Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Vị trí, vai trò của hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của tòa án từ thực tiễn tòa án nhân dân tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.26 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒ THỊ MINH HẠNH

VÞ TRÝ, VAI TRß CñA HéI THÈM NH¢N D¢N
TRONG HO¹T §éNG XÐT Xö - Tõ THùC TIÔN TOµ ¸N NH¢N D¢N
TØNH THANH HãA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒ THỊ MINH HẠNH

VÞ TRÝ, VAI TRß CñA HéI THÈM NH¢N D¢N
TRONG HO¹T §éNG XÐT Xö - Tõ THùC TIÔN TOµ ¸N NH¢N D¢N
TØNH THANH HãA
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ CÔNG GIAO

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hồ Thị Minh Hạnh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA HỘI THẨM
NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN
NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM .......................................................................... 7
1.1.

Lý luận về vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam ................................. 7


1.1.1. Khái niệm Hội thẩm nhân dân .............................................................. 7
1.1.2. Nguồn gốc, ý nghĩa của chế định Hội thẩm trong hoạt động xét xử
của Toà án nhân dân ở Việt Nam .......................................................... 9
1.2.

Pháp luật về vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam từ trước tới nay ... 12

1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển quy định về Hội thẩm nhân dân
trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam .................. 12
1.2.2. Vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân theo pháp luật hiện hành của
Việt Nam ............................................................................................. 16
1.3.

So sánh chế định Hội thẩm nhân dân của Việt Nam với chế độ
Bồi thẩm đoàn ở các nước theo hệ thống thông luật, mà đặc
trưng là Hoa Kỳ .................................................................................. 33

Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 37
Chương 2: THỰC TRẠNG VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA HỘI THẨM NHÂN
DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN
DÂN TỈNH THANH HÓA .............................................................................38


2.1.

Khái quát cơ cấu tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân
tỉnh Thanh Hoá ................................................................................. 38


2.2.

Thực trạng công tác Hội thẩm nhân dân ở Toà án nhân dân
tỉnh Thanh Hóa ................................................................................. 44

2.2.1. Về công tác lựa chọn và bầu Hội thẩm ............................................... 44
2.2.2. Về tổ chức ........................................................................................... 45
2.2.3. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ ..................... 47
2.2.4. Về thực hiện chế độ với Hội thẩm nhân dân ....................................... 49
2.2.5. Về công tác tư tưởng ........................................................................... 50
2.2.6. Về công tác khen thưởng .................................................................... 51
2.2.7. Về chế độ họp và báo cáo của Hội thẩm nhân dân ............................. 52
2.2.8. Về hoạt động xét xử ............................................................................ 54
2.3.

Đánh giá chung về vị trí, vai trò của Hội thẩm trong hoạt
động xét xử ở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa ........................... 59

Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 63
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
TỪ THỰC TIỄN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ ......... 64
3.1.

Quan điểm bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân
trong hoạt động xét xử của Tòa án .................................................. 64

3.1.1. Bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân cần phải gắn với
nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN.............................................................................. 64

3.1.2. Bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân là trách nhiệm của
cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp ...................................................... 65
3.1.3. Bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân phải phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương ........................................... 66
3.1.4. Bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân phải vừa kế thừa
truyền thống pháp lý của Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế hội
nhập quốc tế ........................................................................................ 66


3.1.5. Bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân phải kết hợp các
giải pháp có tính toàn diện, hệ thống .................................................. 67
3.2.

Các giải pháp bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân
đối với hoạt động xét xử của Tòa án ............................................... 67

3.2.1. Giải pháp nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của HTND ................ 68
3.2.2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật ....................................................... 68
3.2.3. Giải pháp về tăng cường tiêu chuẩn lựa chọn Hội thẩm ..................... 70
3.2.4. Giải pháp nâng cao độ đãi ngộ đối với HTND ................................... 72
3.2.5. Giải pháp về quản lý, đánh giá, giám sát đối với Hội thẩm ................ 73
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
HĐXX: Hội đồng xét xử
HĐND: Hội đồng nhân dân
HTND: Hội thẩm nhân dân

TAND: Tòa án nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Tòa án là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam, thực hiện xét xử các
vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao
động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Xét
về thủ tục tố tụng, Tòa án thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm bắt buộc phải có sự
tham gia của Hội thẩm nhân dân (HTND).
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 49-NQ/TW về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó chỉ rõ Tòa án là trung
tâm của cải cách tư pháp, mà trọng tâm là hoạt động xét xử phải được tiến
hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN),
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung
thành với Tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật,
tôn trọng các quy tắc của cuộc sống XHCN, phòng ngừa và chống các tội
phạm và các việc làm vi phạm pháp luật, xây dựng con người mới XHCN. Do
vậy, việc phát huy tốt vai trò của HTND trong hoạt động xét xử của Tòa án là
một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng xét xử của
Tòa án trong quá trình cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, Nhà nước, trong thời
gian qua, HTND trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã không ngừng được tăng
cường về số lượng, nâng cao về chất lượng, góp phần tích cực trong việc nâng
cao hiệu quả xét xử của các tòa án trong tỉnh. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy,


