Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Sáng kiến nâng cao chất lượng công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong Ngành KSND Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 30 trang )

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH
TRONG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN BÌNH ĐỊNH
Người thực hiện: Trần Văn Sang – Nguyễn Văn Hải
MỞ ĐẦU
Một trong những nội dung trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta
là cải cách hệ thống tổ chức và hoạt động của cơ quan Viện Kiểm sát nhân dân
(VKSND), bảo đảm tốt hơn các điều kiện để VKSND thực hiện tốt chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Từ những yêu cầu trên, đòi
hỏi ngành Kiểm sát nhân dân (KSND) phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện về tổ chức
bộ máy, chức năng và nhiệm vụ của Ngành theo tiến trình cải cách tư pháp; bảo đảm
tính tích cực, chủ động trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; ngăn ngừa vi phạm
pháp luật; góp phần bảo vệ Pháp chế XHCN, giữ vững an ninh trật tự xã hội. Cũng
chính xuất phát từ yêu cầu này, vấn đề đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành
trong Ngành KSND là cần thiết.
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành KSND là quá trình tác động
có hướng đích của tập thể và cá nhân người lãnh đạo đối với hệ thống tổ chức, tập
thể đơn vị và cán bộ, Kiểm sát viên, Chuyên viên dưới quyền nhằm thực hiện những
nhiệm vụ, chức năng của VKSND.
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành KSND là các công tác gắn
liền với nhau, có quá trình tác động, nội dung hoạt động giống nhau và trong thực tế
người lãnh đạo thường lại giữ vai trò quản lý, chỉ đạo, điều hành cho nên khó tách
biệt giữa các loại công tác này. Trong lý luận và thực tiễn của ngành KSND thường
được gọi chung là công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành.
Trong mọi hoạt động của các cơ quan, tổ chức thì công tác quản lý, chỉ đạo,
điều hành luôn giữ vai trò hết sức quan trọng, là yếu tố xuyên suốt quá trình hoạt
động, quyết định mức độ thành công trong việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch của cơ
quan, tổ chức đó. Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong những năm qua,
Viện KSND tỉnh Bình Định luôn xác định công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành là
nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, tạo tiền đề cho sự thành công, bảo đảm sự hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ một cách có hiệu quả, thiết thực.


1


Đ/c Trần Văn Sang - Viện trưởng VKSND tỉnh phát biểu kết luận tại Hội nghị giao ban
công tác thường kỳ.

Để công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong thời gian tới đạt chất lượng và
hiệu quả cao, chúng tôi thực hiện chuyên đề “Nâng cao chất lượng công tác quản
lý, chỉ đạo, điều hành trong Ngành Kiểm sát nhân dân Bình Định”. Trong phạm
vi chuyên đề này, chúng tôi tập trung đi sâu vào phân tích thực trạng công tác quản
lý, chỉ đạo, điều hành của Ngành KSND Bình Định trong thời gian qua; chỉ ra những
thiếu sót, hạn chế và nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế từ đó đưa ra một số
giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành
trong thời gian tới.
Bố cục chuyên đề: Ngoài phần mở đầu và kết luận, có 03 chương:
- Chương I: Cơ sở pháp lý của công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành ngành
Kiểm sát nhân dân.
- Chương II: Thực trạng công tác công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong
ngành KSND Bình Định thời gian qua.
- Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý,
chỉ đạo, điều hành trong ngành Kiểm sát nhân dân Bình Định.

2


CHƯƠNG I
CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ, CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH
1. Khái niệm công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành Kiểm sát
nhân dân
Thuật ngữ “quản lý hành chính” ít được sử dụng trong hệ thống VKSND vì

