Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

van 12 k2 co ban

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.59 KB, 84 trang )

Tiết 55,56. VỢ CHỒNG A PHỦ
(TÔ HOÀI )
A- Mục tiêu cần đạt:
- Hiểu được cuộc sống cực nhục, tối tăm và quá trình đồng bào các dân tộc vùng cao Tây
Bắc vùng lên tự giải phóng khỏi áp bức kìm kẹp của bọn thực dân và chúa đất thống trị.
- Nắm được những đóng góp của nhà văn trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật, sự tinh
tế trong diễn tả cuộc sống nội tâm, sở trường quan sát những phong tục tập quán và lối
sống của người HMông.
- Cách trần thuật linh hoạt, lời văn tinh tế mang màu sắc dân tộc và giàu chất thơ.
B- Phương tiện thực hiện: SGK+ SGV+Bài soạn
C-Cách thức tiến hành: Giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận và trả lời câu hỏi
D- Tiến trình lên lớp:
1- Kiểm tra bài cũ
2- Giới thiệu bài mới

Hoạt động của giáo
viên và học sinh
Yêu cầu cần đạt
I- Đọc –tìm hiểu
1-Tiểu dẫn
H/S đọc SGK
- Nêu những nét
cơ bản về nhà văn
Tô Hoài ?
I- Đọc –tìm hiểu
1-Tiểu dẫn
-Tô Hoài sinh năm 1920. Tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ra và lớn
lên ở quê ngoại làng Nghĩa Đô ( ven sông Tô Lịch) thuộc phủ Hoài
Đức tỉnh Hà Đông nay là phường Nghĩa Đô quận Cầu Giấy Hà Nội
- Quê nội ở làng Cát Động, Thị trấn Kim Bài, Tỉnh Hà Đông ( nay là
Hà Tây).


-Tô Hoài chỉ được học hết bậc tiểu học, làm nhiều nghề để kiếm
sống trước khi cầm bút. Trước cách amngj tháng Tám năm 1945, Tô
Hoài viết nhiều với hai đề tài chính:
+Truyện về loài vật
+ Truyện về cuộc sống của những người thợ thủ công nghèo ở quê
ngoại.
- Năm 1943, Tô Hoài bí mật tham gia hội văn hoá cứu quốc. Kháng
chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, Tô Hoài làm báo cứu quốc và
hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc.
-Năm 1947 Hội nhà văn Việt Nam được thành lập, Tô Hoài làm
Tổng thư kí, pphó tổng thư kí. Ông từng là chủ tịch Hội văn học
1
nghệ thuật Hà Nội (1986-1996)
-Tác phẩm chính:
+ Dế Mèn phiêu lưu kí (đồng thoại -1941)
+ O Chuột (tập truyện về loài vật -1942) ….
+ Quê Nhà (tiểu thuyết -1980)
+ Cát Bụi Chân Ai ( hồi kí -1992)
+ Chiều Chiều ( tự truyện -1999) …
-Em có nhận xét gì
về nhà văn Tô Hoài
?
-Một nhà văn viết rất khoẻ. Một trong những cây bút văn xuôi hàng
đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam, có gần 200 đầu sách thuộc
thể loại khác nhau
+Cộng am hiểu nhiều, vừa cụ thể, tỉ mỉ, vừa phong phú về đời sống
và phong tục.
+Lối kể chuyện tự nhiên, sinh động, cách miêu tả giàu chất tạo hình.
Vốn từ vựng giàu có, nhiều khi rất thông tục
+Quan niêm sáng tác của Tô Hoài: “ Viết văn là quá trình đấu tranh

để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường cho dù phải đập
vỡ những thần tượng trong lòng người đọc” (Trả lời phỏng vấn báo
An ninh thế giới -2007). Năm 1996, Tô Hoài được nhận giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2- Truyện ngắn
“Vợ chồng A Phủ”

- nét cơ bản về
hoàn cảnh và mục
đích sáng tác ?
2- Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
a- Hoàn cảnh và mục đích sáng tác

-Năm 1952, Tô Hoài đi với bộ đội giải phóng Tây Bắc.. Tô Hoài đã
viết “ Truyện Tây Bắc” trong đó có Vợ Chồng APhủ.
-
b-Tóm tắt truyện (SGK)
-Nêu chủ đề truyện
?
c- Chủ đề
-Miêu tả một đoạn đời bất hạnh của mị và A Phủ, khẳng định sức
sông tiềm ẩn mãnh liệt ở Mị và sự vùng lên dù chỉ là tự phát. Đồng
thời làm rõ quá trình giác ngộ đứng lên tiêu diệt kẻ thù dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
II- Đọc –hiểu
(phần trích dẫn –
SGK )
II- Đọc –hiểu
1- Mị và APhủ là nạn nhân của chế độ phong kiến miền núi
a, Nhân vật Mị

2
1- Mị và APhủ là
nạn nhân của chế
độ phong kiến
miền núi
- Mị được giới
thiệunhư thế nào ?
Em có nhận xét
gì ?
-Mị xuất hiện: “ Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra… cô ấy
cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
- “Tảng đá” là hiện thân nỗi đau khổ đè nặng lên cuộc đời người con
gái, điển hình cho bao số phận bất hạnh. ---“Tàu ngựa” sự so sánh
cuộc đời cua Mị cũng chẳng khác gì con trâu con ngựa cảu nhà giàu,
còn khổ hơn kia. “ Con trâu, con ngựa ngày đi làm, đêm còn được
đứng gãi chân, nhai cỏ. Đàn bà, con gái nhà này phải vùi đầu vào
việc cả đêm lẫn ngày” và “ Đời người con gái lấy chồng nhà giàu ở
Hồng Ngài là một đời phải đi sau lưng con ngựa của chồng”.
-Khuôn mặt là diện mạo của tâm hồn. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn lúc
nào cũng “buồn rười rượi” trời ơi !
* Những dòng đầu truyện, giúp người ta nhận thức được cuộc đời
của Mị. Đó là số phận bất hạnh đầy đau khổ.
-Vì sao Mị phải lấy
A Sử ? Những
ngày làm dâu ở nhà
thống lí Pá Tra Mị
sống như thế nào ?
Em có suy nghĩ
gì ?
-Vì món nợ truyền kiếp (Chao ôi ! Thế là cha mẹ ăn bạc nhà giàu từ

kiếp trước. Bây giờ người ta bắt bán con trừ nợ”). Cuộc đời còn có
nỗi khổ đau nào hơn thế.
- Mị là một cô gái trẻ, đẹp, hồn nhiên và khao khát hạnh phúc.
Nhưng Mị không lấy được người mình yêu. Có mấy tháng đầu “ đêm
nào Mị cũng khóc”- nước mắt của đời đắng cay mặn chát, của nỗi
uất nghẹn, dồn tụ . Mị về trình cha để đi chết. Nhưng lòng hiếu thảo
đã ngăn Mị lại. Vì cha, vì món nợ mà Mị cắn răng chịu đựng kiếp
sống tôi đòi, nhục nhã.
- Kiếp sống nô lệ triền miên - Mị tê liệt mọi sức phản kháng và chỉ
còn cam chịu số phận, sống mà như chết “ ở lâu trong cái khổ, Mị
quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa”. .
Mị không còn ý niệm về thời gian, không hi vọng, mong đợi, suốt
ngày “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị chỉ còn biết với
công việc “ Mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại. Tết
xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, đến
mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào
cũng gài bó đay trên tay để tước thành sợi”. Mị chỉ là thứ công cụ.
Đau xót biết nhường nào.
-Căn buồng Mị ở “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng
bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là
sương hay nắng”-Cuộc sống hiện tại tăm tối . Nhìn về tương lai
không rõ ràng “mờ mờ trăng trắng”. Căn buồng ấy gợi không khí của
một nhà tù, của cuộc đời người con gái không có tự do, không hạnh
phúc, tuyệt nhiên cũng không có niềm vui nào ?
-Có bận Mị còn bị A Sử trói đứng trong buồng tối: “Nó xách cả
một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, A
Sử cuốn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng
được đầu nữa”. Lúc ấy “ Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con
3
ngựa”, trói đứng là hình phạt nặng nề dã man của chế độ phong kiến

thời trung cổ.
-Tác giả giới thiệu
về A Phủ như thế
nào ? Em có suy
nghĩ gì ?
b, nhân vật A phủ
-Mồ côi cả cha lẫn mẹ, anh, em A Phủ cũng vì dịch mà chết, bị bán
A Phủ cho người Thái ở dưới núi. A Phủ không chịu được bỏ trốn
lên núi cao, lưu lạc đến Hồng Ngài sống bằng nghề làm mướn.
- A Phủ đã lớn “ biết đúc lưỡi cày, đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò
tót rất bạo. A phủ khoẻ, chạy nhanh như ngựa. Con gái trong làng
nhiều người mê, nhiều người nói “ Đứa nào được A Phủ cũng bằng
được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Nhưng A Phủ
không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc. “A phủ không thể
lấy nổi vợ”
- Nhưng A Phủ cũng là người khao khát hạnh phúc: “ Ngày tết, A
Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều trai làng khác. A phủ chỉ có
một chiếc vòng Vìa trên cổ, A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo,
khèn, đem con quay và cả quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các
làng trong vùng”
- A Phủ có sức sống mạnh mẽ, khao khát tự do. Thuở nhỏ nhiều bất
hạnh. Nhưng đã biết sống tự lập mặc dù nghèo khổ. Anh cũng là
người lao động giỏi, nhiều người yêu quý. Nhưng a Phủ chỉ biết
kiếm sống bằng bán rẻ sức lao động của mình. Đây cũng là nạn nhân
của chế độ phong kiến miền núi.
-Cuộc đụng độ
giữa A Phủ và A
Sử như thế nào ?
Em có suy nghĩ
gì ?