1


trong hoạt động xét xử của tòa án các cấp tỉnh và huyện ở Thanh Hóa thời
gian qua, đội ngũ HTND cũng bộc lộ những hạn chế về trình độ hiểu biết
pháp luật, trách nhiệm và kỹ năng khi tham gia phiên tòa. Chất lượng của đội
ngũ HTND vẫn chưa thực sự ngang tầm với nhiệm vụ chính trị được giao.
Những hạn chế của đội ngũ HTND là một trong những nguyên nhân ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử của các cấp tòa án tỉnh Thanh Hoá.
Cùng với quá trình hội nhập, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
các quan hệ xã hội trên thực tế ngày càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến
tranh chấp, các vụ án ngày càng trở nên phức tạp, khó giải quyết, vì vậy, nếu
thẩm phán, HTND không có tư duy pháp lý vững chắc, không được đào tạo
bài bản thì khó có thể đáp ứng được yêu cầu chuyên môn ngày càng cao trong
việc xét xử. Những thách thức này mang tính khách quan, đòi hỏi hệ thống
toà án phải đổi mới cả về tổ chức và nhân sự để có thể thích ứng với tình hình
mới. Tuy nhiên, trong thực tế sự thích ứng của các toà án ở nước ta còn chậm,
thể hiện ở năng lực của đội ngũ thẩm phán và hội thẩm còn hạn chế, dẫn tới
hậu quả là có không ít bản án, quyết định của Tòa án oan sai hoặc chưa thấu
tình đạt lý, làm ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích của Nhà nước, của xã
hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Hệ thống toà án của
tỉnh Thanh Hóa cũng không nằm ngoài thực trạng chung đó. Điều này đặt ra
yêu cầu cần phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp khắc phục tình hình, trong
đó việc nâng cao năng lực của HTND trong hoạt động xét xử là một trong
những vấn đề rất quan trọng.
Trước bối cảnh trên, là một cán bộ đang làm việc trong hệ thống toà
án của tỉnh Thanh Hóa, học viên quyết định chọn đề tài “Vị trí, vai trò của
Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử - từ thực tiễn TAND tỉnh
Thanh Hóa” để thực hiện luận văn thạc sĩ, với mong muốn góp phần tìm
ra các giải pháp nâng cao năng lực của đội ngũ HTND ở quê hương mình

trong thời gian tới.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến chế định HTND, trong thời gian qua ở nước ta đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Một số công trình có thể kể như:
Luận văn “Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự” của Trần Thị Nhung San, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 1995; Luận văn “Nguyên tắc thẩm phán, HTND độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật” của Hoàng Hồng Phương, Khoa Luật- Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2011; Luận văn “Chế định HTND trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam” của Hoàng Trí Lý, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015; Luận
văn “Nâng cao vai trò của thẩm phán và HTND của TAND địa phương trong
xét xử vụ án hình sự ” của Bùi Thị Huệ, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2015; Các luận án tiến sĩ: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư
pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của Trần Huy
Liệu, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; “Đổi mới tổ chức và hoạt động của
TAND ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” của Lê Thành Dương, Viện
nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2002; “Những vấn đề lý luận và
thực tiễn về cải cách hệ thống Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng
nhà nước pháp quyền” của Đỗ Thị Ngọc Tuyết, Khoa Luật- Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2006. Các bài viết “Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và
HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của Trần Văn Kiểm, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Số 1(186), 2011; “Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động của tòa án” của Đỗ Thị Phương, Đề tài
nghiên cứu khoa học, Viện khoa học xét xử- TAND Tối cao năm 2012.
Những công trình nghiên cứu kể trên đã cung cấp một khối lượng kiến

thức, thông tin lớn về đề tài. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quý báu cho học
viên thực hiện luận văn này. Mặc dù vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu

3


đã nêu đều chưa cập nhật những đổi mới trong pháp luật và thực tiễn về vai
trò của HTND trong hoạt động tố tụng trong thời gian gần đây. Thêm vào đó,
chưa có công trình nào đề cập riêng về thực trạng vị trí, vai trò của HTND
trong hoạt động xét xử ở TAND tỉnh Thanh Hóa. Vì vậy, luận văn này vẫn
cần thiết và có giá trị về lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là phân tích thực trạng vị trí, vai trò của HTND
trong thực tiễn hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hóa, từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp hoàn thiện các quy
định pháp luật về HTND ở nước ta đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà
nước pháp quyền và hội nhập quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, các nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về vị trí, vai trò của
HTND trong hoạt động xét xử ở nước ta.
- Khảo sát, phân tích thực trạng vị trí, vai trò của HTND trong thực tiễn
hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hóa trong khoảng 5 năm trở lại đây,
chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật về HTND ở nước ta đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp
quyền và hội nhập quốc tế từ thực tiễn xét xử của TAND tỉnh Thanh Hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, pháp lý về
vị trí, vai trò của HTND từ thực tiễn hoạt động xét xử của TAND tỉnh
Thanh Hóa.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý
và thực tiễn liên quan đến vị trí, vai trò của HTND trong thực tiễn hoạt động
xét xử của TAND, không đi sâu nghiên cứu các vấn đề khác về HTND, cũng
như về các chức danh tư pháp khác của TAND (thẩm phán, thư ký toà án..).
Về không gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng vị trí, vai trò
của HTND trong thực tiễn hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hóa,
không mở rộng đến các cấp toà án khác ở Thanh Hoá cũng như đến TAND ở
các địa phương khác.
Về thời gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng vị trí, vai trò
của HTND trong thực tiễn hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hóa trong
khoảng 5 năm trở lại đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng, Nhà nước Việt Nam về tổ chức và hoạt động của TAND. Tác giả đồng
thời vận dụng một số lý thuyết về pháp quyền, kiểm soát quyền lực, độc lập tư
pháp và nhân quyền để làm cơ sở cho việc phân tích, giải quyết các câu hỏi
nghiên cứu của đề tài.
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của
khoa học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Cụ thể:
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu hiện
có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp lý liên quan

đến vị trí, vai trò của HTND trong thực tiễn hoạt động xét xử của TAND ở
nước ta hiện nay (ở Chương I).
- Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu,
báo cáo chuyên môn của TAND Tối cao, TAND tỉnh Thanh Hoá và phương
pháp quan sát thực tế để đánh giá thực trạng vị trí, vai trò của HTND trong

5


thực tiễn hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hóa trong khoảng 5 năm trở
lại đây (ở Chương II).
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các quan
điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về HTND ở nước ta
đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế từ
thực tiễn xét xử của TAND tỉnh Thanh Hoá (ở Chương III).
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về vị trí, vai trò của HTND
trong hoạt động xét xử của TAND được thực hiện ở tỉnh Thanh Hoá từ trước
tới nay. Luận văn cũng là một trong số không nhiều công trình nghiên cứu
chuyên sâu và toàn diện từ thực tiễn cơ sở về chủ đề này đã được thực hiện ở
nước ta. Vì vậy, luận văn cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm và
đề xuất mới có giá trị tham khảo với việc nâng cao hiệu quả hoạt động của
HTND ở tỉnh Thanh Hoá và hoàn thiện các quy định pháp luật về HTND ở
nước ta trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo
cho việc giảng dạy, nghiên cứu chuyên ngành luật hiến pháp và luật hành
chính ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác của nước ta.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:

- Chương 1: Cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của Hội thẩm Nhân dân
trong hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam hiện nay
- Chương 2: Thực trạng vị trí, vai trò của Hội thẩm Nhân dân trong
hoạt động xét xử của TAND tỉnh Thanh Hoá.
- Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm vị trí, vai trò của Hội thẩm
Nhân dân trong hoạt động xét xử từ thực tiễn TAND tỉnh Thanh Hoá.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA
HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA
TOÀ ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
1.1. Lý luận về vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm Hội thẩm nhân dân
HTND là một vị trí có vai trò quan trọng trong hoạt động xét xử của hệ
thống Tòa án của Việt Nam. Để làm rõ các vấn đề lý luận về HTND, trước
tiên cần nhận diện khái niệm HTND.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Hội thẩm nhân dân” là “người do Hội
đồng nhân dân bầu ra trong một thời gian nhất định cùng với Thẩm phán làm
nhiệm vụ xét xử các vụ án xảy ra ở địa phương” [39, tr.159]. Khái niệm này
cho thấy cơ chế pháp lý để hình thành nên HTND (thông qua hình thức bầu),
thời gian thực hiện thẩm quyền của HTND (không kéo dài vĩnh viễn mà chỉ
trong một thời hạn nhất định) và chức năng của HTND (cùng với Thẩm phán
làm nhiệm vụ xét xử). Tuy nhiên, khái niệm này vẫn chưa thực sự toàn diện,
chưa bao quát tất cả các thuộc tính của HTND, cụ thể là: Về cơ chế hình
thành HTND, ngoài thông qua cơ chế “bầu” thì HTND còn được xác lập
thông qua cơ chế “cử”; Về chủ thể trao quyền cho HTND, không chỉ có Hội

