BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGÔ THANH VŨ
CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số cn: 60380103
Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS Nguyễn Thị Hoài Phương
Học viên: Ngô Thanh Vũ
Lớp: CHL - K3 Khánh Hòa- hệ ứng dụng
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học thật
sự của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS-TS
Nguyễn Thị Hoài Phương. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được
trình bày trong luận văn này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất
kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả
Ngô Thanh Vũ
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Từ được viết tắt
BLDS 2015
Bộ luật dân sự 2015
BLTTDS 2015
Bộ luật tố tụng dân sự 2015
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
HNGĐ 2014
Hôn nhân gia đình 2014
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. QUYỀN KHỞI KIỆN CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI .. 10
1.1. Quyền khởi kiện của cơ quan lao động, thương binh xã hội................... 10
1.2. Quyền khởi kiện của cha mẹ đẻ yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi .. 14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 21
CHƯƠNG 2.CĂN CỨ CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI ......................... 22
2.1 Xác định yếu tố tự nguyện làm căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi ...... 22
2.2 Xác định hành vi ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi làm căn
cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi ............................................................................ 28
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 34
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển của xã hội thì việc nuôi con nuôi là nhằm xác lập
quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con
nuôi. Trong thực tế, việc nuôi con nuôi rất phổ biến nhưng việc đăng ký con nuôi
thì không phải ai cũng biết và thực hiện, mặc dù việc giải quyết cho nhận nuôi con
nuôi trong nước đã thực hiện tương đối tốt, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của
pháp luật. Việc thi hành pháp luật về nuôi con nuôi đã góp phần giúp cho nhiều trẻ
em có được mái ấm gia đình thay thế ở trong nước, được chăm sóc, nuôi dưỡng và
giáo dục tốt. Đồng thời, thông qua việc giải quyết nuôi con nuôi, cũng góp phần
quan trọng bảo đảm cho nhiều người, đặc biệt phụ nữ đơn thân hoặc các cặp vợ
chồng hiếm con, được thực hiện quyền làm cha mẹ.
Tuy nhiên, từ thực tiễn thi hành pháp luật về nuôi con nuôi còn cho thấy
những tồn tại, bất cập trong lĩnh vực này. Nhiều trường hợp nhận và nuôi dưỡng trẻ
em như con nuôi, nhưng không làm thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền do
trình độ am hiểu pháp luật của người dân còn thấp, chưa nhận thức được tầm quan
trọng của việc đăng ký nuôi con nuôi, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
khi nhận nuôi hoặc chấm dứt việc nuôi con nuôi của trẻ em được nhận nuôi và cha
mẹ nuôi. Vẫn còn nhiều trường hợp nuôi con nuôi trên thực tế nhưng không đăng ký
theo quy định của pháp luật về cho, nhận nuôi con nuôi mà chỉ có sự thỏa thuận của
hai bên (bên cho con nuôi và bên nhận con nuôi); còn tồn tại nhiều hình thức nuôi
con nuôi có tính chất “dân gian” trong nhân dân (như việc nuôi con nuôi theo phong
tục tập quán, nuôi con nuôi tình nghĩa, con nuôi lập tự...), làm mất đi ý nghĩa, giá trị
của việc nuôi con nuôi đích thực, ảnh hưởng đến quyền lợi của con nuôi, bố mẹ nuôi;
nhiều trường hợp đến nay con nuôi đã lớn tuổi, không đủ điều kiện để làm thủ tục
đăng ký hoặc chấm dứt việc nuôi con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền. Qua số liệu
giải quyết cho nhận hoặc chấm dứt việc nuôi con nuôi cho thấy, hầu như người dân
nhìn nhận vấn đề về con nuôi còn khá sơ sài, đa số còn làm theo cảm tính, chưa thấy
hết các quyền , nghĩa vụ của người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Một
số gia đình nhận nuôi con nuôi cho rằng việc nhận nuôi con nuôi chỉ thể hiện tình
cảm, nếu khi nào không muốn cha mẹ nuôi và con nuôi của nhau thì có thể chấm dứt
được hoặc có trường hợp về mặt thực tế họ có mối quan hệ là cha mẹ nuôi và con
nuôi thực thụ, có công nuôi dưỡng, chăm sóc từ nhỏ đến lớn nhưng về mặt pháp lý họ
2
không có bất cứ giấy tờ nào thể hiện là cha mẹ nuôi và con nuôi của nhau. Khi chấm
dứt việc nuôi con nuôi giữa cha mẹ nuôi và con nuôi xảy ra thì nhiều yếu tố pháp lý
không chứng minh được mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Từ đó, để làm
căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa họ gây nhiều khó khăn cho Tòa án thụ lý và
giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi. Vì thế, khác với quan hệ cha mẹ đẻ với con
đẻ không bao giờ chấm dứt, việc nhận con nuôi phải có sự công nhận của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (đăng ký việc nuôi con nuôi) thì mới có giá trị pháp lý nên
việc chấm dứt nuôi con nuôi cũng phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định. Trên thực tế việc chấm việc nuôi con nuôi được hiểu là việc chấm dứt quan hệ
pháp luật cha mẹ và con giữa cha mẹ nuôi và con nuôi thông qua những quyết định
mang tính quyền lực Nhà nước do cơ quan có thẩm quyền ban hành, trong trường
hợp này là Tòa án. Việc ban hành các quyết định này khi có những căn cứ mà pháp
luật quy định theo yêu cầu của những người có quyền yêu cầu quy định tại khoản 5
Điều 29 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi
của cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên hay các tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu
chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định tại Luật Nuôi con nuôi, Luật Hôn nhân gia
đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, việc chấm dứt nuôi
con nuôi phải đảm bảo thống nhất giữa mặt chủ quan và khách quan của các chủ thể
khi xét xử việc chấm dứt nuôi con nuôi trong nước và chấm dứt nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài. Hành vi tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi của cha mẹ nuôi
và con nuôi đã thành niên phải đảm bảo sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Hay
nói cách khác phải đảm bảo sự thống nhất giữa mặt chủ quan và khách quan của các
chủ thể. Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà Tòa án có tiến hành xem xét thẩm quyền
giải quyết hay không.
