Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

SKKN một số biện pháp tổ chức trò chơi học tập trong phân môn luyện từ và câu nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh lớp 2a trường tiểu học lý thường kiệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.44 KB, 23 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN CƯMGAR
TRƯỜNG TH LÝ THƯỜNG KIỆT

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: Một số biện pháp tổ chức trò chơi học tập trong phân môn

Luyện từ và câu nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh lớp 2A
trường Tiểu học Lý Thường Kiệt

Người thực hiện: Nguyễn Thị Xuân
Trường TH Lý Thường Kiệt
Năm học: 2016-2017
EaMnang, ngày 10 tháng 3 năm 2017


MỤC LỤC
NỘI DUNG
A.PHẦN MỞ ĐẦU

TRANG
2

I.Lý do chọn đề tài

2

II. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài

3

PHẦN B : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU



5

I.Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn

5

II. Thực trạng

6

III.nội dung và hình thức thực hiện giải pháp

9

IV. Kết quả

16

Phần C: Kết luận

19

I.Kết luận

19

II. Đề xuất và kiến nghi

19


Tài liệu tham khảo

21

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.Lý do chọn đề tài
1


Trong các môn học ở tiểu học, môn Tiếng Việt là môn có vi trí hết sức quan
trọng. Nó cung cấp vốn ngôn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức. Nó còn là công cụ
giúp cho học sinh học các môn khác. Đặc biệt phân môn Luyện từ và câu là phân
môn rèn học sinh kỹ năng nghe, đọc, nói, viết trong đó kỹ năng nói là yêu cầu cơ
bản khá trọng tâm ở phân môn Luyện từ và câu.
Qua mỗi tiết Luyện từ và câu, các em được mở rộng một lượng vốn từ nho
nhỏ, tích lũy cho mình một vốn từ phong phú và đa dạng…Nhưng điều quan trọng
hơn là các em biết cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong
một đoạn, một bài. Đấy chính là yêu cầu rèn kĩ năng nói cho học sinh.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy dạy học sinh nói được một câu hay,
giàu cảm xúc là một kĩ năng khócủa phân môn Luyện từ và câu. Bởi vậy, hiệu quả
giờ dạy Luyện từ và câu còn hạn chế. Một phần người dạy còn chưa tìm ra quy trình
và phương pháp dạy thích hợp. Hơn nữa đây là phân môn hoàn toàn khó đối với học
sinh lớp1, 2.. Với đối tượng này vốn từ ít, kỹ năng diễn đạt còn hạn chế, các em đọc
còn chưa lưu loát vì vậy ít nhiều hạn chế đến khả năng đặt câu đúng, câu hay, diễn
đạt bằng lời nói, lời kể và cách diễn xuất của mình qua từng đoạn chuyện, câu
chuyện dẫn đến các em thiếu tính mạnh dạn, tính tự tin trong học tập. Chính vì thế,
trong giờ học các em học nhanh chán, không hứng thú học tập, đã không hứng thú
học tập các em hay nói chuyện riêng
Trong dạy học môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Luyện từ và câu nói riêng

ở Tiểu học giáo viên chỉ truyền đạt, giảng giải kiến thức có sẵn trong sách giáo
khoa.. nếu như vậy tiết học sẽ rất khô khan, tẻ nhạt, làm cho học sinh không hứng thú
trong học tập kết quả học tập sẽ không cao. Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi
phải thường xuyên đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực chủ động
sáng tạo của học sinh vì vậy người giáo viên phải gây được hứng thú học tập của học
sinh bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Trò chơi học tập
là một hoạt động mà các em hứng thú nhất. Các trò chơi có nội dung Tiếng Việt lý
thú và bổ ích phù hợp với việc nhận thức của các em. Thông qua các trò chơi về học
2


tập các em còn được phát triển cả về trí tuệ, thể lực, nhân cách, giúp cho việc học
môn Luyện từ và câu thêm nhẹ nhàng và hiệu quả
Chính vì lí do trên, mà tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm :”Một số biện
pháp tổ chức trò chơi trong phân môn Luyện từ và câu lớp 2 nhằm gây hứng
thú học tập cho học sinh lớp 2a trường Tiểu học Lý Thường Kiệt”.
II.Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
1.Mục đích nghiên cứu
- Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu, đề xuất những biện pháp góp phần vào đổi mới
cách dạy học sinh học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2.
Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách học của trò. Phát
huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua cách tổ chức dạy học của giáo
viên và cách học của học sinh. Qua đề tài này tôi mong muốn được góp một phần nhỏ
vào việc rèn luyện cho học sinh các kỹ năng chính:
- Làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh
- Biết sử dụng từ ngữ trong đời sống hàng ngày.
- Qua đề tài này, tôi mong muốn được góp một phần nhỏ vào việc gây sự hứng thú
học tập cho học sinh nâng cao chất lượng học tập môn Tiếng Việt.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài này tôi chỉ tập trung hướng tới giải

quyết các nhiệm vụ sau:
+ Tìm hiểu thực trạng học môn Tiếng Việt của học sinh lớp 2A nói riêng.
+ Đề xuất các giải pháp giúp giáo viên áp dụng một số phương pháp tổ chức
một số trò chơi vào dạy môn phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2A.
3.Đối tượng nghiên cứu:
- Một số biện pháp tổ chức một số trò chơi trong phân môn Luyện từ và câu
cho học sinh lớp 2A.
4. Giới hạn của đề tài
- Đề tài hướng dẫn học sinh tham gia chơi một số trò chơi để học môn Luyện
từ và câu nhằm phát huy tính tích cực và hứng thú học tập của học sinh.
3