đồng nhân dân, mà còn có thể được thực hiện bởi cơ quan nhà nước khác
(thông qua cơ chế cử)…
Văn bản pháp luật đầu tiên quy định riêng về thẩm phán và hội thẩm
TAND là Pháp lệnh số 02/2002/PL-UBTVQH ngày 04 tháng 10 năm 2002
của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tiếp theo đó, ngày 19/02/2011, Ủy ban
thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 14/2011/UBNTVQH12 sửa đổi,

7


bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và HTND số 02/2002/PLUBTVQH11. Ngày 18/12/2013, Văn phòng Quốc hội ban hành Văn bản hợp
nhất 22/VBHN-VPQH hợp nhất Pháp lệnh Thẩm phán và HTND. Theo quy
định tại Khoản 2 Điều 1 Văn bản số 22/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013 của
Văn phòng Quốc hội thì: “Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định
của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa
án”. Trong thực tế, thuật ngữ “Hội thẩm” theo Văn bản số 22/VBHN-VPQH
ngày 18/12/2013 của Văn phòng Quốc hội bao gồm cả “HTND” và “Hội
thẩm quân nhân”, tuy nhiên trong văn bản chưa nêu được đặc điểm riêng biệt
của “HTND” và “Hội thẩm quân nhân”.
Luật Tổ chức TAND năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/6/2015 đã thay
thế Pháp lệnh số 14/2011/UBNTVQH12 ngày 19/02/2011 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán
và HTND và cả Văn bản hợp nhất số 22/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013 của
Văn phòng Quốc hội, theo đó khái niệm HTND cũng được quy định rõ ràng
hơn. Luật Tổ chức TAND năm 2015 quy định:
Chế độ bầu HTND được thực hiện đối với các TAND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương. Chế độ cử Hội thẩm quân nhân
được thực hiện đối với các Tòa án quân sự quân khu và tương
đương, các Tòa án quân sự khu vực [25, Điều 7].

HTND thuộc hệ thống TAND được hiểu là người được bầu theo quy
định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của
TAND. Hội thẩm quân nhân được hiểu là người được cử theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án quân sự. Như vậy, cùng tham gia hoạt động xét xử nhưng HTND và
Hội thẩm quân nhân khác nhau về chế độ bầu và cử (HTND được bầu để

8


tham gia hoạt động xét xử tại TAND, Hội thẩm quân nhân được đề cử để
tham gia hoạt động xét xử tại Tòa án quân sự). Trong phạm vi luận văn của
mình, tác giả chỉ nghiên cứu về vị trí, vai trò của HTND đối với hoạt động xét
xử của TAND theo quy định của pháp luật hiện hành.
Việc cụm từ “HTND” được quy định tại Điều 7 Luật Tổ chức TAND
năm 2014 thay thế cụm từ “Hội thẩm” được quy định tại Pháp lệnh Thẩm
phán và Hội thẩm và các văn bản trước đây đã thể hiện được nội hàm của khái
niệm “HTND”, nhằm phân biệt HTND không phải là người thuộc biên chế
Tòa án mà là người được bầu ra thông qua Hội đồng nhân dân.
Từ các phân tích trên, có thể đưa ra một khái niệm khái quát đó là:
HTND là chức danh được bầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ
xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án.
1.1.2. Nguồn gốc, ý nghĩa của chế định Hội thẩm trong hoạt động xét
xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam
HTND là một chế định có vai trò quan trọng trong hoạt động xét xử của
TAND ở Việt Nam. Chế định này bắt nguồn từ và là sự thể hiện tư tưởng “lấy
dân làm gốc, nhằm bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân
trong hoạt động xét xử của Tòa án” [3, tr.16]. Sự hiện diện của HTND trong
hoạt động xét xử của Tòa án thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân thông qua
việc khẳng định rằng, Nhân dân phải có tiếng nói của mình trong hoạt động tư

pháp. Khi tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án, HTND - đại diện của
các giới, các ngành, các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong nhân dân – giúp
phản ánh một cách khách quan suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân về
vụ việc. HTND khi tham gia xét xử sẽ đưa những tâm tư, nguyện vọng của
quần chúng nhân dân vào trong mỗi bản án để có được phán quyết vừa đúng
pháp luật, vừa được xã hội đồng tình ủng hộ.
Như vậy, nhìn từ góc độ bản chất Nhà nước, hoạt động xét xử không

