các doanh nghiệp Việt Nam
chỉ mới tham gia được vào các khâu gia công phụ kiện đơn giản.
Nhìn vào hình thức đầu tư của các dự án FDI được cấp phép trong năm 2015 cho
thấy, số dự án đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài là chủ yếu chiếm tới trên
86% số dự án đầu tư. Đây cũng là một trong các vấn đề cần lưu ý để có giải pháp
khuyến khích, tăng cường đầu tư theo hình thức thành lập công ty liên doanh (hoặc
công ty cổ phần).
Con đường tiếp thu công nghệ cao thông qua đầu tư, sản xuất - kinh doanh trực tiếp
của các doanh nghiệp Việt Nam trong các liên doanh, các công ty cổ phần là con đường
ngắn hơn, ít chi phí hơn so với các con đường khác. Tỷ lệ các doanh nghiệp FDI được
thành lập theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm trên 86% (1.611 dự án/1.855 dự
án ), là con số cao không phù hợp với mục tiêu tiếp nhận công nghệ và kinh nghiện
quản lý thông qua FDI.
Ngoài ra, số lượng dự án không triển khai vấn đề về chuyển giá, trốn thuế của các
DN FDI còn diễn biến phức tạp; tiếp cận đất của các nhà đầu tư cũng còn nhiều khó
khăn; Sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao...
III.Kết luận
Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu trong đề tài thảo luận về trạng chính sách thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong những năm gần đây, chúng ta có thể rút ra
một số bài học từ những hạn chế như sau:



Thứ nhất, điều chỉnh kịp thời chính sách đầu tư qua từng giai đoạn: Chính sách đầu
tư cần phải được sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh một cách kịp thời qua từng giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước nhằm ứng phó và thích ứng với những biến động tích
cực, tiêu cực để hướng tới việc đạt được mục tiêu và định hướng phát triển đề ra trong
tương lai.
Thứ hai, các chính sách đầu tư cần cócơ chế cấp phép đầu tư, cấp ưu đãi đầu tư rõ
ràng, minh bạch: Việc cấp đăng ký kinh doanh, cấp phép đầu tư, cấp ưu đãi đầu tư phải
dựa trên quy trình, thủ tục rõ ràng, minh bạch thông qua cơ chế cấp phép một cửa đối
với ĐTNNi. Việc cấp phép, cấp ưu đãi đầu tư phải gắn với tiêu chí đánh giá cụ thể và
cơ chế theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện sau khi cấp phép được thực hiện một
cách nghiêm túc và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan để kịp thời
giải quyết các vấn đề vướng mắc phát sinh hoặc thu hồi giấy phép hay ưu đãi khi phát
hiện có vi phạm.
Thứ ba, việc phân cấp đầu tư phải gắn với điều kiện, năng lực thực hiện và áp
dụng chính sách đầu tư nhất quán: Việc thực hiện cơ chế phân cấp quản lý đầu tư sẽ
tăng quyền tự chủ và cạnh tranh giữa các địa phương, đồng thời tiết kiệm thời gian và
chi phí đầu tư cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho cơ quan trung ương tập trung
vào chức năng hoạch định và kiểm tra việc thực hiện chính sách. Để cơ chế này phát
huy hiệu quả tốt thì phải thực hiện đồng thời với việc hoàn thiện hệ thống luật pháp
chính sách theo hướng đồng bộ và nhất quán, nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ
địa phương đồng thời phải hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong việc
thu hút đầu tư bằng mọi giá giữa các địa phương (như cấp phép cho các dự án có chất
lượng không cao, dự án có tiềm ẩn gây ô nhiễm môi trường, sử dụng tài nguyên không
hiệu quả hoặc cấp ưu đãi vượt khung).
Thứ tư, kiểm tra, giám sát về đầu tư nước ngoài thường xuyên và kịp thời phối hợp
giải quyết các vấn đề phát sinh: Công tác theo dõi, kiểm tra và giám sát việc triển khai
thực hiện dự án phải được thực hiện định kỳ gắn chặt với tiến độ triển khai cụ thể của
dự án và việc tuân thủ các quy định pháp luật về xây dựng, môi trường, lao động, thuế,
… Kịp thời phối hợp xử lý thu hồi giấy phép và hỗ trợ giải quyết các vấn đề vướng

mắc, khó khăn trong quá trình triển khai và hoạt động của dự án. Điều này giúp nâng
cao chất lượng đầu tư và hạn chế các tác động tiêu cực của quá trình đầu tư.
Như vậy, có thể thấy việc thu hút đầu tư nước ngoài là một kênh quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế, cải thiện


×