Hiện nay, vai trò của nuôi con nuôi có ý nghĩa quan trọng bởi dù trên thực tế
mang tính pháp lý song vẫn được điều chỉnh bằng các quy phạm đạo đức xã hội nên
cần ban hành các quy định pháp luật về xác lập, duy trì và đặc biệt là chấm dứt nuôi
con nuôi theo pháp luật Việt Nam. Nhất là khi chúng ta tham gia và tuân thủ các
quy định của Công ước quốc tế về chế định này. Do đó, các quy định về chấm dứt
nuôi con nuôi cần được quy định một cách chặt chẽ, đảm bảo sự thống nhất cơ bản
về hệ thống pháp luật quy định hiện hành.
Trên cơ sở là đề cao tính nhân đạo, đảm bảo việc cho trẻ em làm con nuôi là vì
lợi ích tốt nhất của trẻ em, tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em nói chung, chế
3
định về nuôi con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, tôn trọng các quyền cơ bản
của trẻ em nói chung. Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về vấn đề này
có vị trí quan trọng trong tổng thể khung pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ
em trong xã hội hiện nay. Vấn đề nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi quốc tế
nói riêng là vấn đề mang tính nhân đạo cao. Song, nếu xảy ra tình trạng chấm dứt về
mặt pháp lý về tình trạng nuôi con nuôi nghĩa là chấm dứt trên phương diện pháp
luật về các mối quan hệ về nhân thân và tài sản theo quy định.
Có thể nói rằng việc chấm dứt nuôi con nuôi theo quy định pháp luật là một
chế định vừa mang tính xã hội vừa mang tính đạo đức. Đây là một chế định mang
lại ý nghĩa điều tiết mối quan hệ trong gia đình, cụ thể là quan hệ giữa cha mẹ nuôi
và con nuôi. Điều này cho thấy tầm quan trọng khi thi hành pháp luật liên quan đến
trẻ em về quyền và lợi ích để chấm dứt việc nuôi con nuôi. Trong những quy định
về nuôi con nuôi thì năm 2012, Việt Nam đã trở thành thành viên Công ước La Hay
số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (Công ước
La Hay). Công ước được áp dụng trực tiếp nhằm điều chỉnh việc cho, nhận con nuôi
quốc tế tại Việt Nam không qua giai đoạn chuyển tiếp. Ngay sau khi Công ước La
Hay có hiệu lực thi hành, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án triển khai thực
hiện Công ước La Hay giai đoạn 2012-2015 nhằm nâng cao nhận thức về Công ước
La Hay và tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về nuôi con nuôi. Có thể nói
rằng, Công ước La Hay chính là công cụ pháp lý quốc tế với nhiều thành viên, điều
chỉnh một cách toàn diện về nguyên tắc, yêu cầu đối với việc nuôi con nuôi quốc tế
để đảm bảo việc nuôi con nuôi quốc tế được thực hiện vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Là một thành viên của Liên Hợp Quốc bên cạnh việc tuân thủ Công ước của La hay
về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế thì Việt Nam đã có
những quy định pháp luật riêng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong
hoạt động nuôi con nuôi phù hợp với sự phát triển xã hội ở nước ta trong những năm
trở lại đây. Thông qua hoạt động này thì đã điều chỉnh mối quan hệ phát sinh trong
lĩnh vực nuôi con nuôi nói chung và chấm dứt hoạt động nuôi con nuôi trong thực tế
hạn chế cũng như hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về hôn nhân gia đình ở nước ta
đáp ứng yêu cầu trước thềm hội nhập. Theo tinh thần trên, tại khoản 3 điều 6 Luật
ký kết gia nhập, thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 của Việt Nam ghi nhận như
sau: “ Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế
4
đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó
đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế
đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ
hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó”. Vì
vậy, quy định về chấm dứt nuôi con nuôi cần có những quy phạm pháp luật điều
chỉnh riêng. Bởi lẽ, các quy định về chấm dứt nuôi con nuôi trong thực tế đã có
nhiều thay đổi về tính chất về hoạt động này nên cần có sự điều chỉnh để phù hợp
với mối quan hệ được pháp luật điều chỉnh. Những quy định này đã đề ra cơ sở pháp
lý để có thể áp dụng một cách hiệu quả ở nước ta trong tình hình hiện nay. Việc Việt
Nam tham gia vào các tổ chức mang tính chất khu vực cũng như toàn cầu như Liên
Hợp quốc đã mang đến những thuận lợi và khó khăn cho nền kinh tế - xã hội Việt
Nam nhằm điều chỉnh mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi nói chung
và chấm dứt hoạt động nuôi con nuôi. Qua đó có thể bảo vệ các mối quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực này ở nước ta trong thời kỳ hội nhập.
Một vài thập kỉ gần đây, hoạt động nuôi con nuôi trên thế giới đã có nhiều
thay đổi và không ngừng củng cố và hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này. Với
những tính chất ưu việt và tầm quan trọng nêu trên thì hoạt động chấm dứt nuôi con
nuôi trên thực tế là một vấn đề quan trọng không thể thiếu được trong xã hội ở nước
ta trong cơ chế mở cửa hội nhập như hiện nay. Thế nhưng, thực tiễn của quá trình
áp dụng pháp luật về chấm dứt nuôi con nuôi còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, còn
có những khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn, giữa văn bản và thực tế. Vì vậy,
nghiên cứu về đề tài “Chấm dứt việc nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam” làm
luận văn thạc sỹ cao học Luật, chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự là một
việc làm cần thiết và cấp bách nhằm góp phần phát hiện những hạn chế của pháp
luật về nuôi con nuôi trong đó có chấm dứt việc nuôi con nuôi trên thực tế, đồng
thời, thông qua những kết quả đạt được thì phát hiện những khó khăn, vướng mắc
trong quá trình thực thi ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó hoàn thiện hệ
thống pháp luật về chấm dứt việc nuôi con nuôi nói riêng và hệ thống pháp luật về
nuôi con nuôi nói chung đồng thời nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chấm
dứt nuôi con nuôi trong giai đoạn hiện nay.