* Nghiên cứu kĩ nội dung sách giáo khoa, các loại sách tham khảo Tiếng Việt
lớp 2 để giáo viên nắm chắc trọng tâm chương trình môn học
* Điều tra tình hình thực tiễn những vấn đề có liên quan đến đề tài:
+Trao đổi với đồng nghiệp để đánh giá khả năng học tập môn Tiếng Việt của
học sinh để từ đó rút ra phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có hiệu quả.
+Dự giờ giáo viên cùng khối để nắm phương pháp giảng dạy hướng dẫn học
sinh để rút ra bài học kinh nghiệm quý báu.
+Đề xuất một số giải pháp về tổ chức một số trò chơi trong phân môn Luyện
từ và câu cho học sinh giúp các em học mà chơi, chơi mà học trong phân môn Luyện
từ và câu. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cùng với kết quả nghiên cứu của đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp thống kê
+ Phương pháp trò chuyện
+ Phương pháp đọc sách và tài liệu
+ Phương pháp thực nghiệm
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp


4


B. PHẦN NỘI DUNG
I.Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1.Cơ sở lí luận
Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong
trường Tiểu học được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng để ngay từ cấp Tiểu học,
mỗi học sinh đều cần và có thể đạt được trình độ học vấn toàn diện, đồng thời phát
triển được khả năng của mình về một môn học, nhằm chuẩn bi ngay từ bậc Tiểu học
những con người chủ động, sáng tạo đáp ứng được mục tiêu chung của cấp học và
phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Hiện nay, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở bậc tiểu học đang diễn ra
một cách sôi động, được nghiên cứu ứng dụng rộng rãi cả về lí luận cũng như về mặt
thực tiễn. Việc dạy học theo hướng “Tích cực hóa người học” hay “hướng tập trung
vào học sinh” tăng cường phương pháp dạy học tổ chức cho học sinh hoạt động để
các em chiếm lĩnh kiến thức bằng chính hoạt động học của chính mình là đinh hướng
cơ bản trong đổi mới phương pháp dạy học của Tiểu học.
2.Cơ sở thực tiễn
Khi dạy Luyện từ và câu, giáo viên sử dụng nhiều phương pháp khác nhau
trong đó có phương pháp trò chơi để giúp học sinh học mà chơi, chơi mà học. Bởi lẽ
trò chơi có sức cuốn hút với mọi người, bất kể lứa tuổi nào. Cuộc sống càng phát
triển, đời sống càng được cải thiện thì nhu cầu vui chơi càng lớn. Không chỉ ngày
hôm nay, mà ngay từ xa xưa, vui chơi đã xâm nhập vào cả các hoạt động mang tính
chất linh thiêng như lễ hội. Người dân đến với lễ hội một phần vì phần lễ, nhưng
không ít người lại hướng về phần hội vì phần hội thường gây ấn tượng cho người dự
với những trò chơi vui, hào hứng, có sức hút mạnh mẽ đối với mọi tầng lớp… trong
dạy học cũng vậy việc đưa trò chơi vào dạy học tức là biến việc học trên lớp thành
một cuộc chơi. Qua việc tổ chức cho học sinh vui chơi, giúp cho học sinh tiếp nhận

kiến thức một cách dễ dàng hơn, hào hứng hơn, giúp cho việc rèn luyện kĩ năng đạt
hiệu quả hơn. Việc tổ chức cho học sinh tham gia chơi các trò chơi vào trong các tiết
học Luyện từ và câu đáp ứng đúng cùng lúc hai nhu cầu của con người: nhu cầu vui
5


chơi và nhu cầu học tập. Đó chính là hình thức chơi mà học đang được cả xã hội
quan tâm.
Trong dạy học phân môn Luyện từ và câu ở Tiểu học, các thầy cô giáo thường
tổ chức một số trò chơi học tập nhằm tạo điều kiện cho học sinh tích cực tham gia
vào các hoạt động thực hành rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, viết, đồng thời tiếp thu
kiến thức một cách tự giác và hứng thú. Thông qua trò chơi học tập học sinh còn
được phát triển cả về trí tuệ, thể lực, nhân cách giúp cho việc học phân môn Luyện từ
và câu thêm nhẹ nhàng và hiệu quả.
Vậy trò chơi nào có thể đưa vào dạy trong mônLuyện từ và câu? Trò chơi được
sử dụng vào lúc nào là hợp lý? Tổ chức chơi trong giờ học như thế nào cho có hiệu
quả? Đó chính là những vấn đề tôi muốn đưa ra trong đề tài này để nghiên cứu.
II.Thực trạng vấn đề cần nghiên cứu
1. Thực trạng
a.Thuận lợi
-Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt được nằm giữa trung tâm của xã EaM'nang,
dân cư đông đúc, chủ yếu là người Kinh. Trường được sự quan tâm của các cấp ủy
đảng và chính quyền đia phương. Được sự quan tâm của sở, phòng giáo dục huyện
nhà đã cung cấp đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bi, đồ dùng dạy học.
-Ban giám hiệu luôn quan tâm tới việc chỉ đạo đổi mới phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học, chỉ đạo thực hiện công tác nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện cho thế hệ trẻ. Dạy học đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bi kiến
thức sang trang bi những năng lực cần thiết cho học sinh.
-Giáo viên tích cực tìm tòi đổi mới phương pháp, dạy học luôn luôn lấy học
sinh làm trung tâm.