9


phải là hoạt động của một cá nhân mà là hoạt động của tập thể, không chỉ là
hoạt động của cá nhân Thẩm phán mà còn có sự tham gia, giám sát của nhân
dân thông qua những người đại diện cho họ, đó là HTND. Chế định HTND,
vì vậy, thể hiện bản chất nhà nước là nhà nước của dân, do dân, vì dân, trong
đó nhân dân làm chủ nhà nước, nắm quyền lực nhà nước, nhân dân được tham
gia vào các hoạt động của nhà nước, trong đó có hoạt động xét xử.
Ở khía cạnh nhân quyền và dân chủ, chế định Hội thẩm là một bảo đảm
để các quyền cơ bản của công dân được tôn trọng khi đại diện của họ được
tham gia vào các hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt động xét xử của
Tòa án, qua đó “đưa tiếng nói từ phía xã hội vào trong quá trình xét xử của
Tòa án” [6]. Chế định HTND không chỉ giúp nhân dân tham gia có hiệu quả
vào hoạt động xét xử mà còn giúp nhân dân kiểm tra hoạt động áp dụng pháp
luật và đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Trong công tác xét xử, muốn
việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của quần
chúng nhân dân thì các thành viên của Hội đồng xét xử không chỉ là người có
trình độ cao về pháp luật mà còn phải có kiến thức và kinh nghiệm sống, kinh
nghiệm xã hội sâu sắc. HTND đáp ứng được yêu cầu đó do họ là những người
làm trong mọi ngành nghề, đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã
hội nghề nghiệp, là những người sống và làm việc tại cơ sở, có uy tín trong xã

hội, được quần chúng tín nhiệm. Không những vậy, trong nhiều trường hợp,
HTND còn có kiến thức sâu về một số lĩnh vực như y học, tâm lý xã hội, quản
lý kinh tế... Với vốn hiểu biết thực tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, với sự
am hiểu về phong tục tập quán ở địa phương, Hội thẩm sẽ bổ sung các kiến
thức thực tiễn cho Thẩm phán, giúp cho quá trình xét xử đúng đắn và hiệu
quả. Hội thẩm có đời sống gần gũi, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân nên
có nhiều vụ án, họ hiểu rõ tình hình, hoàn cảnh cũng như nguyên nhân vụ án.
HTND sẽ thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, họ sẽ đưa tiếng nói từ

10


phía xã hội vào quá trình xét xử, giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan,
phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân. Mặt khác, xuất phát từ
việc tiếp xúc và thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân,
nắm bắt được dư luận xã hội, thông qua công tác tuyên truyền, hòa giải,
HTND góp phần đưa pháp luật đi vào thực tiễn, có sức sống trong thực tiễn.
Thông qua việc tham gia xét xử, HTND còn góp phần tăng cường mối
quan hệ giữa Tòa án với nhân dân. Tại hội nghị học tập của cán bộ ngành tư
pháp năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Trong công tác xét xử phải
công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không chỉ giới hạn
hoạt động của mình trong khung Tòa án mà phải gần dân, hiểu dân, giúp
dân, học dân…”. Thông qua Hội thẩm, công tác xét xử của Tòa án đến với
nhân dân, vì thế nhân dân hiểu và thông cảm với công tác của Tòa án. Cũng
thông qua hoạt động tham gia xét xử của HTND sẽ giúp phản ánh khách quan
cách nhìn nhận về sự kiện, vụ việc từ suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân
dân, từ đó Tòa án có thể nắm bắt được những vướng mắc, suy nghĩ, tình cảm
của quần chúng nhân dân. Một phán quyết của Tòa án có thể sẽ nhận được sự
đồng tình của dư luận nhưng cũng có thể sẽ bị phản ứng, thắc mắc của dư
luận. Như vậy, thông qua chế định HTND, công tác xét xử của Tòa án vừa

góp phần nâng cao tinh thần tự giác, tôn trọng và bảo vệ pháp luật của nhân
dân, lại vừa chịu sự giám sát của nhân dân.
Qua việc trực tiếp tham gia xét xử, HTND cũng sẽ giúp Tòa án thực
hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân. Là
những người trực tiếp tham gia quá trình giải quyết vụ án, HTND giúp Tòa án
tuyên truyền về kết quả xét xử, phân tích rõ cơ sở áp dụng pháp luật về việc
giải quyết vụ án, từ đó góp phần vào việc phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật
của công dân vào đóng vai trò to lớn trong công tác tuyên truyền, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Trong thực tế, với kiến thức, kinh

11


nghiệm khi tham gia xét xử, nhiều HTND còn đóng vai trò tích cực và hiệu
quả vào công tác hòa giải những mâu thuẫn, tranh chấp của công dân tại nơi
họ làm việc, sinh sống. Bằng vai trò cá nhân, nhiều HTND đã và đang đóng
góp có ý nghĩa vào việc giữ gìn “tình làng nghĩa xóm”, ổn định xã hội, phòng
chống tội phạm ở các khu dân cư.
1.2. Pháp luật về vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam từ trước tới nay
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển quy định về Hội thẩm nhân
dân trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam
1.2.1.1. Giai đoạn 1945 đến 1975
Cách mạng tháng Tám thành công, 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra một Nhà nước kiểu mới- Nhà
nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở Việt Nam. Trong nhà nước
kiểu mới đó, tòa án- cơ quan thực hiện quyền xét xử - được xác định là “một
cơ quan trọng yếu của chính quyền” [6].
Văn bản pháp luật đầu tiên ghi nhận sự tham gia của nhân dân trong
hoạt động xét xử của Tòa án ở Việt Nam (có tên gọi là Phụ thẩm nhân dân) là

Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946. Điều thứ 17- Mục B- Sắc lệnh này quy định:
“Về dân sự và thương sự, Chánh án xử một mình. Những khi xử các việc tiểu
hình phải có thêm hai viên Phụ thẩm nhân dân góp ý kiến”. Sắc lệnh cũng có
những quy định về quyền và nghĩa vụ của Phụ thẩm nhân dân khi tham gia
hoạt động xét xử. Mặc dù vậy, trong Sắc lệnh này, Phụ thẩm nhân dân mới
chỉ có quyền biểu quyết những việc tiểu hình mà không được tham gia giải
quyết các việc dân sự và thương sự. Các Phụ thẩm nhân dân cũng không được
xem hồ sơ trước khi phiên tòa. Mặc dù được Chánh án hỏi ý kiến về tội trạng
của các phạm nhân và về hình phạt, nhưng Chánh án vẫn là người tự quyết
định vụ việc, ý kiến của Phụ thẩm nhân dân chỉ là tham khảo. Nói tóm lại, vai

12


trò của Phụ thẩm nhân dân tại Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 còn mờ nhạt,
mang đậm tính hình thức.
Ngày 09/11/1946, Quốc hội Khoá I thông qua bản Hiến pháp đầu tiên
của nước ta, theo đó hệ thống toà án được tổ chức thành: Tòa án Tối cao, các
Tòa phúc thẩm, các Tòa đệ nhị cấp và các Tòa sơ cấp. Tòa án biệt lập với
hành chính. Chỉ Tòa án mới có chức năng xét xử. Đặc biệt, nguyên tắc đại
diện của nhân dân tham gia xét xử đã được ghi nhận và trở thành nguyên tắc
hiến định. Cụ thể, Điều thứ 65 Hiến pháp 1946 quy định: “Trong khi xử việc
hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu
hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc đại hình”.
Năm 1950, với sự ra đời của một loạt văn bản như Sắc lệnh số 85/SL
ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Sắc lệnh số
151/SL ngày 17/11/1950 về đặt thể lệ chỉ định các HTND và định thành phần
TAND liên khu trong trường hợp đặc biệt, Sắc lệnh số 156/SL ngày
22/01/1950 về tổ chức TAND liên khu… đã hoàn thiện thêm chế độ HTND.
Đặc biệt là Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và

luật tố tụng mà đã sửa đổi cơ bản Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946. Với Sắc
lệnh này, Tòa án sơ cấp được đổi tên thành TAND huyện, Tòa án đệ nhị cấp
được đổi tên thành TAND tỉnh - đã thể hiện sự đổi mới về chất của công tác
tư pháp trong việc hình thành cơ chế mang tính nhân dân, thể hiện bản chất
nhân dân của nhà nước, đó là chế định HTND thay thế chế định Phụ thẩm
nhân dân. Tại Điều 3 Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 quy định: Để xử việc
hình và việc hộ, TAND huyện và TAND tỉnh gồm một Thẩm phán và hai
HTND; Tòa phúc thẩm gồm hai Thẩm phán và ba HTND. Như vậy, chế định
HTND đã thay thế chế định Phụ thẩm nhân dân tại Sắc lệnh số 13 ngày
24/01/1946. HTND do HĐND bầu và có quyền xem hồ sơ, có quyền biểu
quyết, được hưởng đặc quyền tài phán như các Thẩm phán. Theo nghĩa đó,

13


HTND có quyền ngang bằng với thẩm phán. Mục tiêu của cuộc cải cách tư
pháp là làm dân chủ hóa bộ máy tư pháp, làm cho Tòa án thực sự là của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Với mục tiêu này, Sắc lệnh quy định khi xét
xử thành phần HTND phải chiếm đa số trong HĐXX. Ngoài ra, HTND trước
đây chỉ tham gia xét xử các vụ án hình sự thì giờ đây tham gia xét xử cả hình
sự và dân sự và có quyền biểu quyết bình đẳng với Thẩm phán, được tham gia
quyết định về mọi vấn đề của vụ án.
Hiến pháp năm 1959 ra đời nhằm đáp ứng nhiệm vụ cách mạng trong
giai đoạn mới là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống
nhất nước nhà. Hiến pháp năm 1959 đã xác định lại vị trí của TAND trong hệ
thống bộ máy nhà nước. TAND không còn trực thuộc Hội đồng Chính phủ
mà trực tiếp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội - cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất. Đồng thời, Hiến pháp năm 1959 quy định hệ
thống cơ quan xét xử của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm có: TAND
Tối cao, TAND địa phương (gồm TAND tỉnh và thành phố trực thuộc trung