5
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến nội dung chấm dứt nuôi con nuôi, nhiều đề tài khoa học, bài
viết trên tạp chí đã đề cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung
liên quan:
- Nguyễn Thị Lan (2004) “Một số vấn đề về chấm dứt việc nuôi con nuôi” của
Khoa luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội, được đăng trên tạp chí Tòa án
nhân dân, Tòa án Nhân dân Tối cao, 2004, Số 6, tr.59-63. Bài viết của tác giả đã
phân tích các bất cập khi giải quyết dựa trên các căn cứ chấm dứt việc nuôi con
nuôi, quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi và hệ quả pháp lý của nó trong
quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản theo quy định Luật hôn nhân gia đình năm 2000.
- Phạm Tấn (2004) “Chấm dứt nuôi con nuôi: không phải “thôi” là được” tại
tạp chí Pháp luật, chuyên đề số 2 tháng 10/2004, tr 14 – 15. Bài viết này đề cập đến
vấn đề chấm dứt nuôi con nuôi theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 và thực tiễn trong việc áp dụng các quy định trên trong cuộc sống.
- Nguyễn Phương Lan (2005) Cần hoàn thiện các qui định về chấm dứt việc
nuôi con nuôi và huỷ việc nuôi con nuôi Thạc sỹ Luật học – Khoa Dân sự, Đại học
Luật Hà Nội được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án Nhân dân Tối cao,
2005, Số 24, tr.02-06. Bài viết này tác giả đã phân tích Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000 có qui định về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi xuất phát từ thực tiễn
nuôi con nuôi ở nước ta. Việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi
con nuôi và người được nhận làm con nuôi tồn tại về mặt pháp lý nên trong những
trường hợp nhất định, việc nuôi con nuôi có thể chấm dứt.
- Vũ Thanh Tuấn (2008) Giải quyết việc chấm dứt nuôi con nuôi được đăng
trên tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án Nhân dân Tối cao, 2008, Số 8, tr.33-34; Đặng
Hồ Điệp (2008) Không cần điều kiện khi tòa án thụ lý việc dân sự yêu cầu chấm dứt
việc nuôi con nuôi được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án Nhân dân Tối
cao, 2008, Số 15, tr.37-39; Lê Thu Hà (2009) Giải quyết chấm dứt việc nuôi con
nuôi được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án Nhân dân Tối cao, 2009, Số 4,
tr.28-31, 38. Tất cả các bài viết trên là trao đổi ý kiến, quan điểm của các cá nhân
khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý và giải quyết chấp nhận yêu cầu việc chấm dứt nuôi
con nuôi theo sự việc đã đưa ra. Tuy nhiên, các ý kiến hay quan điểm của các cá
nhân khi trao đổi hay căn cứ đều dựa vào Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Bộ
6
luật Tố tụng dân sự 2004 nên việc giải quyết chấm dứt nuôi con nuôi còn nhiều
vướng mắc và chưa thỏa đáng khi Tòa xét xử trong thực tế.
- Nguyễn Thị Mỹ Nhanh (2011) Nuôi con nuôi thực tế ở Việt Nam theo pháp
luật hiện hành1, Luận văn nghiên cứu chỉ nêu khái niệm con nuôi thực tế, bản chất, ý
nghĩa của con nuôi thực tế, nội dung pháp lý của con nuôi thực tế trong Luật Nuôi
con nuôi và các quy định khác có liên quan, tìm ra những vướng mắc và trên cơ sở đó
người viết nêu ra một số giải pháp kiến nghị để hoàn thiện thêm những quy định của
pháp luật về nuôi con nuôi thực tế. Luận văn cũng có nêu căn cứ chấm dứt con nuôi
thực tế và có kiến nghị hoàn thiện luật nhưng chỉ mang tính khái quát, không có tính
chuyên sâu, cụ thể và cũng căn cứ dựa vào Luật Dân sự 2005, Luật Hôn Nhân và Gia
đình năm 2000, Luật Nuôi con nuôi 2010 để làm căn cứ cho đề tài Luận văn.
- Phan Thùy Dương (2013) Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi qua thực tiễn
tại Thừa Thiên Huế2, Luận văn Thạc sỹ Luật học – Khoa Dân sự, Đại học Luật Hà
Nội, Luận văn nghiên cứu tình hình thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi tại tỉnh
Thừa Thiên Huế, phân tích những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thực hiện
pháp luật nuôi con nuôi và kiến nghị giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật nuôi
con nuôi hiệu quả. Trong đó, có mục nêu chấm dứt nuôi con nuôi như căn cứ, thủ
tục, hệ quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi và kiến nghị hoàn thiện khi áp
dụng thực tiễn các quy định tại Tòa thụ lý và giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi
con nuôi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, các nội dung kiến nghị là căn cứ dựa
vào Luật Dân sự 2005, Luật Hôn Nhân và Gia đình năm 2000, Luật Nuôi con nuôi
2010 để làm căn cứ cho đề tài Luận văn.
- Kiều Thị Huyền Trang (2014) Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi theo pháp
luật hiện nay3, Luận văn Thạc sỹ Luật học – Khoa Dân sự, Đại học Luật Hà Nội,
Luận văn nghiên cứu về đánh giá việc áp dụng thực hiện các quy định của pháp luật
về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi trong thực tiễn để kiến nghị các văn bản pháp
luật có liên quan để điều chỉnh về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi. Trong đó, có nêu
chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi và có kiến nghị hoàn thiện luật nhưng chỉ
mang tính khái quát, không có tính chuyên sâu, cụ thể và cũng căn cứ dựa vào Luật
1
truy
cập ngày 4/8/2017.
2
truy cập ngày 4/7/2017.
3
truy
cập ngày 10/8/2017.
7
Dân sự 2005, Luật Hôn Nhân và Gia đình năm 2000, Luật Nuôi con nuôi 2010 để
làm căn cứ cho đề tài Luận văn.