VKSND không phải là cơ quan hành chính nhà nước, mà là cơ quan do Quốc hội
thành lập với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Hơn nữa, trong hệ thống VKSND thường sử dụng cụm từ “lãnh đạo”,“chỉ đạo” để
nói về hoạt động quản lý hành chính. Chẳng hạn, tại Điều 7 Luật tổ chức Viện Kiểm
sát nhân dân năm 2014 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao”, hay Điều 83 Luật tổ
chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: “Khi thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân”. Từ đó, vấn đề đặt ra là chúng ta phải nhận
thức thống nhất thuật ngữ: “quản lý hành chính” với các thuật ngữ “lãnh đạo”,
“chỉ đạo”. Trên cơ sở đó có thể phân biệt hoạt động quản lý hành chính với các hoạt
động khác trong cơ quan VKSND.
Hoạt động của những người giữ chức vụ lãnh đạo trong ngành KSND là hoạt
động tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ và được gọi là hoạt động quản lý, chỉ
đạo, điều hành trong ngành KSND. Hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành trong
ngành KSND (nói một cách khác là hoạt động quản lý hành chính nhà nước ngành
KSND) là một dạng của quản lý hành chính nhà nước. Công tác này có những dấu
hiệu sau: là hoạt động chỉ tiến hành trong nội bộ ngành KSND; là hoạt động thực thi
quyền hành chính (không phải là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp), được thực hiện bằng phương pháp mệnh lệnh - phục tùng; là hoạt động của
người có chức vụ lãnh đạo trong ngành KSND sử dụng quyền hành chính trực tiếp
tác động vào đối tượng thuộc quyền. Hoạt động này có thể trực tiếp làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ hành chính (điều động, bổ nhiệm, cách chức,…)
Như vậy, từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: “Công tác quản lý, chỉ
đạo, điều hành trong ngành KSND là hoạt động quản lý nội bộ của những người có
chức vụ lãnh đạo trong cơ quan Viện kiểm sát, thực hiện bằng cách sử dụng quyền
hành chính tác động vào những đối tượng thuộc quyền nhằm tổ chức thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của VKSND trên thực tế”.

3


2. Đặc điểm của công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành KSND
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành KSND là một dạng của quản
lý hành chính nhà nước nên có đầy đủ các đặc điểm của quản lý hành chính nhà
nước, cụ thể như sau: Luôn mang tính đơn phương, tính quyền lực và tính tổ chức
cao; được tiến hành trên cơ sở mục tiêu, kế hoạch và chương trình hành động; là
hoạt động chủ động, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành, phối hợp…; có tính độc lập,
tính liên tục, tính ổn định tương đối trong tổ chức và hoạt động; có tính nghề nghiệp
và chuyên môn hóa cao; có sự phân công, phân cấp chặt chẽ từ Trung ương xuống
địa phương.
Bên cạnh đó, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành KSND có
những đặc điểm riêng để phân biệt với hoạt động quản lý hành chính của các cơ
quan nhà nước: Là hoạt động chỉ tiến hành trong nội bộ ngành KSND mà đối tượng
chịu sự quản lý là những người có sự phụ thuộc về mặt tổ chức trong cơ quan hoặc
trong ngành KSND; mục đích của công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành
KSND nhằm tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho ngành
Kiểm sát.
3. Nội dung công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành KSND
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành KSND gồm nhiều hoạt động
do lãnh đạo VKSND các cấp và các đơn vị thực hiện theo quy định của pháp luật và
phân cấp quản lý trong Ngành. Căn cứ vào các lĩnh vực hoạt động, nội dung quản lý,
chỉ đạo, điều hành của ngành KSND bao gồm năm nhóm hoạt động chính sau đây:
3.1. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong lĩnh vực thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
Trong lĩnh vực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
Viện trưởng VKSND các cấp là người trực tiếp chỉ đạo, điều hành các đối tượng
thuộc quyền trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Đối tượng chịu sự quản lý,
chỉ đạo, điều hành trong lĩnh vực này là các cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra viên,

Kiểm tra viên, Chuyên viên trong đơn vị quản lý của Viện kiểm sát các cấp. Như
vậy, hoạt động này khác với hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp, bởi lẽ:
Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hoạt
động do người tiến hành tố tụng (người có chức danh pháp lý) trong VKSND thực
hiện. Đó là hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan VKSND tác động
tới các đối tượng bên ngoài cơ quan VKSND, không có sự phụ thuộc VKSND về
mặt tổ chức.
Mặt khác, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành không thể do Kiểm sát viên
thực hiện, mà phải do lãnh đạo VKSND thực hiện, cũng không phải là hoạt động
4


thực hiện chức năng, nhiệm vụ, mà là tổ chức thực hiện. Hơn nữa, hoạt động quản
lý, chỉ đạo, điều hành cũng không thể tác động tới những đối tượng bên ngoài
VKSND, không có sự phụ thuộc về mặt tổ chức.
3.2. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong lĩnh vực tổ chức cán bộ
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong lĩnh vực tổ chức cán bộ là hoạt
động của lãnh đạo cơ quan, đơn vị kiểm sát triển khai các biện pháp quản lý các hoạt
động về thành lập, giải thể sáp nhập các đơn vị, các bộ phận trực thuộc; tuyển dụng,
đào tạo bồi dưỡng, điều động sắp xếp cán bộ, luân chuyển cán bộ; bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức, thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ,... nhằm kiện
toàn bộ máy ổn định, hoàn chỉnh và hình thành một đội ngũ cán bộ Kiểm sát trong
sạch, vững mạnh, thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao.
3.3. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong lĩnh vực thi đua khen
thưởng, sử dụng ngân sách Nhà nước, đối nội – đối ngoại
Hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành trong lĩnh vực thi đua khen thưởng, sử
dụng ngân sách Nhà nước, đối nội – đối ngoại là hoạt động của lãnh đạo cơ quan,
đơn vị kiểm sát triển khai các biện pháp quản lý các hoạt động phân bổ và sử dụng
ngân sách, chi phí nghiệp vụ; mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất; tiền