-Nguyên nhân vì cánh A Sử cậy thế con quan, còn muốn bắt nhiều
con gái đẹp trong vùng về làm vợ, luôn phá đám các cuộc chơi của
trai làng. Cuộc đụng đầu giữa A Phủ và A Sử được miêu tả:
+ “Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi
+ “ A Phủ đâu ! A Phủ đánh chết nó đi
-Hàng loạt những động tác được miêu tả: chạy vụt ra, vung tay ném,
xốc tới, nắm, kéo, dập đầu, xé, đánh tới tấp. A phủ thật mạnh mẽ,
hiên ngang, ham chuộng tự do, gan góc. Trận đòn áp đảo, khiến
người đọc hả hê. Vì người ta chỉ thấy con quan đánh người chưa
thấy người dân đánh lại con quan bao giờ. Đủ thấy A Phủ là người
không biết sợ cho dù đó là cường quyền bạo lực
-Vụ sử kiện được
miêu tả như thế nào
?
-Người bị sử tội bị quỳ giữa nhà, chịu đòn.
“ A Phủ ra quỳ giữa nhà... Mặt A phủ xưng lên, môi và đuôi mắt dập
chảy máu. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong
một lượt đánh, kể, chửi lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua
các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên vuốt tóc gọi A Phủ …Cứ
như thế suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng gọi càng
4
đánh, càng chửi, càng hút …”
Một trận đòn phũ phàng A Phủ phải gánh chịu. và gánh chịu luôn cả
sự luận tội: “ Thằng a Phủ đánh người thì làng xử mày phải nộp ….
Bao giờ hết nợ tao mới thôi”
-Em có suy nghĩ gì
về APhủ ?
- A Phủ là người đi ở không công truyền kiếp, “ đốt rừng, cày
nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa quanh
năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò”.

-Sức sống tiềm ẩn
của nhân vật Mị
được miêu tả như
thế nào ?
2-Sức sống tiềm ẩn mãnh liệt của nhân vật Mị.
-Nhân vật Mị trong đoạn trích chỉ có hai lần tham gia vào đối thoại.
+ Lần thứ nhất nói với cha “ Con nay đã biết cuốc nương làm ngô.
Con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho
nhà giàu”
+Lần thứ hai nói với a Phủ ở đoạn cuối “ đi ngay …A Phủ cho tôi đi
…Ở đây thì chết mất”
Mị sống hầu như câm lặng. Điều ấy chứng tỏ Mị có sức sống nội
tâm. Nó dồn nén, tích tụ âm thầm, mạnh mẽ.
-Sức sống ấy bộc lộ ngay từ lúc mới bị bắt về làm dâu nhà thông lí.
Mị đã phản ứng một cách quyết liệt định ăn lá ngón. ý định này là
tiêu cực. Nhưng với Mị sống như thế thà chết còn hơn.
- Sức sống được dồn nén, tích tụ từ lâu trong ý nghĩ, tâm trạng.
Nhất định, có dịp, nó sẽ bùng lên. Đấy là buổi sáng mùa xuân khi cái
tết về với đất Hồng Ngài “ Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi
hồi”
+ “ Mị ngồi nhẩm thầm bài hát người đang thổi:
Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”
Mị từ nghe đến nhẩm thầm theo lời bài hát người đang thổi. Khát
vọng hạnh phúc tình yêu đôi lứa như ngọn lử đang nhen nhóm lên
trong lòng cô gái tội nghiệp.
+ “ Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say…Lòng Mị
thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn ở

đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo giỏi …Mị uốn chiếc lá trên môi,
thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm
thổi sáo đi theo Mị”. Men rượu hay men cuộc đời, men hạnh phúc,
men tình yêu đã khiến Mị sống với quá khứ. Vì quá khứ đời Mị đẹp
lắm. Tiếng sáo hay là âm thanh của cuộc đời ngày ấy. Tiếng sáo gọi
5
bạn cũng là tình yêu thuở xa đang trỗi dậy trong lòng Mị. Tác giả
như không muốn để mất cơ hội, vì thế mạnh kể không rẽ sang chi
tiết nào ngoài tâm trạng của Mị.
+ “ Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui
sướng như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị
muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết.
Huống chi ASử với Mị không có lòng mà vẫn phải ở với nhau”
Niềm vui như hiện hình phơi phới trở lại. Người con gái ấy như
nhìn thấy, cảm thấy sức dào dạt của tuổi thanh xuân, tới hai lần
khẳng định ( Mị trẻ lắm, Mị còn trẻ lắm )
. Mị không hề mặc cảm, cứ như bùn lầy tăm tối màvươn lên ánh
sáng. Một khi sức sống đã khẳng định, nó mạnh mẽ lắm. Nó có thể
ngang bằng sổ ngay mà đấu lí. Mị không bằng lòng A Sử, không yêu
A Sử thì tại sao Mị cứ phải sống cam chịu mãi đến bao giờ. Giữa lúc
ấy tiếng gọi của tình yêu, khát vọng hạnh phúc vẫn “lơ lửng bay ở
ngoài đường:
Anh ném Pao em không bắt ..
Em bắt Pao nào”
Tiếng gọi ấy như giục giã lòng Mị. Khát vọng và sức sống đã chuyển
từ tâm trạng sang cử chỉ hành động: “ Mị sắn mỡ bỏ thêm vào ống
đèn cho sáng”. Cho sáng lên căn buồng vốn dĩ tối tăm này, cho mở
mày mở mặt, cho chút hi vọng loé sáng. Mị quyết định đi chơi.
Trong đầu mị lúc này “ đang rập rờn tiếng sáo. Những cử chỉ:
+ “ quấn lại cái tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách …

Mị rút thêm cái áo”. Những cử chỉ lạ, hiếm thấy ở Mị từ khi về làm
dâu gạt nợ đến giờ. Dường như những cử chỉ ấy chuẩn bị cho sự
bùng phát
+ A Sử đã dập tắt ý định đi chơi của Mị. Bị trói trong buồng tối: “
Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói
… Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi” Trái tim Mị
vẫn thổn thức nghe lời bài hát đang thổi. Mị vẫn sống với khao khát
cháy bỏng. Nó chỉ chờ thời cơ là vùng lên.

-Sức sống của Mị
được thể hiện ở
hành động dũng
cảm, mạnh mẽ.
Hãy phân tích hành
động ấy ?
-Đó là hành động của A Phủ
Nếu khát vọng hạnh phúc của Mị lúc đầu là nhờ có sự tác động của
tiếng sáo để dưa Mị trở về sống với quá khứ, những kỉ niệm đẹp thì
cảnh a Phủ bị trói ngay lối đi lại ra, vào trong bếp lại là tác động của
hiện tại
+ Lúc đầu ngọn lửa trong lò bốc cao cũng là lúc ngọn lửa trong
lòng Mị lịm tắt. Mị chẳng còn nghĩ tới chuyện đi chơi xuân nữa. “ A
6
Sử còn muốn bắt nhiều người con gái về làm vợ, Mị cũng chẳng nói
gì”. “ A Phủ dẫu có là cái xác không hồn cũng thế thôi”. Nhưng
cũng nhờ ngọn lửa “ Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng
vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám
đen lại” Mị nghĩ đến cảnh mình cũng đã từng bị trói như thế “ nhiều
lần khóc. Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi
được”. Mị nghĩ tới người đàn bà bị trói chết trong cái nhà này. Mị