-Lớp 2A rất thuận lợi được học 7 buổi trên tuần. Đa số học sinh ngoan ngoãn,
biết vâng lời thầy cô giáo.
b.Khó khăn
Năm học 2016-2017, tôi chủ nhiệm lớp 2A, tổng số học sinh là 26 em, nữ 12
em, dân tộc thiểu số 2 em, con hộ nghèo và cận nghèo 3 em.
6


100% Học sinh bố mẹ làm nông nghiệp. Mặt bằng dân trí không đồng đều.
Một số gia đình không quan tâm nhiều đến sự học tập của con em mình, sự học hành
của con em họ thường phó mặc cho nhà trường.
c.Điều tra thực trạng
-Hằng ngày, trên lớp, vào những giờ ra chơi, tôi thường xuyên chuyện trò với
các em, hỏi han về gia đình, sở thích của các em, vừa tạo môi trường thân thiện, thân
mật gần gũi giữa giáo viên và học sinh vừa tìm hiểu về cách giao tiếp bằng ngôn ngữ
của các em. Qua những cuộc chuyện trò với học sinh tôi thấy khoảng hơn một phần
ba số học sinh trong lớp đã chủ động đến để nói chuyện với cô. Số còn lại e dè không
dám nói hoặc nói rất ít. Những em chủ động đến nói chuyện với tôi thì thấy các em
diễn đạt ngôn ngữ có phần trôi chảy hơn những em nói ít.
Quan sát học sinh khi học môn luyện từ và câu, tôi yêu cầu các em tìm từ ngữ thuộc các
chủ đề, chủ điểm đang học. Đa số các em tìm được rất ít từ, chỉ khi cô giáo gợi mở sát
vào từng ngữ cảnh học sinh mới tìm được từ mà giáo viên yêu cầu.
Ngoài ra, tôi còn quan sát các em khi các em giao tiếp bằng ngôn ngữ với nhau, tôi thấy
các em nói năng còn cộc lốc chưa có chủ-vi. Các em giao tiếp với nhau chưa tỏ thái độ
thân thiện và lich sự.
Qua quá trình thực hiện phương pháp quan sát trên tất cả các lĩnh vực tôi thấy
ngôn ngữ của các em còn rất hạn chế, việc trả lời câu hỏi thường thiếu phần chủ
ngữ,câu cú còn lộn xộn, gọn lỏn. Sử dụng ngôn ngữ trong văn bản còn nghèo nàn.
Qua quan sát học sinh ở lớp tôi và dự giờ các đồng chí giáo viên ở khối Hai
phân môn Luyện từ và câu, tôi thấy thực trạng của học sinh như sau:

Các tiết học dạy chỉ có truyền thụ kiến thức và lĩnh hội kiến thức từ sách giáo
khoa và qua sự giảng giải gợi mở của giáo viên tôi thấy các em không hứng thú học
tập. Các em tập trung vào giờ học chưa cao thái độ chóng chán, uể oải và mệt mỏi
của các em trông thấy rõ rệt.chỉ được một lúc là các em lơ là làm việc riêng trong
lớp.
Từ những khó khăn trên, tôi thấy các em chưa thật tự giác trong học tập. Điều
đó phần nào ảnh hưởng đến chất lượng chung, do đó qua thời gian học hai tuần đầu
7


tiên tôi đã dành nhiều thời gian để kip thời nắm bắt cụ thể việc tiếp thu bài, khả năng
và mức độ học môn Luyện từ và câu của các em và kết quả ban đầu tôi khảo sát được
sau khi dạy môn Luyện từ và câu tôi đã thu thập được thực trạng học tập của học sinh
lớp 2A thể hiện qua bảng thống kê số liệu sau :
Kết quả điều tra giai đoạn 1 như sau:
THỜI GIAN

NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT

KẾT QUẢ
Số lượng
10 em
Học sinh chú ý tiếp thu bài
Học sinh thường xuyên phát biểu xây dựng bài 7 em
13 em
Học sinh không làm việc riêng trong giờ học
THÁNG 9/2016
10 em
Học sinh hiểu nội dung bài học
Học sinh biết vận dụng kiến thức để giải quyết 10 em


%
38,46
26,9
50
38,46
38,46

các bài tập theo yêu cầu
Nhìn vào kết quả điều tra trên, tôi thấy số học sinh chú ý trong các giờ học, tập
trung suy nghĩ để cùng các bạn giải quyết vấn đề cô giáo yêu cầu chưa cao. Đây
cũng là nguyên nhân dẫn đến kết quả tiết dạy chưa thành công vì các em chưa hiểu
được bài, chưa làm được các bài tập theo yêu cầu chuẩn kiến thức kỹ năng bài học.
Nguyên nhân các em chưa tích cực một phần do lượng kiến thức các em phải lĩnh hội
lớn, trong khi đó tuổi các em chơi chủ yếu hơn học, các em dễ quên, mau chán……
Đổi mới phương pháp, gây hứng thú, giúp các em tích cực giải quyết vấn đề là nhiệm
vụ hằng đầu đối với bản thân tôi. Vì vậy, tôi đã áp dụng một số biện pháp tổ chức trò
chơi dạy học phân môn Luyện từ và câu, có tác dụng giúp học sinh chơi mà học để
các em tiếp nhận kiến thức dễ dàng hơn.
Điều đó rất dễ thấy vì trong quá trình giảng dạy giáo viên chưa thực sự lôi
cuốn và cuốn hút học sinh, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho
học sinh thụ động và phụ thuộc nhiều vào giáo viên nên không mang lại hiệu quả.
Giáo viên chưa vận dụng đổi mới phương pháp dạy học,chưa thường xuyên tổ chức
các trò chơi Tiếng Việt cho học sinh trong giờ dạy. Vì sao giáo viên lại không thường
xuyên sử dụng phương pháp trò chơi trong phân môn Luyện từ và câu? Nguyên nhân
đó là:
8