Hiện nay, mặc dù đã ban hành các Luật mới như: Bộ Luật Dân sự năm 2015,
Bộ Luật TTDS 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nhưng vẫn có những
vấn đề pháp lý áp dụng trong đời sống thực tiễn hàng ngày cần kiến nghị hoàn thiện
pháp luật trong việc chấm dứt việc nuôi con nuôi.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có mục đích xác định các vướng mắc của thực tiễn về vấn đề chấm
dứt nuôi con nuôi để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Để đạt mục đích nghiên cứu, tác giả có nhiệm vụ sau:
- Đối chiếu và so sánh các đối tượng được quyền khởi kiện tại tòa án qua Luật
nuôi con nuôi (2010) và các quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam qua Bộ
luật Tố tụng dân sự (2015) và các căn cứ hợp lý để tòa án thụ lý và giải quyết yêu
cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi khi áp dụng thực tế.
- Phân tích, đánh giá thực trạng khi áp dụng các quy định pháp luật hiện hành
về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi trong thực tiễn.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về việc chấm dứt
việc nuôi con nuôi.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu chú trọng về pháp luật hiện hành của Việt Nam đối với vấn
đề chấm dứt việc nuôi con nuôi, việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn và
kiến nghị hoàn thiện những quy định về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi.
* Phạm vi nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu ở phạm vi giới hạn như:
- Một số căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật hiện
hành được ghi nhận tại Bộ luật TTDS năm 2015 và Luật Nuôi con nuôi theo quy
định hiện hành. Trong đó, với nội dung pháp luật về chấm dứt nuôi con nuôi, người
viết chủ yếu nghiên cứu về các quy định tại các Điều luật từ Điều 13, 25, 26, 27 của
Luật Nuôi con nuôi (2010) quy định về vấn đề này. Đối với BLTTDS, người viết
8
chủ yếu tập trung nghiên cứu quy định tại Khoản 5 Điều 29, khoản 1 Điều 187 về
vấn đề này, ngoài ra có sự so sánh các quy định đối tượng cụ thể của các văn bản
pháp luật về hoạt động này trên thực tế. Ngoài ra, khi áp dụng thực tiễn thực hiện
các quy định có đối chiếu các quy định của Luật Nuôi con nuôi, Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2014 và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
- Một số kiến nghị hoàn thiện khi áp dụng các quy định vào thực tiễn sau khi
chấm dứt nuôi được ghi nhận tại Luật nuôi con nuôi 2010 và thực tế việc áp dụng
các quy định của pháp luật trong thực tiễn hiện hành.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt luận văn, tác giả sử dụng ở mục 1.1, 1.2, 2.1, 2.2 để phân tích
các nội dung của các quy định pháp luật hiện hành về quyền khởi kiện của chấm dứt
việc nuôi con nuôi, đồng thời tác giả còn sử dụng phương pháp này trong việc phân
tích những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng căn cứ chấm dứt việc nuôi con
nuôi về xác định yếu tố tự nguyện hoặc hành vi ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi,
con nuôi để từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
- Phương pháp so sánh được sử dụng ở mục 1.1, 1.2, 2.1, 2.2 dùng để so sánh
đối chiếu với các quy định liên quan nhằm làm rõ thêm những về những căn cứ và
hệ quả của việc chấm dứt việc nuôi con nuôi.
- Phương pháp thống kê được tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thu thập
được trong quá trình xử lý chấm dứt việc nuôi con nuôi.
- Sau cùng là phương pháp tổng hợp, đánh giá được tác giả sử dụng để hoàn
thành luận văn trên cơ sở tập hợp các tài liệu và các số liệu đã thu thập được, tác giả
đưa ra nhận xét và đánh giá những vấn đề có liên quan.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng
Ý nghĩa khoa học của Luận văn: Luận văn đã nêu những vướng mắc và kiến
nghị các giải pháp những quy định về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi trong việc
áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Đánh giá khách quan tổng thể các quy định của
pháp luật và tác động đến các đối tượng khi áp dụng các quy định pháp luật về việc
chấm dứt việc nuôi con nuôi. Nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật còn
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng việc chấm dứt việc nuôi con nuôi.
9
Giá trị đề tài ứng dụng: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
công tác nghiên cứu, học tập, trao đổi về vấn đề chấm dứt việc nuôi con nuôi;
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo tại cơ quan, đơn vị có
liên quan đến việc chấm dứt việc nuôi con nuôi ở địa phương là tỉnh Khánh Hòa nói
riêng và cả nước nói chung trong việc hoàn thiện pháp luật về chấm dứt việc nuôi
con nuôi trên phương diện lý luận và thực tiễn.
7. Bố cục và nội dung cơ bản của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn bao gồm có 2 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Quyền khởi kiện chấm dứt việc nuôi con nuôi.
- Chương 2: Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi.
10
CHƯƠNG 1
QUYỀN KHỞI KIỆN CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI
Chế định nuôi con nuôi là một trong các chế định quan trọng mà pháp luật hầu
hết các nước trên thế giới đều thừa nhận và điều chỉnh. Mục đích việc nuôi con nuôi
chủ yếu nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho trẻ em. Tuy nhiên, bên cạnh
việc quy định đầy đủ các khía cạnh pháp lý để quan hệ nuôi con nuôi được thiết lập
thì pháp luật các nước cũng quy định khía cạnh pháp lý cho việc chấm dứt nuôi con
nuôi. Như vậy, quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi là quan hệ ràng buộc một người vào
một hoặc hai người khác, những người có liên quan không có quan hệ huyết thống
với nhau cha mẹ - con ruột, nhưng người nuôi xem như cha mẹ của ngưới được
nuôi, dù không sinh ra người được nuôi; người được nuôi về phần mình, coi người
nuôi như cha mẹ ruột. Đó là quan hệ cha mẹ con không được xác lập bằng con
đường sinh sản mà theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở
đáp ứng nguyện vọng của các đương sự, đặc biệt là của người nuôi.4 Việc xác lập
quan hệ nuôi con nuôi đúng theo quy định pháp luật làm căn cứ để Tòa thụ lý và
giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có các quy định về căn cứ, thủ tục, thẩm
quyền… về chấm dứt việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng còn
cho thấy một số vướng mắc về chấm dứt việc nuôi con nuôi, chủ yếu ở vấn đề về
quyền quyền khởi kiện chấm dứt việc nuôi con nuôi làm căn cứ để Tòa án xem xét,
giải quyết cho chấm dứt việc nuôi con nuôi.