nghĩ về quân ác “ Trời ơi ! nó bắt trói đứng người ta đến chết …
Chúng nó thật độc ác”. Mị nghĩ đến kết cục thảm thương của A Phủ
“ Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói,
chết rét phải chết”. Cả những lí lẽ giản đơn của người trong cuộc “
Ta là đàn bà bị nó bắt trình ma nhà nó rồi chết đã đành. Người kia
việc gì phải chết”. Cái lí ấy cũng xuất phát từ khát vọng sống tự do.
+ Ngọn lửa trong lò không còn bốc cao nữa “ đám than đã vạc hẳn
lửa”cũng là lúc ngọn lửa cuộc đời trong lòng Mị rực sáng. Mị nghĩ
đến chuyện của A Phủ. Nhưng người nô lệ dù dũng cảm đến đâu
cũng nơm nớp lo sợ:
“ Lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó. Mị liền phải
trói thay vào đấy. Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Đây là chi tiết
không phải là mềm yếu của Mị. Đó là những chi tiết rất thật. Nếu Tô
Hoài để cho Mị cứu A Phủ ngay từ đầu thì không đảm bảo tính lô gíc
của nội tâm nhân vật.
+ Mị đã quyết định cứu A Phủ: “ Mị cầm dao cắt nút dây mây. Cởi
trói cho A Phủ và cởi trói luôn cả cuộc đời mình. Mị tình nguyện
theo A Phủ “ A Phủ ! cho tôi đi với ở đây thì chết mất”. Mị đã chạy
ra. “ Trời tối lắm! Mị vẫn băng đi đuổi kịp a Phủ”.
-Em có suy nghĩ gì
về hành động của
Mị ?
-Mị cứu A Phủ và tự giải thoát cuộc đời mình. Mị nhận ra ở lại là
chết. Con người chạy trốn khỏi cái chết. Mặc dù đây chỉ là hành
động tự phát nhưng nó chứng minh một cách rõ ràng quy luật hiện
thực của đời sống. “ Tức nước vỡ bờ”. Bị đè nén áp bức đến mức
độ nào đó, con người đã vụt đứng dậy.
-Để chứng minh “
Vợ chồng A Phủ”
là truyện giàu tính

nhân đạo. Em phải
dẫn những chi tiết
nào ?
- Phải dẫn ba chi tiết:
+ Một là sự cảm thông chia sẻ với số phận bất hạnh của con người
* Mị và a Phủ đều là nạn nhân của chế độ phong kiến miền núi.
* Nạn cho vay lãi là hình thức bức tử người lao động.
+Hai là khẳng định phẩm chất tốt đẹp của con người
* Mị và A Phủ có những phẩm chất: khao khát hạnh phúc, tự do,
lao động giỏi, có lòng hiếu thảo.
+Ba là lên án hành vi vô nhân đạo
* Vụ xử kiện
7
* Hành động trói vợ của A Sử

-Sau khi đã đọc
hiểu em có suy
nghĩ như thế nào
về nhân vật Mị và
A Phủ ?
-Hai nhân vật có phần giống nhau về hoàn cảnh sống đều là người nô
lệ trong chế độ phong kiến miền núi.
-Nhưng có tính cách khác nhau
+ Mị được miêu tả và xây dựng tính cách chủ yếu qua dòng suy
nghĩ, tâm trạng nhiều hơn.
+ A Phủ gan góc, bộc trực, táo bạo được thể hiện ở hành động.
+Ngòi bút tác giả rất tinh tế khi soi vào nội tâm nhân vật Mị diễn tả
diễn biến của tâm trạng.
-Nghệ thuật truyện
“ Vợ chồng A Phủ”

được thể hiện ở
những điểm nào ?
3. -Nghệ thuật
-Một là xây dựng nhân vật (Mị và A Phủ )
*Để nhân vật xuất hiện lúc nào đều có ý định và buộc người đọc,
người nghe phải chú ý.
*Ngòi bút tinh tế trong phân tích tâm trạng
*Miêu tả hành động nhân vật để khẳng định sự mạnh mẽ, táo bạo
(A Phủ)
*Nhân vật A Sử lạnh lùng ác độc (Hành động trói Mị )
-Hai là tả cảnh thiên nhiên và phong tục tập quán.
*Thiên nhiên có những nét riêng qua đương nét và màu sắc “
Trong các làng Mỡo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên
mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ” và “ Tiêng chó sủa xa xa những
đêm tình mùa xuân đã đến” và “Tết đến giữa lúc gió thổi vào cỏ
gianh vàng ửng”
*Phong tục tập quán cũng có nét riêng
+ “ Ở mỗi đầu làng đều có mỏm đất phẳng làm cái sân chơi
chung ngày tết. Trai, gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh Pao, đánh
quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy”.
+ “ Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn tết khi gặt hái vừa xong
không kể ngày tháng nào. Ăn tết như thế cho kịp mưa xuân xuống thì
đi vỡ nương mới”
+ “ ở đầu núi lấp ló đã có tiêng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” hoặc “ Cả
nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh
chiêng đánh ầm ĩ. Người ấp đồng vẫn còn nhảy lên xuống run bần
bật. Hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa”.
+ “ Trên sườn núi các nương ngô, nương lúa gặt xong. Ngô lúa đã
xếp yên đầy nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ đã tinh nghịch đốt những
8

lều canh nương để sưởi lửa”
III- Củng cố Ghi nhớ SGK
E. Tài liệu tham khảo
Tiết 57,58. Viết bài số 5 ( Nghị luận văn học)
A- Mục tiêu cần đạt:
-Củng cố cách viết bài văn nghị luận, ứng dụng kiến thức đã học vào bài viết
B- Phương tiện thực hiện: SGK+SGV+Bài soạn
C- Cách thức tiến hành: Học sinh thực hành.
D- Tiến trình lên lớp:
1- kiểm tra bài cũ
2- Giới thiệu bài mới
Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng trong nhân vậy Mị ( Vợ Chồng A Phủ- Tô Hoài)
Đáp án: - Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
-Giới thiệu về số phận nhân vật
-Sức sống tiềm ẩn mãnh liệt của nhân vật Mị.
-Nhân vật Mị trong đoạn trích chỉ có hai lần tham gia vào đối thoại.
+ Lần thứ nhất nói với cha “ Con nay đã biết cuốc nương làm ngô. Con phải làm nương
ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”
+Lần thứ hai nói với a Phủ ở đoạn cuối “ đi ngay …A Phủ cho tôi đi …Ở đây thì chết
mất”
Mị sống hầu như câm lặng. Điều ấy chứng tỏ Mị có sức sống nội tâm. Nó dồn nén, tích tụ
âm thầm, mạnh mẽ.
-Sức sống ấy bộc lộ ngay từ lúc mới bị bắt về làm dâu nhà thông lí. Mị đã phản ứng một
cách quyết liệt định ăn lá ngón. ý định này là tiêu cực. Nhưng với Mị sống như thế thà chết
còn hơn.
- Sức sống được dồn nén, tích tụ từ lâu trong ý nghĩ, tâm trạng. Nhất định, có dịp, nó sẽ
bùng lên. Đấy là buổi sáng mùa xuân khi cái tết về với đất Hồng Ngài “ Mị nghe tiếng sáo
vọng lại thiết tha bồi hồi”
+ “ Mị ngồi nhẩm thầm bài hát người đang thổi:
Mị từ nghe đến nhẩm thầm theo lời bài hát người đang thổi. Khát vọng hạnh phúc tình

yêu đôi lứa như ngọn lử đang nhen nhóm lên trong lòng cô gái tội nghiệp.
+ “ Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say…Lòng Mị thì đang sống về ngày
trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn ở đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo giỏi …Mị
uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm
thổi sáo đi theo Mị”. Men rượu hay men cuộc đời, men hạnh phúc, men tình yêu đã khiến
9
Mị sống với quá khứ. Vì quá khứ đời Mị đẹp lắm. Tiếng sáo hay là âm thanh của cuộc đời
ngày ấy. Tiếng sáo gọi bạn cũng là tình yêu thuở xa đang trỗi dậy trong lòng Mị. Tác giả
như không muốn để mất cơ hội, vì thế mạnh kể không rẽ sang chi tiết nào ngoài tâm trạng
của Mị.
+ “ Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm
tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng
cũng đi chơi ngày tết. Huống chi ASử với Mị không có lòng mà vẫn phải ở với nhau”
Niềm vui như hiện hình phơi phới trở lại. Người con gái ấy như nhìn thấy, cảm thấy sức
dào dạt của tuổi thanh xuân, tới hai lần khẳng định ( Mị trẻ lắm, Mị còn trẻ lắm )
. Mị không hề mặc cảm, cứ như bùn lầy tăm tối màvươn lên ánh sáng. Một khi sức sống đã
khẳng định, nó mạnh mẽ lắm. Nó có thể ngang bằng sổ ngay mà đấu lí. Mị không bằng
lòng A Sử, không yêu A Sử thì tại sao Mị cứ phải sống cam chịu mãi đến bao giờ. Giữa lúc
ấy tiếng gọi của tình yêu, khát vọng hạnh phúc vẫn “lơ lửng bay ở ngoài đường:
Anh ném Pao em không bắt ..
Em bắt Pao nào”
Tiếng gọi ấy như giục giã lòng Mị. Khát vọng và sức sống đã chuyển từ tâm trạng sang cử
chỉ hành động: “ Mị sắn mỡ bỏ thêm vào ống đèn cho sáng”. Cho sáng lên căn buồng vốn
dĩ tối tăm này, cho mở mày mở mặt, cho chút hi vọng loé sáng. Mị quyết định đi chơi.
Trong đầu mị lúc này “ đang rập rờn tiếng sáo. Những cử chỉ:
+ “ quấn lại cái tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách …Mị rút thêm cái áo”.
Những cử chỉ lạ, hiếm thấy ở Mị từ khi về làm dâu gạt nợ đến giờ. Dường như những cử
chỉ ấy chuẩn bị cho sự bùng phát
+ A Sử đã dập tắt ý định đi chơi của Mị. Bị trói trong buồng tối: “ Trong bóng tối, Mị
đứng im lặng như không biết mình đang bị trói … Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo

những cuộc chơi” Trái tim Mị vẫn thổn thức nghe lời bài hát đang thổi. Mị vẫn sống với
khao khát cháy bỏng. Nó chỉ chờ thời cơ là vùng lên.
- Nêu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
E E. Tài liệu tham khảo