Giáo viên chưa xác đinh được nên lựa chọn trò chơi nào vào tiết học, để tiết

học sinh động và hấp dẫn học sinh ? Trò chơi nên sử dụng vào lúc nào là hợp lý? Tổ
chức trò chơi trong giờ học như thế nào cho hiệu quả? Ngoài ra, giáo viên ngại vận
dụng tổ chức trò chơi vì thời gian của mỗi tiết học là có hạn. cơ sở vật chất của lớp
như phòng học chưa đủ rộng rãi. Để chuẩn bi cho trò chơi cần rất nhiều đạo cụ và
thiết bi dạy học…
Từ thực trạng và kết quả điều tra trên, chúng ta thấy rằng nếu giáo viên dạy
học không nhiệt tình, dạy học không lấy học sinh làm trung tâm, không phát huy tính
tích cực, tính mạnh dạn của học sinh thì kết quả thu được không theo ý muốn. Vì vậy
tôi đã đề ra một số giải pháp và biện pháp khắc phục để nâng cao chất lượng học tập
môn Luyện rừ và câu, tạo ra sự hứng thú học tập cho học sinh..
Từ những thực trạng đã nêu ở trên, trong quá trình giảng dạy, tôi thấy để các
em có hứng thú trong học phân môn Luyện từ và câu nâng cao được hiệu quả học
tập, cần phải chú ý tới các biện pháp sau:
III.Nội dung và hình thức của giải pháp
1. Mục tiêu của giải pháp
Đưa trò chơi học tập vào học trong phân môn Luyện từ và câu nhằm tạo điều
kiện cho học sinh tích cực tham gia vào hoạt động thực hành rèn luyện các kĩ năng
viết và nói, đồng thời tiếp thu kiến thức một cách tự giác và hứng thú. Thông qua trò
chơi học tập học sinh còn được phát triển cả về trí tuệ, thể lực, nhân cách, giúp cho
việc học phân môn Luyện từ và câu thêm nhẹ nhàng và hiệu quả.
2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
2.1 Lựa chọn trò chơi phù hợp vào từng bài học để tiết học sinh động hấp dẫn
học sinh.
Thật ra thì bất kì trò chơi nào cũng có tác dụng nhất đinh trong việc bồi dưỡng
kiến thức, rèn luyện kĩ năng cho học sinh.nhưng một tiết học bao giờ cũng có những
yêu cầu cần đạt được về kiến thức cơ bản và kĩ năng thực hành. Vậy nên khi tổ chức
một trò chơi nào đó nhất thiết phải là một bộ phận nội dung của bài học phải là một
9



thành phần cấu tạo nên tiết học, phải góp phần vào việc hình thành kiến thức cơ bản
của tiết học…
Ví dụ dạy phân môn Luyện từ và câu:
Để giúp học sinh rèn kĩ năng tìm nhanh từ và phát huy óc liên tưởng rèn tác
phong nhanh nhẹn , luyện trí thông minh và ứng xử nhanh thì tôi đã sử dụng trò chơi
Tìm nhanh từ cùng chủ đề.hoặc dùng trò chơi Tìm nhanh từ có phụ âm đầu giống
nhau.
2.2 Trò chơi cần phải được sử dụng vào thời điểm hợp lý
Một khi trò chơi là nội dụng bài học thì việc sử dụng trò chơi tùy thuộc vào
cách tổ chức giờ dạy của người giáo viên. Nói cách khác trò chơi có thể được sử
dụng ở bất kì bước lên lớp nào.
Khi muốn kiểm tra xem học sinh có nắm vững bài học tiết trước hay không thì
giáo viên có thể sử dụng trò chơi ngay lúc kiểm tra đầu giờ.
- Có thể sử dụng trò chơi để hình thành kiến thức bài học
- Có thể sử dụng trò chơi để củng cố bài học.
Tóm lại , trò chơi dùng trên lớp như thế nào là do người giáo viên linh hoạt
quyết đinh. Nó có thể xuất hiện ở bất cứ thời điểm nào trong suốt quá trình dạy học.
2.3 Một số cách tổ chức chơi trong giờ học
Cho các em vui chơi trong giờ học là để các em học, cho nên không thể chỉ cứ
chơi cho vui. Sau cái vui phải là bài học, phải nhận thức được bài học thể hiện được
trong trò chơi. Vì vậy, tổ chức đưa trò chơi vào lớp học học nhất thiết cần có hai
bước:
Bước 1:Tổ chức chơi để làm quen với kiến thức, thành thạo kĩ năng.
Bước 2: Rút ra bài học để các em nhận thức rõ bài học từ trò chơi.
Đưa trò chơi vào tiết học chủ yếu là muốn tổ chức vui chơi ngay trong lớp học
hằng ngày. Có nghĩa là chơi trong phạm vi không gian chật hẹp, trong phạm vi thời
gian ngắn ngủi, chơi với số người tham dự đông. Vì vậy mà hình thức vui chơi có bi
hạn chế. Chủ yếu có các hình thức chính như sau:
10