1.1. Quyền khởi kiện của cơ quan lao động, thương binh xã hội
Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010, chủ thể được quyền khởi kiện
yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi tại tòa án là cơ quan Lao động, thương binh và
xã hội5. Quyền khởi kiện của cơ quan lao động, thương binh và xã hội trong trường
hợp này là vì lợi ích và bảo vệ Trẻ em theo Luật nuôi con nuôi được quy định tại
điểm a khoản 4 Điều 26 Luật Nuôi con nuôi 2010 - Tổ chức, cá nhân có quyền yêu
cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi, cụ thể:
4
Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình, Tập 1, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.
5
Điểm a, Khoản 4 Điều 26 Luật Nuôi con nuôi 2010.
11
4. Cơ quan, tổ chức sau đây có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi khi
có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 25 của Luật này:
a) Cơ quan lao động, thương binh và xã hội;
Đây là quy định phù hợp, bởi vì cơ quan lao động, thương binh và xã hội là cơ
quan được giao trách nhiệm là bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em. Trách nhiệm này
cũng đã quy định tại Luật Trẻ em 2016, cụ thể: Cơ quan lao động - thương binh và
xã hội, cơ quan công an các cấp và Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tiếp
nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác; phối hợp xác minh, đánh giá, Điều tra về
hành vi xâm hại, tình trạng mất an toàn hoặc gây tổn hại, mức độ nguy cơ gây tổn
hại đối với trẻ em.6Như vậy, dựa vào chức năng nhiệm vụ và quyền hạn được Nhà
nước giao, cơ quan lao động, thương binh và xã hội có quyền khởi kiện tại Tòa án
để yêu cầu Tòa án thụ lý và giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định Tòa án nhân dân có thẩm
quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật
về tố tụng dân sự.7 Đối với thủ tục khởi kiện là cơ quan lao động, thương binh và xã
hội tại tòa án được hướng dẫn theo thủ tục quy định tại khoản 3, 4, 5 Điều 189 Hình thức, nội dung đơn khởi kiện của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 như sau:
3. Cơ quan, tổ chức là người khởi kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ
quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án.
Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức
và họ, tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; ở phần
cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu
của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp tổ chức khởi kiện là doanh nghiệp thì việc sử
dụng con dấu theo quy định của Luật doanh nghiệp.
4. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
b) Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện;
c) Tên, nơi cư trú, làm việc của người khởi kiện là cá nhân hoặc trụ sở của
người khởi kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có).
6
7
Khoản 2, Điều 51 Luật Trẻ em năm 2016.
Điều 10 Luật Nuôi con nuôi 2010.
12
Trường hợp các bên thỏa thuận địa chỉ để Tòa án liên hệ thì ghi rõ địa chỉ đó;
d) Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cá
nhân hoặc trụ sở của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cơ quan, tổ chức; số
điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có);
đ) Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của
người bị kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có).
Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ
địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện;
e) Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá
nhân hoặc trụ sở của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức; số
điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có).
Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối
cùng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
g) Quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm; những vấn đề
cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan;
h) Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có);
i) Danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.
5. Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi
ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà
người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì
họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của
người khởi kiện bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài
liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, đối chiếu với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì cho thấy
có sự không thống nhất về chủ thể được quyền khởi kiện. Theo đó, chủ thể được
quyền khởi kiện là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích
công cộng và lợi ích của Nhà nước được quy định tại khoản 1, Điều 187 Bộ luật tố
tụng Dân sự quy định bao gồm: Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan
quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ,
13
quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy
định của Luật hôn nhân và gia đình8. Như vậy, Bộ Luật TTDS 2015 không thừa
nhận quyền khởi kiện của cơ quan lao động, thương binh và xã hội là đối tượng
được quyền khởi kiện theo quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010. Việc quy định
chủ thể được quyền khởi kiện Tòa án giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con
nuôi theo quy định Luật hôn nhân và gia đình Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nước về hôn nhân và gia đình. Các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà
nước về hôn nhân và gia đình theo sự phân côn của Chính phủ. Ủy ban nhân dân
các cấp và cơ quan khác thực hiện quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình theo
quy định pháp luật 9. Do đó, việc quy định không cụ thể là cơ quan lao động,
thương binh và xã hội là chủ thể có trách nhiệm, quyền hạn khởi kiện Tòa án yêu
cầu giải quyết việc nuôi con nuôi nên trên thực tế cho thấy chỉ có Hội liên hiệp phụ
nữ các cấp thường là tổ chức đứng ra khởi kiện yêu cầu Tòa án thụ lý và giải quyết
chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Đối chiếu chủ thể được quyền khởi kiện tại Luật Nuôi con nuôi 2010 và
BLTTDS 2015, tác giả nhận thấy mặc dù BLTTDS 2015 ra đời sau mà vẫn không
bổ sung cụ thể cơ quan lao động, thương binh và xã hội là chủ thể được quyền khởi
kiện theo quy định Luật nuôi con nuôi 2010. Theo đó, thì cơ quan quản lý nhà nước
về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em trong phạm vi nhiệm vụ của mình
có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật hôn nhân
và gia đình 2014. Dưới góc nhìn của tác giả thì đây là một trong những quy định
mang tính chất quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi tham gia vào
quan hệ được pháp luật hôn nhân gia đình điều chỉnh. Đối với vấn đề chấm dứt nuôi
con nuôi thì đây chính là căn cứ pháp lý cụ thể để tạo cơ sở cho việc tham gia của
cơ quan lao động, thương binh xã hội là chủ thể tham gia khởi kiện khi yêu cầu
chấm dứt nuôi con nuôi trong thực tế nói chung.
Từ sự không thống nhất trong quy định của pháp luật trong thực tiễn, quan
điểm tác giả cho rằng BLTTDS 2015 chỉ quy định là các cơ quan trên có quyền
tham gia khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật hôn nhân
và gia đình. Tuy nhiên, vấn đề chấm dứt việc nuôi con nuôi lại được điều chỉnh
bằng Luật Nuôi con nuôi 2010. Nếu dựa theo quy định này thì cơ quan lao động,
8
9
Khoản 1 Điều 187 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015.