Tiết 59,60. NHÂN VẬT GIAO TIẾP
A- Mục tiêu cần đạt:
- Nắm vững các đặc điểm và vai trò trong hoạt động giao tiếp, cùng tác động chi phối lời
của các nhân vật.
- Có kĩ năng nói và viết phù hợp với vai trò giao tiếp trong từng ngữ cảnh thích hợp.
B- Phương tiện thực hiện: SGK+SGV+Bài soạn
C- Cách thức tiến hành:Giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận và trả lời câu hỏi
D- Tiến trình lên lớp:
1- kiểm tra bài cũ
10
2- Giới thiệu bài mới
Hoạt động của giáo
viên và học sinh
Yêu cầu cần đạt
I- Đọc –hiểu
1-Phân tích ngữ liệu
H/S đọc SGK
Đoạn trích thứ nhất
phần a - SGK
- Đoạn văn của Kim Lân trong truyện ngắn “Vợ Nhặt”
+ Có hai nhân vật giao tiếp chủ yếu
+ Có lứa tuổi ngang nhau
+ Một trai, một gái
+ Đều là những người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ
Phần b-SGK -Hai nhân vật chuyển vai lúc nói, lúc nghe người kia nói.

- Lời đầu tiên của Thị hướng tới mấy cô gái cùng tỏng lúc đi làm thuê.
Sau đó hướng tới Tràng.
Phần c-SGK Các nhân vật giao tiếp đều bình đẳng về vị thế trong xã hội
Phần d-SGK -Với mấy cô gái đi làm thuê cùng với mình thì Thị ( người con gái
theo Tràng làm vợ ) thân thuộc gần gũi. Nhưng với Tràng thì xa lạ.
Phần e-SGK -Tuổi tác, thân, sơ, vị trí xã hội, nghề nghiệp đã quyết định chi phối lời
nói của nhân vật
+ Nói đùa vẻ tán tỉnh trêu trọc “ Nhà tôi ơi !”
+ Câu thiếu chủ ngữ ( thường xảy ra ở người trong cuộc ) “Thật đấy
… lên”
+ Từ ngữ linh hoạt từ “ nhà tôi” đến “ đằng ấy”
+ Lếc mắt đưa tình, cười tít.
Đoạn trích thứ hai
Phần a-SGK
-Đoạn trích trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao.
+ Đoạn trích có nhiều nhân vật giao tiếp. Nhưng chủ yếu có hai nhân
vật Bá Kiến và Chí Phèo. Còn chủ yếu chỉ nghe Bá Kiến.
+ Nói với những bà vợ là cho nhiều người nghe để chứng tỏ mình
công minh. chính trực. Nói với một người nghe là Bá Kiến nói với Chí
Phèo.
Phần b-SGK - Vị thế xã hội chênh lệch. Cụ Bá là bề trên, tất cả mọi người đều sợ,
đều nể. Điều đó chi phối cáhc dùng từ ngữ trong giao tiếp của Bá
Kiến
- Với các bà vợ thì quát, đuổi gọi “ các bà” tỏ vẻ mình không thiên
lệch
11
- Để giãn người đến xem (không có lợi cho mình ) và cũng muốn cô
lập Chí Phèo cụ Bá hạ thấp giọng và dùng lời có vẻ bình đẳng “ Cả các
ông, các bà nữa”
Phần c-SGK - Đối với Chí Phèo, Bá Kiến đã thực hiện được ý định trong giao tiếp:

kết hợp tất cả các phương án trả lời: A-B-C-D
A- Đuổi hết mọi người chỉ để đối thoại riêng với Chí Phèo ( đuổi như
thế nào - đuổi khéo. Đuổi để cô lập Chí Phèo )
B- Bá Kiến hạ nhiệt cơn tức giận của Chí Phèo bằng cả hành động
này Chí Phèo dậy, giong nói Anh Chí ơi ! cười nhạt, cái anh này. Cụ
đổi giọng
C- Nâng vị thế của Chí Phèo ngang với mình bằng cách nói trổng
thiếu chủ ngữ “ Về bao giờ thế ? sao không vào nhà chơi? Đi vào nhà
uống nước”. Còn nhận Chí Phèo là họ hàng thân thiện. Cụ ra vẻ bình
đẳng: khổ quá giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi. Người lớn cả chỉ một
câu với nhau là đủ.
D-Bá Kiến kết tội Lí Cường và yêu cầu Lí Cường sai người nhà đun
nước để tiếp đón Chí Phèo. Mục đích của việc làm này là để xoa dịu
mâu thuẫn, vô hiệu hoa sChí phèo, dần dần dùng cáhc chinh phục Chí
Phèo, biến chí phèo thành tay sai cho Bá Kiến.
Phần d-SGK -Với cáhc giao tiếp như trên, bá kiến đã đạt được mục đích. Người như
Chí Phèo dễ mắc lừa. Người hiểu biết thì cho bá Kiến là kẻ lọc lõi,
khôn ngoan nên cảnh giác.
II-Củng cố Phần ghi nhớ SGK
III- luyện tập
Câu 1-SGK
- Vị thế xã hội của các nhân vật giao tiếp khác nhau. Một người có
chức quyền là ông Lí. Một người cùng đinh là anh Mịch. Vì thế đã chi
phối cách sử dụng ngôn ngữ của họ. Một người trước sau chỉ một lạy
ông, hai lạy ông, cắn rơm cắn cỏ nghìn lạy ông mớ lạy, gọi ông, xưng
con. Còn ông Lí dậm doạ kệ mày xưng tao.
Câu 2-SGK -Vị thế xã hội đều là người dân nhưng do tuổi tác, nghề nghiệp, bản
chất nên có sự hiểu biết khác nhau
+Tuổi tác khác nhau ( già có, trẻ có )
+ Nghề nghiệp khác nhau (Trí thức, người làm ruộng, cu lơ xe có )

+ văn hoá khác nhau (Người có học sinh viên, nhà nho, người không
có học )
Câu 3- SGK -Bà lão láng giềng và Chị Dâu có vị thế như nhau nên gắn bó, chia sẻ,
yêu thương nhau. Điều đó thể hiện ở ngôn ngữ trong giao tiếp cũng
12
Phần a-SGK
như thái độ và giọng điệu.
+ Gọi bác trai ( khi nói với vợ ) người vắng mặt
+ Gọi anh ấy ( khi nói với vợ) người vắng mặt
Tỏ thái độ gần gũi thân tình.
- Kết hợp với ngôn ngữ là giọng giục và lật đật chạy sang, chạy về với
vẻ băn khoăn.
Phần b- SGK Bà láng giềng thể hiện sự quan tâm
+Bác trai đã đỡ rồi chứ
+ Này bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn
Chị Dậu đáp lại sự quan tâm ấy
+ Cám ơn cụ nhà cháu đã tỉnh táo
+ Vâng cháu cũng nghĩ như cụ
Phần c-SGK -Cách giao tiếp của những người bình dân mộc mạc nhưng có lối sống
văn hoá lịch sự đáng kính trọng và làm theo.
Tiết 61,62. VỢ NHẶT
( KIM LÂN )
A- Mục tiêu bài học:
* Thấy được số phận vô cùng bi thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng
khiếp năm 1945. Vượt lên tất cả là sức sống kì diệu , niềm khát khao tổ ấm gia đình và tình
thương giữa những con người nghèo khổ ngay trên bờ vực thẳm của cái chết.
* Tất cả đã được xây dựng bằng tình huống truyện độc đáo , nghệ thuật kể truyện hấp
dẫn, dựng cảnh và miêu tả tâm trạng nhân vật đặc sắc của tác giả.
B- Phương tiện thực hiện: SGK+SGV+Bài soạn
C-Cách thức tiến hành: Giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận và trả lời câu hỏi