ương, TAND huyện và thành phố thuộc tỉnh, các Tòa án quân sự và trong
trường hợp xét xử những vụ án đặc biệt Quốc hội có thể thành lập Tòa án đặc
biệt (Điều 97). Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân năm 1960, ở các địa phương được thành lập các Tòa án địa
phương. Theo đó, địa vị pháp lý của HTND tiếp tục được quy định một cách
hoàn thiện hơn, được ghi nhận trong Hiến pháp 1959, Luật Tổ chức TAND
năm 1960 và các văn bản pháp luật khác. Hiến pháp 1959 đã ghi nhận các
nguyên tắc như: nguyên tắc xét xử cơ HTND tham gia (Điều 90), nguyên tắc
Tòa án xét xử độc lập (Điều 100). Địa vị pháp lý của HTND đã được nâng lên
ngang quyền với Thẩm phán trong hoạt động xét xử (Điều 11 Luật Tổ chức
TAND năm 1960). Khác với cơ quan quyền lực nhà nước khác, các Tòa án về
mặt tổ chức không hợp thành một hệ thống theo kiểu “ngành dọc” từ trung

14


ương đến địa phương mà theo những cấp xét xử, khi xét xử các HĐXX hoàn
toàn độc lập trên cơ sở pháp luật và ý thức pháp luật của Thẩm phán và
HTND. Việc tham gia xét xử của HTND cũng được áp dụng theo cấp xét xử.
HTND chủ yếu tham gia xét xử ở cấp sơ thẩm, còn ở cấp phúc thẩm, HTND
chỉ tham gia trong những trường hợp đặc biệt. Thành phần HĐXX sơ thẩm
gồm một Thẩm phán và hai HTND, trường hợp xử những vụ án nhỏ, đơn giản
thì TAND có thể xử không có HTND. Khi xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử
gồm ba Thẩm phán, trong trường hợp đặc biệt có thể có thêm hai HTND.
1.2.1.2. Giai đoạn 1976 đến 1988
Sau khi đất nước độc lập, thống nhất, cả nước bước vào giai đoạn mới,
với những yêu cầu mới đặt ra về cải cách toàn diện kinh tế, chính trị, xã hội
nhằm khắc phục hậu quả sau nhiều năm chiến tranh, phát triển kinh tế tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh đó, cần phải nâng cao hiệu
lực quản lý của nhà nước đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân dân,

trong đó bao gồm việc tăng cường tính nhân dân trong hoạt động xét xử của
Tòa án. Hiến pháp 1980 và Luật Tổ chức TAND năm 1981 tiếp tục ghi nhận
một số nguyên tắc thể hiện rõ việc tham gia xét xử của HTND như: HTND
ngang quyền với Thẩm phán (Điều 130 Hiến pháp 1980 và Luật Tổ chức
TAND năm 1981), xét xử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 132 Hiến
pháp 1980 và Điều 7 Luật Tổ chức TAND năm 1981). So với Hiến pháp
1959, Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức TAND năm 1981 đã xác định rõ
chủ thể của hoạt động xét xử là Thẩm phán và HTND.
Tiêu chuẩn lựa chọn HTND ở giai đoạn này khá đơn giản với quy định
là “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có quan
hệ tốt với nhân dân”. Về hình thức bầu chọn HTND ở mỗi cấp khác nhau:
HTND ở mỗi cấp tòa có quy định khác nhau: HTND TAND tối cao do Hội
đồng Nhà nước cử, theo sự giới thiệu của Đoàn Chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ

15


quốc Việt Nam, HTND TAND địa phương do HĐND cùng cấp bầu theo sự
giới thiệu của Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở địa phương.
Ở giai đoạn này, những quy định về HTND rõ ràng và chặt chẽ hơn
trong Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND: quyền hạn của HTND được mở rộng
hơn, số lượng HTND tham gia trong từng vụ án, từng cấp xét xử, thể hiện
việc Nhà nước ta đã nhận thức đúng đắn vai trò đại diện cho nhân dân của
HTND trong hoạt động xét xử.
1.2.1.3. Giai đoạn 1989 đến trước Hiến pháp 2013.
Trong giai đoạn này, tòa án có quyền xét xử mọi hành vi vi phạm pháp
luật và mọi tranh chấp phát sinh trong xã hội, từ những vụ án hình sự, dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, hành chính và các lĩnh vực
khác theo quy định của pháp luật. Nhiều văn bản quy định về vị trí, vai trò
của HTND trong từng lĩnh vực theo thẩm quyền của Tòa án đã được ban hành

như: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1998 (được sửa đổi năm 2000, 2003), Pháp
lệnh Thẩm phán và HTND năm 2002 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật
Tổ chức TAND năm 2002, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi,
bổ sung năm 2011), Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Quy chế tổ chức và
hoạt động của HTND năm 2005.
1.2.2. Vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân theo pháp luật hiện hành
của Việt Nam
1.2.2.1. Vị trí, vai trò nói chung của Hội thẩm nhân dân
Theo nghĩa rộng, vị trí, vai trò của HTND được thể hiện thông qua hầu
hết các nội dung của chế định pháp luật về chức danh tư pháp này. Từ cách
tiếp cận đó, có thể xác định vị trí, vai trò nói chung của HTND theo pháp luật
hiện hành của Việt Nam từ những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tiêu chuẩn của HTND