Khoản 2 Điều 4 Luật hôn nhân và gia đình 2014.
14
thương binh xã hội không có thẩm quyền khởi kiện Tòa án thụ lý và giải quyết yêu
cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi đối với cha mẹ nuôi và con nuôi. Như vậy, là có sự
không thống nhất giữa các quy định của pháp luật nói chung.
Kiến nghị: Đối với quy định tại khoản 1 điều 187 của BLTTDS 2015 cần có
sự thống nhất về chủ thể được quyền khởi kiện mà cụ thể ở đây là cơ quan lao động,
thương binh và xã hội để có sự phù hợp Luật nuôi con nuôi 2010, đảm bảo tính hợp
lý, tính phối hợp giữa các Luật với nhau trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
Dựa vào phân tích ở trên và sự không thống nhất giữa các Luật Nuôi con nuôi
2010 và BLTTDS 2015, tác giả kiến nghị thay đổi quy định tại khoản 1 điều 187
của BLTTDS 2015: Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà
nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật
hôn nhân và gia đình thay đổi cụm từ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình
bằng cụm từ theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Từ đó sẽ mở rộng
cửa cho sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền là đối tượng
khởi kiện trong việc yêu cầu Tòa án thụ lý và giải quyết liên quan công tác bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên trong quan hệ dân sự nói chung. Đồng thời,
tác giả có kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) có văn bản pháp luật
hướng dẫn cụ thể theo quy định khoản 1 điều 187 BLTTDS 2015 cho các chủ thể có
quyền tham gia khởi kiện mà chủ thể ở đây là cơ quan lao động, thương binh và xã
hội là chủ thể khởi kiện được quy định theo Luật Nuôi con nuôi 2010.
1.2. Quyền khởi kiện của cha mẹ đẻ yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi
Việc cha mẹ đẻ cho con mình làm con nuôi người khác thường là việc làm bất
đắc dĩ trong điều kiện, hoàn cảnh khó khăn nhất định. Do đó, cha mẹ đẻ trước khi
cho con mình làm con nuôi cho người khác nhận nuôi luôn cân nhắc, suy nghĩ kĩ
trước khi quyết định với mong muốn con mình sẽ có môi trường, điều kiện sống tốt
hơn, khi bản thân họ không có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc cho trẻ10. Khi cha
mẹ đẻ giao con mình cho người nhận nuôi thì quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đẻ có
chấm dứt với con đã cho làm con nuôi hay không hay vẫn tồn tại một số quyền và
nghĩa vụ nhất định sẽ làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trên cơ sở
đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em được nhận nuôi trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ
10
Khoản 1 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi 2010.
15
và cha mẹ nuôi có thỏa thuận11. Bởi vậy, khi Tòa án thụ lý và giải quyết yêu cầu
chấm dứt việc nuôi con nuôi thì Luật Nuôi con nuôi có quy định về hệ quả của việc
chấm dứt nuôi con nuôi như sau trường hợp con nuôi là ngưới chưa thành niên
hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì
Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó12. Chính vì vậy, theo quy định tại
điều 26 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định thì chủ thể khởi kiện Tòa án giải quyết
yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi là cha mẹ đẻ như sau:
Điều 26. Tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi
1. Cha mẹ nuôi.
2. Con nuôi đã thành niên.
3. Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi.13... Quy định này chính là căn
cứ pháp lý để cha mẹ đẻ khởi kiện yêu cầu chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi giữa
cha mẹ nuôi và con nuôi. Việc này hết sức cần thiết bởi việc đảm bảo cho quyền và
lợi ích hợp pháp của đứa trẻ được nhận nuôi. Việc cho con làm con nuôi thường
xuất phát từ sự tự nguyện, phù hợp với mong muốn và tình cảm của cha mẹ đẻ, phù
hợp với lợi ích của người con nuôi. Mọi sự tác động, dụ dỗ, lừa dối, cưỡng ép… để
có được sự đồng ý của cha mẹ đẻ trong việc cho con mình làm con nuôi cũng đều
không hợp pháp và về nguyên tắc không có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, sau khi cho
con làm con nuôi của cha mẹ nhận nuôi thì trên thực tế lại có phát sinh về những
vướng mắc trong môi trường chăm sóc nuôi con nuôi hoặc xảy ra sự phân biệt đối
xử của cha mẹ nuôi đối với con đẻ và con nuôi. Chính vì vậy, khi thấy con của mình
bị hành hạ, ngược đãi, phân biệt đối xử trong gia đình nhận làm con nuôi thì cha mẹ
đẻ là chủ thể có quyền khởi kiện tại Tòa án yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Việc để cha mẹ đẻ có đủ căn cứ pháp lý hoặc chứng minh đã đủ điều kiện để khởi
kiện yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định Luật Nuôi con nuôi thì vẫn
còn những trường hợp bất cập, vướng mắc khi Tòa nhận thụ lý và giải quyết việc
dân sự này. Đó là những trường hợp như:
11
Khoản 4 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi 2010.
Khoản 2 Điều 27 Luật Nuôi con nuôi 2010.
13
Khoản 3 Điều 26 Luật nuôi con nuôi 2010.
12
16
Thứ nhất: Trường hợp trong thực tế sau khi nhận nuôi, xuất phát từ điều kiện
khách quan mà cha mẹ nuôi không còn khả năng về kinh tế, điều kiện về sức khỏe
để nuôi đứa trẻ chưa thành niên nhưng do cha mẹ nuôi không tự nguyện chấm dứt
nhưng cha mẹ đẻ thấy trong hoàn cảnh đó thương con đẻ của mình nên có mong
muốn chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi đối với cha mẹ nuôi để đưa đứa trẻ của mình
về lại để nuôi dưỡng.
Ví dụ: năm 2011, vợ chồng ông A bà B làm thủ tục cho vợ chồng ông C bà D
nuôi cháu H. Thời điểm này thì việc nhận con nuôi đảm bảo đúng trình tự quy định
của pháp luật và ông C bà D có đầy đủ các điều kiện để nhận cháu H làm con nuôi.