D- Tiến trình lên lớp:
1- Kiểm tra bài cũ:
2- Giới thiệu bài mới:
Hoạt động của giáo
viên và học sinh
Yêu cầu cần đạt
I- Đọc –tìm hiểu
1- Tiểu dẫn:
Nguồn gốc: - Sinh năm 1920 và mất năm 2007
-Tên khai sinh là Nguyễn văn Tài
13
H/ S đọc SGK
-Nêu những nét
chính về cuộc đời
của Kim Lân?
- Làng Phù Lưu-Xã Tân Hồng – Huyện Từ Sơn- Tỉnh
Bắc Ninh.
Quá trình tiến thân:
- học hết bậc tiểu học. Năm 1941 viết văn đăng ở tiểu thuyết thứ
bảy Trung bắc chủ nhật năm 1944 , tham gia hội văn hoá cứu quốc-
lấy sự nghiệp văn học phục vụ kháng chiến và xây dựng Chủ Nghĩa
Xã hội
- Đặc điểm trong sáng tác của Kim Lân: Chuyên viết về truyện. Thế
giới nghệ thuật của ông chỉ tập trung ở khung cảnh nông thônvà
hình tượng người nông dân.
- Ông viết rất hay về những thú chơi gọi là phong lưu đồng ruộng
của người nông dân sau luỹ tre làng ( chó săn, đánh vật, chọi gà,
chim bồ câu đang bay)
- Ông viết chân thật và xúc động về cuộc sống và con người ở nông
thôn mà ông hiểu sâu sắc về họ. Những con người gắn bó tha thiết

với quê hương và cách mạng.
- Kim Lân đã xuất bản tập truyện ngắn “Nên vợ nên chồng” (1955)
và “con chó xấu xí” (1962)
- Kim Lân được tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật
năm 2001.
2- Truyện ngắn “
Vợ nhặt”
a- Hoàn cảnh và
mục đích sáng tác
- “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân được rút trong tập
truyện “ Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962.
- Truyện ngắn nguyên là truyện “ xóm ngụ cư” viết ngay sau cách
mạng tháng Tám. Bản thảo chưa in. Sau này (1962), tác giả cho in
và lược đi một số đoạn.
b- Chủ đề
H/S -đọc SGK
-Nêu chủ đề của
truyện?
Miêu tả cái đói và cái chết đe doạ cuộc sống con người ở xóm ngụ
cư. Đồng thời khẳng định khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào mối
quan hệ của người nông dân với cách mạng.
-Chủ đề đặt ra mấy
nội dung ?
-Chủ đề là nội dung cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm. Ở tác
phẩm này gồm ba nội dung
+ Cái đói, cái chết đe doạ cuộc sống conngười
+ Khát vọng hạnh phúc và tình thương con người
+ Niêm tin vào mối quan hệ của người nông dân với cách mạng
c- Tình huống
truyện

- Tình huống là tất cả những sự kiện, chi tiết xảy ra trong cuộc
sống của con người. Nhà văn không thể miêu tả tất cả mà phải chọn
lọc. Kim Lân đã tạo được tình huống độc đáo. Đó là anh Tràng con
14
- Em hiểu thế nào
là tình huống
truyện ? Kim Lân
đã tạo được tình
huống độc đáo ở
chi tiết nào ?
bà cụ Tứ ở xóm ngụ cư làm nghề kéo xe thuê vừa xấu, vừa dở hơi
tự nhiên nhặt được vợ ( có người theo về làm vợ )giữa những ngày
đói kém, cái chết đe doạ con người. Tình huống này chi phối cả nội
dung truyện.
II-Đọc –hiểu
- Theo anh (chị)
nên đọc hiểu theo
cách nào ? (theo
chủ đề hay tình
huống độc đáo )
- Đọc- hiểu theo từng khía cạnh của chủ đề là việc thông thường khi
tìm hiểu giá trị của một tác phẩm. Nếu đọc -hiểu theo chủ đề chúng
ta sẽ lần lượt tìm hiểu, phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật
tác phẩm dựa vào ba khía cạnh:
+ Cái đói và cái chết đang đe doạ con người ở xóm ngụ cư
+ Khát vọng hạnh phúc và tình yêu thương của họ ( Bà cụ Tứ,
Tràng và người con gái theo Tràng làm vợ )
+ Niềm tin và mối quan hệ của người nông dân với cách mạng
tháng Tám.
1- Tình huống

truyện
a- Rất tự nhiên
- Tình huống
tràng nhặt được vợ
rất tự nhiên ở chỗ
nào ?
- Chỉ có hai lần gặp gỡ mà nên vợ, nên chồng.
* Lần thứ nhất nghe Tràng hò bâng quơ khi kéo xe bò thóc lên
dốc:
“Muốn ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh này”
(Mấy cô gái đùn đẩy, rồi một cô cười như nắc nẻ chạy lại chỗ Tràng
“Có ối cơm trắng với giò đấy này nhà tôi ơi. Nói thật hay nói khoác
đấy”
* Lần thứ hai gặp lại, vẫn cô gái ấy, không khí câu chuyện cũng
rất tự nhiên:
- “Đấy người thế mà điêu ! Hôm ấy hẹn xuống mà mất mặt
……..
-Em có suy nghĩ gì
về tình huống gặp
gỡ tự nhiên này ?
- Có cái gì rất vui mà cũng thật cám cảnh. Vui vì con người nên vợ,
nên chồng. Đây cũng là tình cảm tự nhiên của con người. Nhưng
cũng thật cám cảnh. Cái đói đa xlàm cho con người chẳng còn biết
ý tứ, xấu hổ là gì. Chỉ có bốn bát bánh đúc lúc đói mà nhặt được vợ,
giá trị con người thật rẻ rúng. Đây là điều thật tâm đắc. Con người
tự suy nghĩ về số phận của chính mình
- Mặt khác tình huống tự nhiên này cũng tạo ra sự ngạc nhiên. Ngạc
nhiên ở người đọc và ngạc nhiên của cả những người trong cuộc. Vì
vào cái thời buổi đến cái thân mình biết có nuôi nổi không, lại còn

đèo bòng. Kim Lân muốn đưa người đọc trở về với thực tế cuộc
sống lúc ấy, từ tình huống này. Đó là cái đói, cái chết đang bủa vây
15
con người.
b- Tràng nhặt được
vợ trong lúc cái đói
và cái chết đang đe
doạ con người.
- Cái đói và cái
chết được miêu tả
như thế nào khi
Tràng nhặt được vợ
?
- Nhà văn thuật lại bằng những chi tiết, hình ảnh:
“ Những gia đình… lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám
như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ, đi làm đồng
không gặp ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”… bóng
những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như bóng ma. Tiếng quạ trên
mấy cây gạo ngoài bãi cứ gào lên từng hồi tha thiết”, “ Bữa cơm
đón nàng dâu thật thảm hại chỉ có rau chuối thái rối ăn với cháo
loãng và cháo cám nữa”.
-Em có nhận xét gì
về chi tiết này ?
- Nhà văn không miêu tả nhiều, chỉ vài nét nhưng đã gợi ra được cái
đói:
+ Những đoàn người rời bỏ quê hương đi cầu thực để mong kiếm
được miếng ăn. Nét mặt họ “xanh xám” họ “bồng bế, dắt díu nhau”
hẳn là có cả cụ già và trẻ em. Họ đói và mệt” Nằm ngổn ngang
khắp lều chợ”. Không ánh sáng, không tiếng cười, nói gợi niềm vui.

Ánh lửa chiều bên bếp không có. Tất cả chìm trong bóng tối. Không
phải tự nhiên, hai lần tác giả gợi lên bóng ma. Họ còn sống, một
cuộc sống ngắc ngoải để rồi dự báo một thế giới của cô hồn ( Hồn
người chết không nơi thờ cúng )
+ Cái chết đã hiện ra “Người chết như ngả rạ”. Sự so sánh này diễn
tả khắp nơi nhiều người chết nằm la liệt” Ba, bốn cái xác nằm còng
queo”. Người đọc tưởng tượng không khỏi rùng mình.
+ Thiên nhiên cũng góp phần làm cho không gian, cảnh vật ảm
đạm. Gió thì” ngăn ngắt” làm rõ cái đói và cái rét thấm vào tận
xương. Đường làng, ngõ xóm thì “xơ xác, heo hút”. Chẳng ai còn
đủ sức để đi lại, chơi bời. Tiếng quạ thì gào lên “thê thiết”. Loài
chim này đã đánh hơi được xác người chết ở đâu đó. Nghe thật rùng
rợn, thật buồn.
+ Nhà văn không hề tố cáo mà những trang, những dòng ấy tự
nhiên là bản luận tội bọn Pháp vàNhật, thủ phạm chính gây lên nạn
đói này. Tác phẩm vừa như cảm thông chia sẻ với số phận bất hạnh
của con người, vừa tố cáo những gì vô nhân đạo mà đế quốc pháp,
Phát xít Nhật cùng chính quyền tay sai phong kiến lúc ấy gây ra.
Gia trị của tác phẩm là ở chỗ ấy. Tình huống truyện đã góp phần
làm rõ chủ đề.
c- Tập trung hơn cả
tình huống truyện
thể hiện khát vọng
hạnh phúc và tình
thương con người
-Bằng cách miêu tả tâm trạng của nhân vật trước hoàn cảnh thực tế:
+ Tràng và cô gái thật táo bạo và liều lĩnh.
*Bản thân Tràng biết “mình cũng chưa chắc nuôi nổi mình mà
còn đèo bòng”. Nhưng anh ta “ tặc lưỡi” và “mặc kệ”. Mặc kệ có
16