+ Các nhóm lần lượt cử từng người nối tiếp lên thức hiện một thao tác trên
bảng. ví dụ chơi tìm từ chứa tiếng mang vần iê và yê. Từng học sinh lên bảng ghi
một từ vào chỗ dành cho nhóm mình. Sau đó mau chóng về chỗ để bạn lên ghi tiếp.
hết thời gian quy đinh, nhóm nào ghi được nhiều từ đúng là thắng. ví dụ chơi Sắp xếp
thẻ chữ theo đúng thứ tự bảng chữ cái. Luật chơi chỉ cho phép mỗi người hoán vi hai
thẻ chữ môt lần lên bảng thực hiện thao tác. Nhóm nào có số lần thực hiện việc hoán
vi hai thẻ chữ ít nhất là thắng cuộc. ta có thể gọi tắt hình thức này là tiếp sức.
+ Cá nhân thực hiện trên phiếu rời có ghi sẵn đề bài, hoặc thực hiện trên giấy
rời theo đề bài được ghi trên bảng phụ. Sau đó, dán tờ giấy hoặc phiếu ghi kết quả
lên bảng lớp để các bạn và cô giáo nhận xét chốt lời giải đúng..hình thức này thường
phải giới hạn số bài dán trên bảng lớp không thể quá được con số 8 nghĩa là đòi hỏi
người chơi không chỉ giải đúng mà còn cần giải nhanh. Có thể gọi hình thức này là
tăng tốc.
+ Cá nhân thực hiện trên bảng hoặc trên giấy rời, nhóm chọn ra một phiếu dán
lên bảng, còn các phiếu khác nạp cho cô. Cô giáo kiểm tra phiếu để biết cả nhóm đã
hoàn thành công việc. Còn cô giáo thì nhận xét phiếu dán trên bảng về độ chính xác
và nhanh nhẹn. như vậy ở hình thức này, các nhóm sẽ được tính theo 3 mặt: giải đồng
đội tính trên số phiếu hoàn thành công việc, giải chính xác của bài giải tinh theo bài
đại diện của từng nhóm, giải nhanh nhẹn tính theo thứ tự dán bài trên bảng lớp. cụ
thể gọi hình thức này là cùng đồng đội.
Để tăng thêm hứng thú cho trò chơi, chúng ta có thể tăng thêm các trở ngại khi
thực hiện các thao tác giải bài tập. Phổ biến và dễ thực hiện là nên có các trở ngại
trên đường di chuyển của các em từ chỗ ngồi lên đến bảng lớp. Không để từng em
lên bảng nữa mà cứ từng cặp 2 em một dắt díu nhau lên bảng. hai em này phải tuân
theo một trong các luật sau:
Hai em chỉ được đi bằng 3 chân. Ta buộc hai chân của các em lại để chỉ còn 3
chân. Hoặc một em phải buộc một chân treo lên vai rồi vin vào vai em kia mà đi.
Hai em dắt tay nhau đi nhưng không được dùng lời nói điều khiển nhau. Chỉ
được dùng tay để thay lời nói.

11


Chọn hình thức tổ chức chơi như thế nào một phần lệ thuộc vào nội dung trò
chơi, nhưng phần quan trọng hơn là lệ thuộc vào điều kiện khả năng tổ chức chơi của
thầy cô giáo, năng lực vui chơi của học sinh.
2.4.Tổ chức một số trò chơi trong giờ Luyện từ và câu
Xuất phát từ đặc điểm tâm lí của học sinh nói riêng và người học nói chung nội
dung học tập càng hấp dẫn thì người học càng có hứng thú cao và hiệu quả học tập do
đó càng cao, việc học gắn với thực hành thì sẽ giúp cho người học nhớ lâu kiến thức và
biết cách vận dụng kiến thức, kĩ năng vào một tình huống giải quyết vấn đề cụ thể,
người học muốn thể hiện năng lực của mình.
Trò chơi ghép nhanh tên sự vật
Ví dụ: tranh bài tập 1 tuần 3 trang 26, bài tập 2 tuần 7, trang 59, bàitập 3 tuần 16
trang 134 trong SGK Tiếng Việt 2 tập 1.
Chuẩn bi 2 bộ đồ dùng để chơi: mỗi bộ gồm 1 số đồ vật thật hoặc tranh ảnh đại
diện cho nghĩa của từ được nêu trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2, các thẻ từ( bìa giấy)
ghi tên các đồ vật (tranh ảnh)
Ví dụ: Tranh bài tập 1 tuần 3 trang 26, bài tập 2 tuần 7, trang 59, bàitập 3 tuần 16
trang 134 trong SGK Tiếng Việt 2 tập 1. một số mảnh bìa ghi từng từ ( tương ứng với
từng đồ vật hoặc tranh ảnh)
-Gíaó viên hoặc một học sinh là trọng tài để đánh giá kết quả.
c.Cách chơi
-Chơi theo từng cặp 2 học sinh hoặc 2 nhóm học sinh ( mỗi nhóm từ 2 đến 4 người
chơi)
-Các đồ vật hoặc tranh ảnh đã được sắp xếp hoặc treo thành 2 nhóm. Mỗi học sinh
( hoặc mỗi nhóm) tham gia trò chơi được phát một bộ thẻ từ ghi tên các đồ vật ( tranh
ảnh). Học sinh ( hoặc nhóm) nào dán đúng và nhanh nhất các tên ( từ) vào đồ vật hoặc
tranh thích hợp thì thắng cuộc.
Trò chơi tìm nhanh từ cùng chủ đề

a.Mục tiêu
-Mở rộng vốn từ, phát huy óc liên tưởng, so sánh
12


-Rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh và cách ứng xử nhanh
b. Chuẩn bi: bảng phụ hoặc giấy nháp
c. Cách tiến hành
Trò chơi có từ 2 đến 4 nhóm, mỗi nhóm có từ 2 đến 4 học sinh tham gia.
- Sau khi giải nghĩa từ ngữ được dùng để gọi tên chủ đề ( ví dụ: đồ dùng học tập là
những dụng cụ của cá nhân dùng để học tập hoặc vật nuôi là những con vật nuôi trong
nhà...), giáo viên nêu yêu cầu:
+ Hãy kể ra những từ gọi tên đồ dùng học tập ( hoặc những từ nói về tình cảm gia
đình..)
+ Từng nhóm ghi lại những từ đó vào bảng phụ hoặc ghi vào giấy nháp để đọc lên. Thời
gian viết khoảng 2-3 phút.
Trò chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa
Trò chơi này giúp học sinh nhận biết nhanh các từ ngữ đồng nghĩa, làm giàu vốn từ ngữ
của học sinh. Trò chơi này được dùng khi dạy về chủ đề học tập tuần 2 sách Tiếng Việt
2 môn Luyện từ và câu tập 1.
a. Chuẩn bi
- Từ 2 đến 4 bộ quân bài có nội dung như nhau, nhưng khác màu để khỏi lẫn( xanh, đỏ,
vàng...), tương tự quân bài trong cỗ tam cúc. Mỗi bộ có 10 hoặc 12 quân bài đã ghi sẵn
các từ.
- 1 bộ quân bài dành cho người cầm cái ( trọng tài) khác màu với mỗi bộ quân bài của
người chơi. Trên mỗi quân bài này có ghi từng từ đồng nghĩa với từ được ghi trên quân
bài của người chơi
- Mỗi quân bài đều được ghi ở cả hai đầu để người chơi dễ nhìn khi cầm bài trên tay
b.. Cách tiến hành
Để thực hiện trò chơi cần thực hiện qua 4 bước sau:

Bước 1: Giới thiệu tên và mục đích của trò chơi: mục đích của trò chơi là học sinh thi
tìm từ đồng nghĩa
Bước 2: chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm 2-4 học sinh. Quản trò là giáo viên và
hai học sinh giúp giáo viên làm trọng tài.
13


-Giáo viên hướng dẫn học sinh chơi:
-Từ 2 đến 4 người chơi. Mỗi người có 1 bộ quân bài như nhau ( 10, 12 quân)
- Trọng tài lật 1 quân bài của mình ( có từ đồng nghĩa với từ trong bộ bài của người
chơi). Những người chơi phải chọn thật nhanh quân bài của mình có từ đồng nghĩa với
quân bài của trọng tài để đánh ra.
-Trọng tài công nhận quân bài đánh ra là từ đồng nghĩa thì người đánh quân bài đó đã
"ăn" , nếu sai thì người đánh quân bài đúng tiếp theo sẽ được " ăn ". Trường hợp 2-3
người cũng ra quân bài đúng thì cũng được 'ăn".
- Đánh hết bộ quân bài, ai có số lượng quân bài được "ăn" nhiều nhất sẽ thắng cuộc.
như vậy, người thắng cuộc nhận ra nhanh, đúng từ đồng nghĩa.
Bước 3: Học sinh thực hiện trò chơi
Bước 4: Giáo viên thay mặt cho tổ trọng tài công bố nhóm tìm được nhiều từ đúng và
chính xác nhất và tuyên dương thưởng cho nhóm tìm được nhiều từ đúng và nhanh.
Các cặp từ đồng nghĩa nói về chủ đề học tập dùng làm bộ bài để chơi và bộ bài để
cầm cái: học tập- học hành, siêng năng - chăm chỉ, vui vẻ - phấn khởi, giảng dạy- dạy
dỗ, bài tập- bài vở, chăm chú- chú ý, lễ phép- lễ độ, thông minh- sáng dạ, vâng lời- nghe
lời, kiên nhẫn - kiên trì....
Trò chơi tìm nhanh từ trái nghĩa
Giúp học sinh nhận biết nhanh từ trái nghĩa, làm giàu vốn từ của học sinh luyện trí
thông minh, nhanh mắt nhanh tay
Cách chuẩn bi và cách chơigiống như cách chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa
Áp dụng trò chơi này khi dạy bài 1 tuần 16 luyện từ và câu lớp 2 tập 1
Các cặp từ trái nghĩa chỉ hoạt động, tính chất dùng làm bộ bài để chơi: tốt- xấu,

ngoan -hư, nhanh - chậm, trắng - đen, cao - thấp, khỏe - yếu, đẹp - xấu, ngắn - dài...
Trò chơi thi đoán từ: Trò chơi này giúp cho học sinh có kĩ năng đoán nhanh một từ khi
biết nghĩa hoặc một số dấu hiệu hình thức của từ đó. Củng cố về nghĩa từ và mở rộng
vốn từ ngữ cho học sinh.
Để thực hiện trò chơi này cần chuẩn bi:
14


- Một số câu đố về từ. Mỗi phiếu ghi một câu đố theo thứ tự 1,2,3...làm các bộ phiếu
giống nhau đủ cho số nhóm chơi, phiếu khổ to ghi sẵn kết quả các từ ( ghi theo số thứ tự
trong phiếu câu đố), giấy, bút để ghi kết quả
- Giáo viên cùng 2,3 học sinh làm trọng tài, ghi điểm các nhóm tham gia chơi.
Cách tiển hành: Giáo viên lập 4 nhóm chơi ( mỗi nhóm 4,5 học sinh), nêu yêu cầu:
Sau khi nhận 2 bộ phiếu ghi các câu đố về từ, các nhóm thảo luận với nhau để giải câu
đố, tìm từ và ghi kết quả vào tờ giấycủa nhóm.( nhớ ghi đúng từ theo số thứ tự trên
phiếu.
- Hết 3 phút, các nhóm dừng lại, lần lượt đọc kết quả để tổ trọng tài đánh giá nhận xét
và gắn một bông hoa hoặc một ngôi sao cho mỗi từ ghi đúng.
Ví dụ: dạy chủ đề trường học tôi có thể đưa ra các câu đố cho học sinh giải như sau:
-Viên màu trắng dùng để viết lên bảng.
- Nơi em đến học hàng ngày.

(là gì?)

(là gì?)