Đến năm 2016, cháu H được chưa tròn 6 tuổi thì ông C và bà D làm ăn thua lỗ,
cơ sở sản xuất kinh doanh của ông bà phải phá sản, không có nhà ở, về kinh tế vô
cùng khó khăn, trong lúc đó hai vợ chồng C, D lại bị tai nạn giao thông phải điều trị
ở bệnh viện, phải để cháu H nhờ họ hàng ông bà C và D giữ hộ. Lúc này, ông A và
bà B đề nghị ông C và bà D được đưa cháu H về nuôi nhưng ông C và bà D không
chấp nhận. Ông bà cho rằng trong thời gian qua thì cháu H đã gắn bó và có tình cảm
thân thiết với gia đình ông bà, còn bệnh tật và kinh tế chỉ là mối lo trước mắt, có thể
giải quyết được trong một thời gian sắp tới. Do không được ông C và bà D chấp
nhận việc đưa cháu H về nuôi dưỡng nên ông A và bà B đã khởi kiện ra Tòa án
nhân dân yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết chấm dứt quan hệ Nuôi con nuôi giữa
ông C, bà D với cháu H.
Sau khi thụ lý đơn kiện và qua quá trình xác minh của cơ quan tiến hành tố
tụng có hai luồng quan điểm khác nhau, cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Áp dụng điều 25 - Luật nuôi con nuôi 2010 thì
không có căn cứ giải quyết vụ án là chấm dứt việc nuôi con nuôi. vì ông C và bà D
không vi phạm các căn cứ để chấm dứt nuôi con nuôi trong thực tế. Bản thân ông C
và bà D trong quá trình nuôi dưỡng luôn yêu thương, chăm sóc cháu H cũng như
không vi phạm các điều khoản có căn cứ trong việc chấm dứt nuôi con nuôi và từ
đó không thế áp dụng các quy định tại Điều 13 và không áp dụng khoản 1, 2, 3 Điều
25 - Luật nuôi con nuôi 2010 để giải quyết vụ việc.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Tuy rằng Điều 25 không quy định về trường hợp
yêu cầu chấm dứt nuôi con nuôi của ông bà A, B đối với ông bà C, D nhưng các cơ
quan tiến hành tố tụng có thể giải quyết cho chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi giữa
17
ông bà C, D và cháu H theo yêu cầu của ông bà A, B theo quy định tại khoản 3 Điều
26 Luật Nuôi con nuôi nhằm đảm bảo quyền lợi cho đứa trẻ. Điều này khẳng định
khi mục đích nuôi con nuôi đó là: Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ
và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo
đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia
đình14 khi mục đích không đạt được thì phải cho chấm dứt.
Quan điểm của tác giả: Trên cơ sở nghiên cứu thì tác giả đồng tình với quan
điểm thứ hai. Bởi lẽ, việc không giải quyết trường hợp trên sẽ không đáp ứng với
mục đích, ý nghĩa cho hoạt động nuôi con nuôi, đảm bảo quyền và lợi ích cho đứa
trẻ được nhận nuôi. Tuy nhiên, việc viện dẫn quy định pháp lý để các cơ quan tiến
hành tố tụng giải quyết vấn đề này theo quy định tại Điều 25 về cơ bản là không có.
Do đó khi giải quyết tại tòa án thì việc cần thiết chính là việc cần phải hoàn thiện
quy định pháp luật về Điều 25 - Các căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi để tạo điều
kiện cho các cơ quan nhà nước thuận tiện trong việc áp dụng. Vì vậy, tác giả đưa ra
kiến nghị như sau:
Kiến nghị: Bổ sung vào quy định tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi 2010 về căn
cứ chấm dứt nuôi con nuôi theo cách thêm khoản 5 vào Điều với nội dung sau:
Điều 25. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi
Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
……
5. Trường hợp có những lý do khách quan mà mục đích nuôi con nuôi không
thể thực hiện được, ảnh hưởng đến lợi ích của trẻ được nhận nuôi
Việc quy định như trên sẽ giải quyết trường hợp mặc dù cha mẹ đẻ có quyền
yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi nhưng nếu không có các căn cứ theo quy định
tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì quan hệ nuôi con nuôi của vợ chồng của
cha mẹ nuôi và đứa trẻ sẽ không chấm dứt. Đối với trường hợp này thì theo tác giả,
có thể quy định theo hướng đó là đối với trường hợp cha mẹ nuôi con nuôi chưa
thành niên, cha mẹ nuôi không tự nguyện, không vi phạm pháp luật nhưng trên thực
tế thì không có khả năng nuôi con nuôi thì có thể xem xét yêu cầu của cha mẹ đẻ
bởi xuất từ yếu tố không có khả năng nuôi con nuôi là căn cứ chấm dứt nuôi con
14
Điều 2 Luật Nuôi con nuôi 2010.
18
nuôi nhằm bảo vệ quyền lợi cho con nuôi trong việc không thể nuôi con nuôi của
cha mẹ nuôi. Tuy rằng, nhìn nhận một cách khách quan là vấn đề này có thể là
không bảo vệ lợi ích của cha mẹ nuôi nhưng xuất phát từ như cầu chăm sóc đối với
con nuôi chưa thành niên thì pháp luật cũng cần xem xét nhằm bảo vệ quyền của
đối tượng yếu thế hơn trong quan hệ pháp luật về hôn nhân và gia đình. Thể hiện
đúng nguyên tắc tôn trọng pháp luật của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình
ở nước ta hiện nay.