- Bằng cách nào
Kim Lân thể hiện
rõ khát vọng hạnh
phúc và tình yêu
thương ? Hãy phân
tích ?
nghĩa là liều lĩnh mặc cho hoàn cảnh đưa đẩy. Tràng chẳng lo sợ gì,
tính toán gì, miễn là mình có vợ.
* Cô gái theo Tràng về làm vợ càng táo bạo hơn. Một người đàn
ông xa lạ, không hề biết một tí gì về gốc tích, hoàn cảnh sống của
anh ta mà chỉ vì bốn bát bánh đúc lúc đói đã liều lĩnh theo người ta
để gọi bằng chồng. Ngưopừi ta lấy chồng phải có tiền cưới, tiền
treo. Người con trai phải “ Năm lần ra ba lần vào” quen cả ngõ,
mòn cả lối cổng. Đằng này …Chao ôi! thật buồn cho sự liều lĩnh
ấy.
-Ngoài sự liều lĩnh,
em đánh giá như
thế nào về Tràng
và người con gái
theo Tràng ?
-Để cho hoàn cảnh thực tế sai khiến, chỉ đạo là sự liều lĩnh, táo bạo.
Nhưng có một điều nó quyết định sự liều lĩnh, táo bạo ấy của Tràng
và cô gái là khát vọng hạnh phúc. Khát vọng hnạh phúc đã giúp họ
vượt qua hoàn cảnh của cái đói và cái chết để đến với nhau. Trước
mắt họ không hề gợi ra một chút của cái đói và cái chết. Họ chỉ thấy
có nhau. Vì thế trên đường trở về nhà trước bao cặp mắt của mọi
người, “ Thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân
kia”. Còn tràng thì “ thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với
mình”. Họ nói với nhau những câu chuyện không đầu, không cuối.
Nào là khoe “ dầu thắp đây này”. Nào là trách móc “ hoang nó vừa

vừa chứ” và có cả những cử chỉ của tình yêu vừa bộc tuệch, vừa
đậm đà. Chi tiết này góp phần làm cho gương mặt mọi người ở xóm
ngụ cư “ Rạng rỡ hẳn lên”.
-Tâm trạng bà cụ
Tứ được miêu tả
như thế nào ?
- Sâu sắc nhất là miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ
+ Bắt đầu bằng những cử chỉ bên ngoài quan sát được: “ phấp
phỏng bước theo con”. “ Đến giữa sân bà lão đứng sững lại. Bà lão
ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ.
Người đàn bà nào lại đứng ở ngay đầu giường thằng con mình thế
kia. Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế
nhỉ?”. Từ “phấp phỏng” đến “đứng sững lại” rồi “ngạc nhiên” và
hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Nó bật lên thành câu hỏi.
Đây là cách nhà văn dẫn người đọc dần đến với tâm trạng nhân vật.
Ta như cảm thấy giữa nhà văn và nhân vật như không hề có khoảng
cách. Sự hoà đồng ấy chỉ có ở nhà văn thực sự hiểu biết và cảm
thông sâu sắc với cuọc sống con người.
+Sau câu nói giãi bày của Tràng: “ Nhà tôi nó mới về làm bạn với
tôi đấy u ạ. Chúng tôi phải duyên, phải kiếp với nhau. Chẳng qua nó
cũng là cái số cả …”, bà cụ Tứ cúi đầu nín lặng”. Bà cụ không nói.
Nhưng lại có bao điều diễn ra trong tâm trạng: “ Thấy con mình có
vợ, bà cụ Tứ thấy không biết nên buồn hay nên vui”. Vui vì con
mình có vợ “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta
mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà cụ Tứ
cũng buồn vì “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót
thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà cụ buồn vì gia cảnh nhà
17
mình: “ Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên
làm nổi…còn mình thì không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống

qua được cái đói khát này không”. Bà cụ nghĩ tới trách nhiệm của
mình “ bổn phận bà làm mẹ, bà chẳng lo lắng được cho con”. Bà cụ
nghhĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc
đời cực khổ dài dằng dặc của mình”. Bà cụ khóc “ Trong kẽ mắt
kèm nhèm của mình rỏ xuống hai dòng nước mắt”. Đây là giọt
nước mắt chảy ra sau bao suy nghĩ của bà mẹ nghèo. Đó là giọt
nước mắt của cả cuộc đời chua cay, mặn chát.
-Em có suy nghĩ gì
về tâm trạng bà cụ
Tứ ?
-Đó là tâm trạng rất chân thật của bà mẹ nghèo lam lũ cả một đời.
Tâm trạng ấy buồn nhiều hơn vui. Buồn vì gia cảnh nhà mình, buồn
vì bổn phận làm cha, làm mẹ không lo nổi cho con, buồn vì người
chồng mất từ lâu, đứa con gái phải lấy chồng xa …Bà cụ buồn cho
cuộc đời. Buồn cho cuộc đời cũ thì bao giờ hết được. Nhưng trong
nỗi buồn vẫn khắc khoải bao hi vọng.
-Bà cụ Tứ hi vọng
những gì ? Em có
suy nghĩ gì về hi
vọng đó ?
-Bao nhiêu lần xuất hiện trong ý nghĩ của một niềm tin, hi vọng
+ “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói
khát này không”
+ “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này”
+ “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố
mẹ trước kia không”.
-Từ niềm hi vọng mong manh còn nặng tin vào số mệnh, bà cụ nghĩ
tới triết lí muôn thuở “ Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì đời
con cái chúng mày về sau”.
- Từ hi vọng chỉ là mong manh “ Bà lão khẽ đằng hẵng một tiếng

nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới”
“ Thì các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng
lòng”. “Mừng lòng” nghĩa là bà cụ chấp thuận, vui vẻ nhận dâu,
nhận con. Trong tâm trạng cử chỉ, lời nói mang những hi vọng cũng
có nghĩa là khát vọng ở bà cụ Tứ. Niềm tin và khát vọng ấy là một
phát hiện sâu sắc ở Kim Lân. Sống bên cái chết, sống giữa cái chết,
cái chết hàng ngày đang thò bannnf tay gân guốc đến từng nhà, mẹ
con Tràng vẫn tin ở sự sống. Chỉ có nguồn sống hết mình mới có
niềm tin như thế.
-Niềm khao khát
hạnh phúc của
người mẹ có được
từ yếu tố nào ?
-Bắt nguồn từ khát vọng của vợ chồng Tràng và sâu xa hơn từ lòng
yêu thương con người. Với người con gái xa lạ, bà cu Tứ thật thiện
cảm
+ “ Các con lấy nhau”
+ “ Con cái chúng mày sau này”
18
+ “ Con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”
+ “ Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là
dâu là con trong nhà này rồi”
+ “Thấp giọng xuống thân mật: Nhà mình thì nghèo con ạ … cốt
làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi … Chúng mày lấy
nhau lúc này u thương quá”.
Bà cụ tứ vui vẻ nhận dâu, nhận con. Đó là xuất phát từ lòng yêu
thương con người, từ khát vọng hạnh phúc. Điều mà nhà văn muốn
khẳng định.
-Niềm khao khát
hạnh phúc còn

được thể hiện ở chi
tiết nào ?
- Tình yêu thương và nhu cầu xây dựng cho mình tổ ấmgia đình là
bản chất của nhân tính. Buổi sáng, ngày đầu tiên Tràng có vợ
không khí gia đình trở nên khác hẳn. Sự có mặt của vợ Tràng, gia
đình này mới thật sự là một tổ ấm. Mọi người cảm thấy gắn bó hơn
với gia đình của mình. “bà mẹ thì lúi húi giẫy những búi cỏ mọc
nham nhở” Vợ Tràng “ quét lại cái sân”. “ Nhà cửa sân vườn hôm
nay dược quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mờy chiếc quần áo
rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy
đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi
đã kín đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”.
Ta nhận ra dường như mẹ con Tràng trước đó chỉ sống tạm bợ,
sống cho qua ngày đoạn tháng. Nhặt được vợ gia đình khác hẳn.
Thay đổi nhất là Tràng “ Tràng thương yêu và gắn bó với cái nhà
của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình, hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ
cái ở đấy. Cái nhà như tổ ấm che mưa che nắng. Một niềm vui
sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”
-Em có nhận xét gì
về tâm trạng của
Tràng sau ngày có
vợ ?
-Ta rất cảm động vì tâm trạng ấy có được ở một người như Tràng.
Tràng lấy được vợ, nhặt được vợ là cả một ước mơ lớn tưởng
chừng không bao giờ thực hiện được. Giá trị nhân văn của truyện là
sự phát hiện, đồng cảm và sự trân trọng niềm vui sướng rất Người
này ở tầng lớp nông dân nghèo trong xã hội thối nát.
-Qua các phần a, b,
c, em hãy rút ra kết
luận ?