16


Điều 85 Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 quy định, tiêu chuẩn của HTND:
(i) Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo
vệ công lý, liêm khiết và trung thực; (ii) Có kiến thức pháp luật; (iii) Có hiểu biết
xã hội và (iv) Có sức khỏe bảo đảm hòa thành nhiệm vụ được giao.
Quy định HTND phải là công dân Việt Nam thể hiện ý nghĩa là công
dân Việt Nam mới ý thức được trách nhiệm lớn lao, mới thực sự nắm bắt
được tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân để đại diện cho nhân dân
tham gia vào công tác xét xử. Tiêu chuẩn phải trung thành với Tổ quốc và
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì HTND tham gia
HĐXX vừa nhân danh Nhà nước, vừa thay mặt nhân dân thực hiện việc xét
xử, vì thế phải trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp là đạo luật gốc, đạo luật

cơ bản để khi tham gia Hội đồng xét xử góp phần đưa ra bản án đúng với quy
định của Hiến pháp và pháp luật.
Quy định HTND phải có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết
và trung thực để bảo đảm HTND không bị lung lay, dao động trước mọi cám
dỗ làm phương hại đến lợi ích của Nhà nước, của Nhân dân. Quy định
HTND phải có uy tín trong cộng đồng dân cư vì họ là những người sống và
làm việc tại cơ sở, là đại diện cho nhân dân nên khi họ có uy tín trong cộng
đồng dân cư, họ sẽ thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật trong nhân dân. Những người trực tiếp tham gia quá trình giải
quyết vụ án, Hội thẩm sẽ là người giúp Tòa án tuyên truyền về kết quả xét
xử, phân tích rõ cơ sở áp dụng pháp luật về việc giải quyết vụ án, từ đó góp
phần vào việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật của công
dân vào đóng vai trò to lớn trong công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật
trong nhân dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và chú trọng đến công

17


tác hòa giải đối với các mâu thuẫn, tranh chấp của công dân tại nơi Hội thẩm
làm việc và sinh sống. Bằng vai trò cá nhân, HTND đóng góp nhất định
trong việc giữ gìn “tình làng nghĩa xóm”, ổn định xã hội, phòng chống tội
phạm ở các khu dân cư.
Quy định HTND phải có kiến thức pháp luật: Nếu như tiêu chuẩn của
Thẩm phán là phải có trình độ cử nhân luật trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ
xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật (Điều 67 Luật Tổ chức
TAND) thì HTND chỉ cần có kiến thức pháp luật. Có quy định khác nhau như
vậy vì Thẩm phán thể hiện tính chuyên môn, còn Hội thẩm thể hiện tính dân
chủ trong Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, theo nguyên tắc “Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [23] và “TAND xét xử tập thể

và quyết định theo đa số” [23] nên để đảm bảo cho chất lượng xét xử, đòi hỏi
Hội thẩm cũng phải có kiến thức pháp luật.
Tuy nhiên, trong thực tế HTND được tuyển chọn từ các ngành nghề,
lĩnh vực khác nhau như giáo dục, y tế, Mặt trận…Kiến thức pháp lý của Hội
thẩm tùy thuộc vào trình độ chuyên môn, ngành nghề, lĩnh vực công tác nên
giữa các Hội thẩm có kiến thức pháp luật không đồng đều. Việc quy định Hội
thẩm cần có kiến thức pháp luật nhưng chưa quy định một tiêu chuẩn cụ thể,
trong khi xét xử cùng với họ là những thẩm phán có trình độ chuyên môn, kỹ
năng xét xử nên rất khó để HTND độc lập và tuân theo pháp luật khi xét xử.
Vì vậy, việc trang bị cho Hội thẩm những kiến thức pháp lý cần thiết phục vụ
cho công tác xét xử thông qua việc tổ chức các đợt tập huấn là rất cần thiết.
Pháp luật cũng quy định HTND phải có sức khỏe để bảo đảm hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Sức khỏe ở đây được hiểu là sức khỏe về thể chất
và tinh thần. Về thể chất, phải là người có sức khỏe, không bị dị tật, khiếm
khuyết, về tinh thần phải có tinh thần minh mẫn, không bị các bệnh về tâm
thần. Quy định này phù hợp với vị trí, vai trò của HTND trong hoạt động xét

18


×