Thứ hai: trường hợp trong thực tế, sau khi cha mẹ đẻ cho con của mình làm
con nuôi ở gia đình người quen thân không có con nhận làm con nuôi với mong
muốn cho con mình cuộc sống tốt đẹp hơn trong khi ở với cha mẹ đẻ lại có hoàn
cảnh kinh tế gia đình lại quá khó khăn, không có ruộng vườn, cha mẹ lại không có
nghề nghiệp ổn định, bản thân lại mắc bệnh hiểm nghèo. Nhưng sau khi nhận con
nuôi thì một thời gian sau thì cha mẹ nuôi có con thì tình cảm và cách đối xử của
cha mẹ nuôi đối với con nuôi có phần khác biệt, phân cách đối xử trong quan hệ gia
đình giữa con đẻ và con nuôi. Khi đó, cha mẹ đẻ thấy vậy thương con của mình nên
đã khởi kiện Tòa án thụ lý và giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa
cha mẹ nuôi và con nuôi để đưa đứa trẻ về lại mình nuôi dưỡng theo Luật hôn nhân
và gia đình năm 201415 và Luật Nuôi con nuôi 201016
Ví dụ: Năm 2012, Vợ chồng ông X và bà Y, do đông con và hoàn cảnh kinh tế
quá khó khăn, đã cho đưa con gái út của mình tên là D đã 6 tuổi cho vợ chồng ông
K và bà B hiếm muộn không có có con làm con nuôi. Sau một thời gian, khi đã có
chữa trị bệnh hiếm muộn thì vợ chồng ông K và bà B đã có con trai. Từ đó, đã có sự
phân biệt đối xử với người con nuôi là D như bắt làm việc nhà nhiều hơn trước, đôi
khi hay chửi mắng, đánh đập, phụ bán quán cơm giúp gia đình và không cho đi học.
Tình cờ, khi sang thăm con, vợ chồng ông X và bà Y thấy tình cảnh như vậy đã đòi
lại con về nhưng vợ chồng ông K và bà B không chịu vì cho rằng việc đối xử như
vậy cũng là thường tình trong cuộc sống gia đình và do em A (con đẻ) còn nhỏ nên
D là chị lớn phải phụ giúp gia đình. Do không được ông K và bà B chấp nhận việc
đưa cháu D về nuôi dưỡng nên ông X và bà Y đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân yêu
cầu Tòa án nhân dân giải quyết chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi giữa ông K, bà B
với cháu D.
15
16
Khoản 4 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Khoản 3 Điều 13 Luật Nuôi con nuôi 2010.
19
Sau khi thụ lý đơn kiện và qua quá trình xác minh của cơ quan tiến hành tố
tụng có hai luồng quan điểm khác nhau, cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Áp dụng điều 25 - Luật nuôi con nuôi 2010 thì
không có căn cứ giải quyết vụ án là chấm dứt việc nuôi con nuôi. vì ông K và bà B
không vi phạm các căn cứ để chấm dứt nuôi con nuôi trong thực tế. Bản thân ông K
và bà B trong quá trình nuôi dưỡng vẫn chăm lo ăn, ở cho cháu D, việc đối xử giữa
con nuôi và con đẻ cho là bình thường khi cháu D là lớn hơn phải phụ giúp gia đình
để trang trải kinh tế và cho cháu D nghỉ học một thời gian, khi nào có điều kiện kinh
tế sẽ cho đi học lại. Vợ chồng ông K và bà B cũng như không vi phạm các điều
khoản có căn cứ trong việc chấm dứt nuôi con nuôi và từ đó không thế áp dụng các
quy định tại Điều 13 và không áp dụng khoản 1, 2, 3 Điều 25 - Luật Nuôi con nuôi
2010 để giải quyết vụ việc.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Tuy rằng khoản 4 Điều 25 không quy định về
trường hợp yêu cầu chấm dứt nuôi con nuôi của ông bà K,B đối với ông bà X, Y mà
cụ thể là Điều 13 Luật Nuôi con nuôi17 về phân biệt đối xử giữa con nuôi và con đẻ
nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng có thể giải quyết cho chấm dứt quan hệ nuôi
con nuôi giữa ông bà K, B và cháu D theo yêu cầu của ông bà X, Y theo quy định
tại khoản 3 Điều 26 Luật Nuôi con nuôi nhằm đảm bảo quyền lợi cho đứa trẻ. Điều
này đã nêu trong nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi Việc nuôi con nuôi phải
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận
con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và
đạo đức xã hội.18
Quan điểm của tác giả: Trên cơ sở nghiên cứu thì tác giả đồng tình với quan
điểm thứ hai. Bởi lẽ, việc không giải quyết trường hợp trên sẽ không đáp ứng với
mục đích, ý nghĩa cho hoạt động nuôi con nuôi, đảm bảo quyền và lợi ích cho đứa
trẻ được nhận nuôi. Tuy nhiên, việc để viện dẫn quy định pháp lý hiểu là phân biệt
đối xử giữa con nuôi và con đẻ để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vấn đề
này theo quy định tại khoản 4 Điều 25 dẫn chiếu đến khoản 3 Điều 13 của Luật
Nuôi con nuôi về cơ bản là không có. Do đó khi giải quyết tại tòa án thì việc cần
thiết chính là việc cần phải hoàn thiện quy định pháp luật về Điều 25 - Các căn cứ
17
18
Khoản 3 Điều 13 Luật Nuôi con nuôi 2010.
Khoản 2 Điều 4 Luật Nuôi con nuôi 2010.
20
chấm dứt việc nuôi con nuôi để tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước thuận tiện
trong việc áp dụng. Vì vậy, tác giả đưa ra kiến nghị như sau:
Kiến nghị: Từ các vướng mắc nêu trên, tác giả kiến nghị TANDTC nên ban
hành các văn bản hướng dẫn quy định những trường hợp cụ thể về sự phân biệt đối
xử giữa con đẻ và con nuôi để xem xét khi Tòa giải quyết chấm dứt việc nuôi con
nuôi nhằm điều chỉnh sự phù hợp hơn, giữa quyền và lợi ích của con nuôi, của cha
mẹ nuôi và cha mẹ đẻ trong quan hệ pháp luật này. Từ những trường hợp theo quy
định, Tòa án sẽ thụ lý và giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi do cha mẹ
đẻ là chủ thể khởi kiện. Như vậy, hướng giải quyết đó là hợp lý và thống nhất khi
yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của con nuôi.
Ngoài ra, TANDTC nên có văn bản hướng dẫn cần quy định rõ hơn về trường
hợp chủ thể thế nào là phân biệt đối xử theo hướng mở để Tòa án địa phương vận
dụng trong công tác xét xử để đảm bảo thống nhất, tránh tình trạng nơi này thì cho
rằng phân biệt đối xử còn nơi khác thì cho rằng không phân biệt đối xử áp dụng
pháp luật một cách không thống nhất.