- Tình huống truyện ( Tràng nhặt được vợ ở giữa những ngày đói
kém ) đã giúp người nông dân vượt lên cả cái đói, cái chết, khơi
dậỷơ mỗi nhân vật trong truyện những ý nghĩ tâm trạng mà mỗi
người một khác. Tình huống truyện bộc lộ khát vọng hạnh phúc,
niềm tin và tình yêu thương của con người. Tình huống truyện đã
làm rõ chủ đề của truyện.
-Qua đọc hiểu em
nghĩ như thế nào là
“ vợ nhặt”
-Nhặt không phải là một động tác. Vợ nhặt đã khơi dậy bao điều
sâu sắc của cuộc đời
+ Cái đói, cái chết đang đe doạ con người. Những chi tiết tiếng hờ
khóc, mùi khói đống rấm, mùi ẩm thối của rác rưởi và xác người
19
+ Khát vọng hạnh phúc, niềm tin vào cuộc đời, lòng yêu thương con
người cũng được khẳng định qua tâm trạng mỗi con người trong
truyện
+ Tràng nhặt được vợ góp phần thức tỉnh ý thức của mọi người và
của chính mình, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm.
+ Tràng nhặt được vợ còn làm cho những khuôn mặt ở xóm ngụ cư
u tối “ bỗng rạng rỡ hẳn lên”.
Nhặt là tính từ chứ không phải là động từ như người ta nhặt cái
rơm cái rác. Nhặt mang tư tưởng nhân văn và ý nghĩa xã hội
d- Đoạn kết
- Em có suy nghĩ
gì ?
- Cũng chỉ có ba nhân vật. Thêm vào đó là tiếng trống thúc thuế từ
đình vọng vào tạo không khí căng thẳng. Vợ Tràng giữ vị trí quan
trọng trong đoạn kết. Vợ Tràng kể một cách rất tự nhiên “ Trên mạn
Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu.

Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa
đấy”. Vô hình lời nói ấy của vợ Tràng đã khơi dậy những gì rất lớn
lao của thực tế đời sống. Nhất là câu hỏi của Tràng “Việt Minh phải
không” và lời đáp của người vợ “ ừ, sao nhà biết” Hình ảnh cuối
truyện dù chỉ là hiện lên trong suy nghĩ của Tràng: “ Trong ý nghĩ
của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi
trên đê Sộp Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm… Trong óc Tràng vẫn
thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”
- Chi tiết cuối truyện có được cũng là nhờ vợ nhặt. Tình huống
truyện có ảnh hưởng suốt từ đầu đến cuối truyện.
- Vợ chồng Tràng có tham gia Việt minh hay không, ta không thể
khẳng định được. Nhưng ta tin rằng mối quan hệ giữa người nông
dân nghèo khổ với cách mạng tháng Tám là một điều chắc chắn
III- Củng cố Phần ghi nhớ SGK
IV-Luyện tập
Câu 1-SGK
-Đoạn văn gây ấn tượng sâu sắc nhất là câu chuyện của ba mẹ con
bà cụ Tứ vì:
+ Thấy được tâm trạng của mỗi nhân vật gắn với khát vọng hạnh
phúc, tình yêu thương và niềm tin mãnh liệt của con người vào cuộc
sống tương lai.
+ Cái tài miêu tả tâm trạng.
+ Suy cho cùng là cái tình của Kim Lân. Đó là sự cảm thông và gắn
bó của nhà văn với cuộc sống người lao động nghèo khổ.
Câu 2-SGK - Đoạn kết cả ba nhân vật ( ba mẹ con bà cụ Tứ ) đều xuất hiện.
+ Tiền trống thúc thuế tạo không khí căng thẳng, nơm nớp lo sợ
+ Câu hỏi của người con dâu với mẹ chồng, cách kể tự nhiên
20
những gì vợ Tràng thấy đã khoiư dậy hiện thực lớn lao. Bão táp
cáhc mạng của quần chúng nổi dậy. Tình huống truyện chỉ đạo suốt

từ đầu đến cuối truyện.
+ Cách hỏi của Tràng và nhớ lại sự việc đã chứng kiến như là sự ủ
nén những gì của khát vọng con người để chờ dịp vùng lên.
+ Hình ảnh lá cờ đỏ tung bay với đoàn người đi trên đê Sộp như là
sự vẫy gọi.
E. Tài liệu tham khảo
Tiết 63. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TÁC PHẨM, MỘT TRÍCH ĐOAN VĂN XUÔI
A-Mục tiêu cần đạt: -Củng cố và nâng cao tri thức về nghị luận văn học.
-Hiểu và biết cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện và một trích đoạn truyện.
B-Phương tiện thực hiện:
SGK+SGV+Bài soạn
C-Cách thức tiến hành: Nêu vấn đề, gợi ý trả lời, hướng dẫn thảo luận.
D-Tiến trình thực hiện bài dạy:
1-Kiểm tra bài cũ
-Qua đọc hiểu em nghĩ như thế nào là “ vợ nhặt”?
ĐA: + Cái đói, cái chết đang đe doạ con người. Những chi tiết tiếng hờ khóc, mùi khói
đống rấm, mùi ẩm thối của rác rưởi và xác người
+ Khát vọng hạnh phúc, niềm tin vào cuộc đời, lòng yêu thương con người
+ Tràng nhặt được vợ góp phần thức tỉnh ý thức của mọi người và của chính mình, làm
cho gia đình thực sự là tổ ấm.
+ Tràng nhặt được vợ còn làm cho những khuôn mặt ở xóm ngụ cư u tối “ bỗng rạng rỡ
hẳn lên”.
=>mang tư tưởng nhân văn và ý nghĩa xã hội
2-Giới thiệu bài mới
Hoạt động của giáo
viên và học sinh
Yêu cầu cần đạt
I-Khái niệm
1-Thế nào là nghị luận
về tác phẩm truyện,

trích đoạn truyện?
-Truyện để chỉ tác phẩm có cốt truyện, nhân vật, tình tiết và mối
quan hệ giữa chúng. Phạm vi bài này chủ yếu nghiêng về văn
xuôi. Truyện là chỉ những tác phẩm văn xuôi. Trích đoạn trong
truyện cũng là trích đoạn trong tác phẩm văn xuôi.
21
(Hiểu thế nào về truyện,
một trích đoạn truyện)
-Nghị luận về truyện, một trích đoạn về truyện là quá trình thực
hiện những thao tác của nghị luận để làm rõ hoặc nhận xét, đánh
giá, so sánh, phản bác những vấn đề đặt ra trong truyện hoặc
đoạn trích ấy.
2-Những vấn đề đặt ra
trong truyện bao gồm
những vấn đề gì?
-Có ba vấn đề chính mà truyện thể hiện:
+Một là nội dung tư tưởng, tình cảm.
+ Hai là nghệ thuật
+Ba là vừa nội dung, vừa nghệ thuật.
ví dụ: Đề 1- SGKvừa đặt ra nội dung và nghệ thuật
Đề 2- SGK đặt ra vấn đề về nghệ thuật
-Phân tích nhân vật có
phụ thuộc vào nghị luận
truyện không?. Nêu ví
dụ?
-Phân tích hoặc so sánh, phản bác, bình luận, chứng minh về
nhân vật đều là hình thức của nghị luận về truyện.
Ví dụ: Qua truyện ngắn “Chí Phèo” Nam Cao đã phát hiện ra
vấn đề mới mẻ ở nông thôn giai đoạn (1930-1945). Đó là mâu
thuẫn gay gắt không thể giải quyết một cách đơn giản mà quyết

liệt bằng máu. Suy nghĩ của anh(chi)về vấn đề này qua nhân vật
Chí Phèo.
-Sau khi vào đề bài viết cần đạt được các ý:
+Mâu thuẫn gay gắt nhất, quyết liệt nhất ở nông thôn giai
đoạn(1930-1945)là mâu thuẫn nào?
+Tại sao mâu thuẫn đó không giải quyết đơn giản mà phải
quyết liệt và cả bằng máu ?. Nó được thể hiện như thế nào qua
nhân vật Chí Phèo ?
*Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
(…)
*Chí Phèo chỉ có thể đâm chết kẻ thù và tự sát.
+Nhận định của đề ra đúng hay sai?
+Mở rộng vấn đề (Bằng cách đào sâu thêm một khía
cạnh)
*Cuộc đấu tranh quyết liệt đẫm máu qua kết
cục thảm thương của Chí Phèo là một dự báo của Nam Cao (…)
+Nêu ý nghĩa tác dụng của vấn đề đặt ra
II-Những yêu cầu đặt ra
-Muốn nghị luận về
truyện, một trích đoạn
truyện yêu cầu đặt ra
-Yêu cầu:
1- Xác định được yêu cầu của đề. nghĩa là nghị luận về vấn
đề gì của tác phẩm. (nội dung tư tưởng hay nghệ thuật, hoặc cả
nội dung, nghệ thuật )
22
như thế nào ? 2-Xác định được thao tác chính của đề (giải thích hay bình
luận, so sánh hay phản bác, phân tích hay chứng minh…)
3-Tuy nhiên muốn làm tốt bài nghị luận về truyện, một đoạn
trích truyện phải là sự kết hợp của nhiều thao tác làm văn nghị