-Tờ gì mỏng dùng để viết chữ lên. (là gì?)
- Cột gì cao trước sân trường
Chỉ mang một lá huy hoàng tung bay
Đầu tuần buổi sáng thứ hai

Cả trường, cả lớp ai ai cũng chào? ( là gi?)
Khi dạy mở rộng vốn từ về Sông biển tuần 25 có thể chơi trò chơi đố vui tìm từ như
sau :
Yêu cầu học sinh trả lời nhanh loài vật sống dưới nước:
Chữ C cộng với chữ A
Tôi thêm dấu sắc cho ra chữ gì? Cá
Hay:
Chữ cà nếu bỏ dấu huyền
Thay vào dấu sắc đọc liền lớp nghe
Thông qua trò chơi học tập, học sinh được phát triển cả về trí tuệ, thể lực, nhân cách
giúp học sinh phát triển về ngôn ngữ, mở rộng được nhiều vốn từ, rèn cho học sinh
15


tính nhanh nhẹn, luyện trí thông minh và cách ứng xử nhanh, làm giảm tính chất căng
thẳng của giờ học. Tạo hứng thú học tập cho học sinh
Nói tóm lại: Để có được những giờ học đạt hiệu quả thì cần các tiêu chí sau:
- Mỗi người giáo viên cần phải lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp với
đặc điểm tình hình cụ thể của lớp mình.
- Khi lựa chọn phương pháp trò chơi vào dạy học phân môn Luyện từ và câu
giáo viên cần phải lựa chọn trò chơi nào phù hợp với nội dung bài dạy và đưa trò
chơi vào đúng thời điểm nhất đinh trong giờ học để làm cho học sinh hứng thú học
tập vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung vào các nội dung khác của bài học
một cách có hiệu quả.
- Cách tổ chức như thế nào cho khoa học và hiệu quả không nên lạm dụng quá
phương pháp trò chơi vào dạy học dẫn đến cả một tiết học, học sinh luôn trong tâm
trạng thái quá. Mặt khác giáo viên tổ chức trò chơi phải khéo léo nếu không học
sinh sẽ cổ vũ mạnh mẽ quá mức cần thiết. Tất cả những điều đó sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến mạch kiến thức trong bài và gây ồn ào cho các lớp học xung quanhbên
cạnh.

-Mục đích trò chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc một phần của bài
học.
- Hình thức chơi phải đa dạng phong phú, giúp học sinh được thay đổi các hoạt
động học tập trên lớp, giúp các em phối hợp được các hoạt động trí tuệ với các hoạt
động vận động.
- Luật chơi phải đơn giản để học sinh dễ nhớ, dễ chơi. Cần đưa ra cách chơi có
nhiều em tham gia để tăng cường kĩ năng học tập hợp tác.
- Các dụng cụ chơi cần đơn giản, dễ làm hoặc dễ tìm kiếm.
- Chọn quản trò chơi có năng lực phù hợp với yêu cầu của trò chơi.
3.Kết quả
Để có được kết quả trong quá trình nghiên cứu, tôi tiến hành dạy thử nghiệm ở
lớp 2A để từ đó đánh giá được kết quả học tập của học sinh.
16


Qua việc áp dụng phương pháp trò chơi vào giảng dạy phân môn Luyện từ và
câu đã nêu ở trên, tôi thấy chất lượng học tập phân môn Luyện từ và câu của các em
đã được nâng lên một cách rõ rệt. Học sinh rất hứng thú và tiếp thu bài một cách chủ
động. Các em thường xuyên chơi các trò chơi học tập đã mang lại hiệu quả cao.
Chất lượng các bài thực hành được các em vận dụng kiến thức chắc chắn hơn.
Sang đến học kì 2, học sinh lớp tôi đã học tập rất tiến bộ, các em rất thích học
phân môn Luyện từ và câu. Đa số các em biết nói và viết thành câu biết sử dụng từ
để đặt câu theo chủ đề, chủ điểm.
Sau 7 tháng thực nghiệm, tôi thường xuyên áp dụng tổ chức phương pháp trò
chơi vào dạy phân môn Luyện từ và câu, kết quả học tập của học sinh lớp 2A như
sau:
THỜI
GIAN

NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT


KẾT QUẢ
Số
%
lượng
Học sinh chú ý tiếp thu bài
25 em
96,15
Học sinh thường xuyên phát biểu xây dựng bài 20 em
76,9
THÁNG
Học sinh không làm việc riêng trong giờ học
25 em
96,15
3 / 2017
Học sinh hiểu nội dung bài học
25 em
96,15
Học sinh biết vận dụng kiến thức để giải quyết 25 em
96,15
các bài tập theo yêu cầu
Nhìn vào bảng kết quả trên, cho thấy cách tổ chức cho học sinh các trò chơi

vào trong các tiết dạy phân môn Luyện từ và câu tôi thấy chất lượng học tập của học
sinh tăng lên rõ rệt qua từng tuần. Các em yêu thích học môn Luyện từ và câu hơn.
Các em rất hứng thú học môn Tiếng Việt, trong giờ học các em chăm chú nghe giảng,
tự tin trong học tập, hăng hái phát biểu xây dựng bài. Các em chủ động phát huy hết
năng lực, tự hoàn thành công việc theo yêu cầu bài tập một cách dễ dàng
Mặt khác, qua quá trình dạy thực nghiệm trên lớp, tôi thấy giờ học diễn ra sôi nổi.
Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Song điều đáng nói hơn cả là hiện tượng

nói câu không rõ nghĩa, không trọn ý không còn nữa. Học sinh đã biết dùng các từ
ngữ giàu hình ảnh, câu nói khá sinh động, khi nói về sự vật xung quanh mình.
17