luận. Miễn sao làm rõ, làm sâu để cho người đọc đồng tình với
mình.
4-Phải chú ý tới bố cục bài viết. Bài viết gồm 3 phần:
a-Mở bài:giới thiệu một cách tư nhiên vấn đề cần nghị
luận
b-Thân bài: Thực hiện các thao tác nghị luận để làm
rõ, làm sâu vấn đề.
c-Kết bài: Mở hướng mới khi nghị luận về truyện của
tác giả (tác giả có liên quan tới đề ra )
III-Thực hiện yêu cầu
của SGK.
Đề 1-SGK
-Đề yêu cầu phân tích truyện ngắn “Tinh thần thể dục” của
Nguyễn Công Hoan. Đề yêu cầu phân tích cả truyện. Điều đó
phải phân tích cả nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn này.
Sau đây là dàn bài sơ lược.
-Mở bài: Nguyễn Công Hoan là một trong tác giả đặt nền
móng cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Tác phẩm của ông
“có giá trị như một bách khoa toàn thư, sống động về xã hội niệt
Nam và thời Pháp thuộc”. Truyện ngắn “tinh thần thể dục”đăng
trên báo tiểu thuyết thứ bảy số 251 ra ngày 25-3-1939. Đây là
thời kì mà chính quyền thực dân pháp đã lơi lỏng sự kiểm duyệt.
Nguyễn Công Hoan đã vạch rõ tính chất bịp bợm của cái gọi là
“Tinh thần thể dục”mà thực dân pháp cổ động để đánh lạc
hướng thanh niên. Truyện đã miêu tả mâu thuẫn giữa một bên là
chính quyền thực dân và chức dịch kì hào với một bên là tình
cảnh khốn khổ của người dân nghèo để làm bật lên tiếng cười
mỉa mai châm biếm.
-Thân bài: 1-Qua truyện người đọc nhận biết điều gì?
+Người đọc tiếp nhận tờ trát của quan tri

huyện Lê Thăng Sức hương lí làng Ngũ Vọng. lời lẽ tờ trát vừa
có sự nghiêm ngặt của lệnh vừa đề cao tinh thần thể dục. Hàng
loạt các từ Hán Việt (Thừa lệnh, tinh đường, chỉnh tề, sẵn sàng,
tuân lệnh, cữu, sức, khiếm diện, quan khách) đã thể hiện rõ tinh
thần tờ trát. Chúng lôi kéo thanh niên vào con đường vui khoẻ,
trẻ trung. ở thời nào cũng cần đến sức khoẻ. Nhưng với lúc này,
nhiệm vụ cứu nước phải đặt lên hàng đầu. Từ đó ta càng thấy
âm mưu của thực dân Pháp. Chúng muốn thanh niên ham mê với
phong trào vui vẻ, trẻ trung sẽ xa rời nhiệm vụ cứu nước.
+Chen vào tờ trát là lời lẽ “Nhiều chiến tướng đá rất hay mọi
23
nhẽ”. Đọc những câu này ta tưởng khi đặt bút viết tác giả nhếch
mép mỉa mai cái tinh thần thể dục mà chính quyền thực dân và
tay sai đặt ra.
+Đối với tinh thần nội dung nghiêm ngặt của tờ trát là tâm
trạng của những người dân nghèo buộc phải đi xem đá bóng.
Đây là lời van xin của:
*Anh Mịch: “Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai
con phải đi làm trừ nợ cho ông nghị, kẻo ông ấy đánh chết”và
“cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy”, đến năn nỉ “ông
thương phận nào con nhờ phận ấy”
*Có người mang lễ vật đến xin ông Lí: “bác phô gái dịu
dàng đặt cành cau lên bàn: Lạy thầy, nhà con thì chưa cắt cơn …
lạy thầy, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà con đừng
bắt nhà con đi xem đá bóng vội”
*Bà cụ Phó Bính mắt kèm nhèm: “Thì lòng thành ông Lí
cứ nhận đi cho cháu”
Họ là những nạn nhân của tinh thần thể dục. Ngôn ngữ của kẻ
yếu, thấp cổ bé họng kêu cũng chẳng thấu. Đối lập với ngôn ngữ
của họ là lời lẽ của ông Lí.

*Đáp lại những lời van xin của những người khốn khổ là sự
đe lạt, doạ dẫm của ông Lí “Kệ mày, chết đói hay chết no đây
tao không biết” và “Tao thương chúng bay nhưng ai tương tao”.
Thì ra cái tinh thần thể dục kia vui vẻ đến mức nào không biết,
chỉ thấy bao nhiêu người đã khốn khổ vì nó. Ngay đến cả ông Lí
cũng lo sốt vó.
Cái đáng cười là người ốm cũng không được tha. Vẫn là lời
của ông Lí: “ốm gần chết cũng phải đi, lệnh quan như thế. Ai
cũng lấy ốm yếu mà không đi thì người ta đá bóng cho chó xem
à”. Thật khốn khổ cho người ốm và nực cườicho cái tinh thần
thể dục mà chính quyền thực dân đặt ra.
Bốn trường hợp:anh Mịch, bác Phô gái, bà cụ phó Bính,
thằng Cò chỉ là đại diện cho người dân có danh sách phải đi xem
đá bóng. Tinh thần, thái độ của họ đối lập với tinh thần thể dục
mà thực dân tay sai đặt ra. Những người nông dân ấy chẳng hào
hứng gì. Bởi cái tinh thần thể dục kia chẳng đem lại cho họ cái
gì, chỉ gây cho họ phiền toái và trực tiếp làm cho họ phải đói
cơm, rách áo. Dựng lên hoàn cảnh này và qua những lời thoại
của các nhân vật, Nguyễn Công Hoan chĩa tiếng cười châm biếm
đầy mỉa mai vào chính quyền thực dân và bọn phong kiến tay
sai. mặt khác nhà văn chia sẻ với những nạn nhân của tinh thần
thể dục
2-kết quả thật đáng cười như thế nào?
24
Đến giờ xuất phát, làng Ngũ Vọng cũng tập hợp
được 94 người mặc dù còn thiếu 6 người theo quy định. Cảnh
tượng diên ra ở sân đình hôm ấy thật đáng chú ý. Những người
bị bắt đi xem không một lời. Họ lẳng lặng như tù binh giải trại.
ta chỉ thấy tiếng quát tháo của ông Lí “94 thằng ở đây xếp hàng
năm lại đi cho đều bước. tuần chúng bay phải kèm chung quanh

giúp tao. Đứa nào trốn về thì ông bảo”. và ‘Mẹ bố chúng nó,
cho đi xem bóng đá chứ ai giết chết mà phải trốn như trốn giặc”.
Cái lo lắng, buồn phiền sự chửi bới của ông Lí đã chứng minh
cho sự thảm hại của cái gọi là tinh thần thể dục kia. Đọc đoạn
này người ta chỉ thấy bật lên tiếng cười châm biếm.
3-Tiếng cười ấy là kết quả của những mâu thuẫn nhà văn đã
tạo ra cụ thể như thế nào?
+Giữa chính quyền thực dân tay sai với người dan
nghèo
+Giữa cách tổ chức, yêu cầu nghiêm ngặt với khó
khăn của người dân
+Giữa sự khuếch trương với xin được ở nhà và trốn
tránh
Các mâu thuẫn này tạo ra rất tự nhiên như chính đời sống. Nó
làm cho truyện vừa chân thật mà chứa đầy cái đáng cười, đáng
mỉa mai. Giá trị hiện thực gắn liền với giá trị phê phán.
4-Đánh giá về cái nhìn và sự lựa chọn cũng như sử dụng
ngôn ngữ của nhà văn qua so sánh.
Nguyễn Công Hoan là nhà văn hiện thực. Cái nhìn cuộc đời
của Nguyễn Công Hoan khác với Vũ Trọng Phụng.
-Vũ Trọng Phụng nhìn vào sự thật để chửi thẳng vào xã
hội chó đểu
-Nguyễn Công Hoan nhìn vào hiện thực, phát hiện ra
những mâu thuẫn tự nhiên để làm bật lên tiếng cười hài hước.
-Vũ Trọng phụng có tài chụp nhanh những cảnh người
thật việc thật để có những trang phóng sự nóng hổi . nguyễn
Công Hoan có biệt tài trong kết cấu của của tryện ngắn qua dựng
cảnh, dựng người, qua đối thoại.
Kết bài : Nguyễn Công Hoan không chỉ đối thoại với
người đọc còn định hướng cho một cách sáng tác cục thể. Bất

luận, dù ai viết về truyện ngắn không thể bỏ qua các bước:dựng
cảnh, tạo tình huống đối thoại, lựa chọn chi tiết. Đặc biệt tạo ra
mâu thuẫn chung, riêng để góp phần làm rõ chủ đề truyện. ở mỗi
thời đại một khác
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×