Nhờ vào sự tận tình và luôn luôn đổi mới phương pháp dạy học cũng như sự
tổ chức hình thức dạy học phù hợp theo tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học của
giáo viên mà chất lượng học sinh ngày càng tiến bộ, giúp các em học tập tốt, mạnh
dạn và tự tin trước đám đông.
Từ đó củng cố những kiến thức đã học, học sinh còn được mở rộng và tích
cực hóa vốn từ ngữ, phát triển tư duy, nâng cao hiểu biết về đời sống, góp phần hình
thành nhân cách con người mới từ đó các em rút ra được những bài học sâu sắc.
Điều đó chứng tỏ việc thường xuyên đưa trò chơi vào tiết học tạo cho không
khí lớp học vui tươi thoải mái không gò ép, khô khan cứng nhắc theo hướng đã trình
bày ở trên đã đem lại kết quả rất khả quan, cần được phát triển để thực sự nâng cao
chất lượng học phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2A nói riêng và khối lớp
học khác nói chung.
Tôi tự nhận thấy mình đã tìm được hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho việc
nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu. Tôi thấy mỗi giờ dạy bản
thân mình rất say mê, hứng thú trong việc rèn cho các em học tập. Cho nên tiết học
bây giờ trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn so với trước.
Đầu năm học, khi mới bước vào học phân môn Luyện từ và câu, có không ít
học sinh lớp tôi rất sợ học phân môn này. Nhưng dần dần với sự động viên, dìu dắt
của tôi, số lượng các em sợ học môn này ngày càng giảm dần. Thay vào đó, học sinh
rất mong muốn, phấn khởi chờ đón giờ Luyện từ và câu. Học sinh lớp tôi đã ý thức
hơn trong các giờ học, học sinh tự tin và hứng thú học tập. Chất lượng học có chuyển
biến rõ rệt. Đó chính là những động lực thúc đẩy tôi ngày càng nỗ lực phấn đấu hơn
nữa trong sự nghiệp trồng người đầy khó khăn thử thách này.

18



Phần C: KẾT LUẬN
I .Kết luận
Đứng trước vai trò, vi trí, tầm quan trọng của việc dạy kĩ năng nghe, đọc, nói,
viết cho HS Tiểu học nói chung và đối với học sinh lớp hai nói riêng, tôi thấy việc
hướng dẫn cho các em nắm được phương pháp học các phân môn trong môn Tiếng
Việt là hết sức cần thiết . Học không chỉ là học những tri thức về ngôn ngữ mà quan
trọng hơn là bồi dưỡng và phát triển năng lực nghe, đọc, nói, viết của mỗi người.
Qua thời gian nghiên cứu đề tài, tôi nhận thấy phương pháp tổ chức trò chơi
học tập trong phân môn Luyện từ và câu mang lại những kết quả tốt đẹp. giáo viên sử
dụng linh hoạt các phương pháp và kĩ thuật dạy học nên đã phát huy được tính tích
cực chủ động, tinh thần hợp tác, chia sẻ để cùng nhau tìm tòi, khám phá kiến thức
trong học sinh. Học sinh luôn tự lập, tự chiếm lĩnh tiếp thu kiến thức tốt hơn, khắc
sâu được kiến thức mở rộng được vốn từ, và biết đặt câu tốt hơn. Các em không cảm
thấy tiết học khô khan, nhàm chán trong giờ học Luyện từ và câu nữa. Rèn cho các
em có sự chú ý cao trong giờ học. Chât lượng học tập ngày càng cao.
Trên đây là kinh nghiệm của tôi, nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong
phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học. Song tôi rất mong muốn các bạn đồng nghiệp
tìm tòi, sáng tạo đúc kết ra những sáng kiến kinh nghiệm quý báu để góp phần nâng
cao chất lượng giờ dạy.
II. Đề xuất và kiến nghị
a. Đề nghị Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục:
Trang bi thêm tranh ảnh, mẫu vật băng hình có nội dung theo các bài học để
giờ dạy đạt kết quả cao hơn.
b. Đề xuất với ban giám hiệu:
Nhà trường nên trang bi thêm các đồ dùng cho tất cả các khối lớp, mua thêm
một số đồ dùng cần thiết để phục vụ cho việc làm đồ chơi hóa trang hay các vật
dụng rẻ tiền để làm trò chơi phục vụ cho việc tổ chức trò chơi cho các em.
c. Đối với giáo viên:

19


Nâng cao hiệu quả các giờ chuyên môn, khuyến khích giáo viên trao đổi kế
hoạch bài học trong tổ chuyên môn, cùng thường xuyên sử dụng phương pháp trò
chơi vào dạy không riêng gì phân môn Luyện từ và câu mà còn vận dụng cả
phương pháp trò chơi vào các môn học khác để gây hứng thú học tập cho học sinh,
nâng cao chất lượng dạy và học.
Giáo viên phải hết sức nhiệt tình, tận tụy với công việc. Phải quan tâm sâu sắc
đến mọi đối tượng học sinh. Phải thường xuyên đổi mới phương pháp và hình thức
dạy học sao cho phù hợp với mọi đối tượng học sinh.
d. Đối với gia đình
Tôi muốn đề xuất với gia đình học sinh, mỗi phụ huynh phải là tấm gương
sáng cho con mình học tập. Phụ huynh cần quan tâm đến con cái nhiều hơn nữa, nhắc
nhở con chăm chỉ học bài. Mua sắm đầy đủ thiết bi, đồ dùng học tập cho các em. Đặc
biệt phải thường xuyên liên lạc với nhà trường để cùng nhau giáo dục con em mình
ngày một hoàn thiện hơn về đạo đức, tri thức đạt kết quả tốt hơn.
Rất mong Ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp góp ý để tôi hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!
EaM’nang , ngày 10 tháng 3 năm 2017
Người viết
Nguyễn Thị Xuân

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.
4.

Phương pháp dạy học tiếng việt tập 1 – Nhà xuất bản giáo dục năm 1997
Sách giáo viên lớp 2 tập 1, 2 - Nhà xuất bản giáo dục .
Sách giáo khoa lớp 2 Tập 1, 2 – Nhà xuất bản giáo dục .
Trò chơi học tập Tiếng Việt 2- Trần Mạnh Hưởng chủ biên và do Nhà xuất bản
giáo dục phát hành.

21


Nhận xét đánh giá của ban giám hiệu
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

22



×