lương, hành chính văn phòng và các chi khác, được tiến hành theo quy trình xây
dựng dự toán ngân sách và thực hiện dự toán phù hợp với quy định của pháp luật
nhằm phục vụ công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ; tổ chức phát động các phong
trào thi đua thiết thực, hiệu quả, kiểm tra điều chỉnh những sai sót và chọn ra những
gương điển hình tiên tiến để khen thưởng kịp thời. Hoạt động quản lý trong lĩnh vực
này nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết để đảm bảo cho hoạt động của ngành
KSND.
3.4. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong lĩnh vực thanh tra, kiểm tra
Công tác thanh tra, kiểm tra là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm
giúp lãnh đạo đơn vị tăng cường vai trò quản lý, chỉ đạo điều hành, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của công tác quản lý.
Công tác thanh tra do người đứng đầu ngành KSND phụ trách, chỉ đạo, để
nắm được những ưu điểm, tồn tại trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp cũng như trong quản lý hành chính của Ngành, phục vụ công tác quản
lý, qua công tác thanh tra mà Viện trưởng có thể nắm được những công việc, nhiệm
vụ đã giao cho cấp phó phụ trách; công tác kiểm tra có thể do các Phó Viện trưởng tổ
chức thực hiện thông qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp mà phát hiện vi phạm và báo cáo kết quả với Viện trưởng, không thực hiện việc
kiểm tra những nhiệm vụ do Viện trưởng phụ trách (trong đó có công tác thanh tra);
công tác kiểm tra có thể thực hiện trên cơ sở phối hợp với các cơ quan đơn vị hữu
5


quan để thực hiện chức năng, nhiệm vụ liên quan đến nhiệm vụ chung, như Cơ quan
điều tra và VKSND cấp trên kiểm tra liên ngành về công tác giải quyết tố giác tin
báo về tội phạm đối với Cơ quan điều tra và VKSND cấp dưới.
Theo quy chế về công tác thanh tra và quy chế công tác kiểm tra trong ngành
KSND thì: phạm vi thanh tra đột xuất được thực hiện khi phát hiện cơ quan, đơn vị,
công chức…có vi phạm hoặc theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng chống tham nhũng, hoặc theo yêu cầu của Viện trưởng VKSND cấp mình;

phạm vi kiểm tra đột xuất được tiến hành do yêu cầu cấp thiết của công tác lãnh đạo,
quản lý và nhiệm vụ chính trị của Ngành; Ngoài việc thanh tra nghiệp vụ, thanh tra
hành chính, Thanh tra còn thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với công chức,
người lao động trong Ngành có vi phạm pháp luật, kỷ luật nghiệp vụ, phẩm chất đạo
đức…(đơn không thuộc lĩnh vực tư pháp).
3.5. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong các lĩnh vực khác
Lĩnh vực công nghệ thông tin, đưa công tác thống kê vào nề nếp, hoạt động có
hiệu quả. Chỉ đạo thực hiện tốt ứng dụng phần mềm thống kê quản lý án hình sự và
dân sự. Đẩy mạnh việc nâng cao chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn
Ngành. Tăng cường công tác quản trị mạng, không sử dụng máy tính có nối mạng để
soạn thảo văn bản Mật, không sử dụng mạng làm những công việc cá nhân trong giờ
hành chính.
Công tác tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước; tuyên truyền, phổ biến về pháp luật; tuyên truyền, làm rõ các phương thức, thủ
đoạn phạm tội, nguyên nhân, điều kiện của tội phạm và các biện pháp phòng ngừa,
từ đó để nhân dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tích cực tham gia và phối
hợp với các cơ quan chức năng đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật
có hiệu quả hơn.
Tuyên truyền về kết quả công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND
các cấp, làm nổi bật hình ảnh người cán bộ, Kiểm sát viên; tuyên truyền về kết quả
thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh” gắn với việc làm theo lời dạy của Bác Hồ đối với cán bộ Kiểm sát “Công
minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn” và cuộc vận động xây dựng
đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về
pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”; về các phong trào thi
đua của Ngành, về việc bồi dưỡng, nhân rộng điển hình tiên tiến, quảng bá hình ảnh
người cán bộ Kiểm sát trong sự nghiệp đổi mới và cải cách tư pháp.
CHƯƠNG II
6



THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH TRONG
NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN BÌNH ĐỊNH
I. Kết quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành KSND Bình
Định
1. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong lĩnh vực thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
1.1. Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự
Tiếp tục tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị
quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về công tác phòng, chống
vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện KSND, của TAND và công tác thi
hành án năm 2016 và các năm tiếp theo; thực hiện tốt các Nghị quyết số 37, số 63,
số 96 về công tác tư pháp; Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày 10/7/2015 của Viện
trưởng VKSND tối cao về “Tăng cường các biện pháp phòng chống oan, sai và
nâng cao trách nhiệm trong giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong
tố tụng hình sự”; Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng
VKSND tối cao về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra; kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra, chống oan, sai,
bỏ lọt tội phạm.

7


Đồng chí Trần Văn Sang - Viện trưởng Viện KSND tỉnh Bình Định phát biểu tại
buổi làm việc với Lãnh đạo Viện KSND tối cao

Theo đó, ngay từ đầu năm lãnh đạo Ngành đã chỉ đạo các đơn vị xây dựng kế
hoạch, chương trình công tác, tổ chức thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu, nhiệm vụ được
giao. Tăng cường phối hợp với Cơ quan điều tra bàn biện pháp nhằm giải quyết có

hiệu quả việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố,
yêu cầu làm rõ xác minh những hành vi phạm tội trước khi phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can; phối hợp với UBMTTQVN và Ban pháp chế HĐND cùng cấp tăng
cường công tác kiểm sát trực tiếp việc tiếp nhận giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
tại các đơn vị có thẩm quyền thụ lý giải quyết (Mỗi đơn vị thực hiện từ 01-02
cuộc/năm); phấn đấu không để tin báo, tố giác về tội phạm quá hạn luật định, tỷ lệ
giải quyết đạt trên 90%, quyết định phân công trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết
tin báo, tố giác tội phạm cho từng Kiểm sát viên; kịp thời phát hiện vi phạm, kiên
quyết hủy bỏ các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra trái pháp luật, yêu cầu
khởi tố hoặc trực tiếp khởi tố, nhằm chống bỏ lọt tội phạm và không để xảy ra oan,
sai; mỗi đơn vị ban hành từ 01 đến 02 kiến nghị đối với các cơ quan hữu quan về
phòng ngừa vi phạm.
Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng đẩy nhanh tiến độ, nâng
cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự: Kiểm sát 100% vụ án hình sự ngay từ
giai đoạn khởi tố đến suốt quá trình tố tụng; xây dựng kế hoạch kiểm sát điều tra, có
văn bản đề ra yêu cầu điều tra, tham gia hỏi cung, phúc cung bị can, làm rõ các
chứng cứ buộc tội, gỡ tội; Kiểm sát viên phải nắm chắc tiến độ điều tra, thúc đẩy
việc kết thúc điều tra, giải quyết án đúng thời hạn đạt 100%; thực hiện các giải pháp
để hạn chế đến mức thấp nhất án trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng (Dưới 5%); kiên quyết không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm, đình
chỉ điều tra vụ án do không cấu thành tội phạm hoặc lạm dụng khoản 1 Điều
25/BLHS để đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự trái pháp luật dẫn đến bỏ lọt tội
phạm; kiểm sát chặt chẽ án tạm đình chỉ điều tra; kiến nghị yêu cầu cơ quan điều tra
truy bắt bị can truy nã để phục hồi điều tra xử lý; tập trung điều tra giải quyết nhanh
các vụ án trọng điểm, án tham nhũng, án giết người, án trả hồ sơ điều tra bổ sung
nhiều lần, nhất là những vụ án dư luận xã hội quan tâm, án do Ban Nội chính Trung
ương, địa phương theo dõi chỉ đạo; nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên trong
việc trích cứu, lập hồ sơ vụ án, tham mưu đề xuất việc truy tố đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật; tăng cường công tác kiểm sát, kịp thời phát hiện những vi phạm để
ban hành kháng nghị, kiến nghị hoặc báo cáo đề xuất cho Cơ quan điều tra VKSND

tối cao để giải quyết theo thẩm quyền.
8


Tổ chức kiểm tra, khảo sát, báo cáo đánh giá thực trạng công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam của Cơ
quan điều tra toàn Ngành trong 03 năm (2014, 2015 và 2016) đề ra giải pháp khắc
phục các trường hợp lạm dụng bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam.
Chỉ đạo tổ chức thành công cuộc thi “Kỹ năng soạn thảo bản Luận tội của
Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm”.
1.2. Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc có hiệu quả Nghị quyết số
111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội; Chỉ thị số 50-CT/TW ngày
07/12/2015 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng” nhất là đối với việc xử lý các vụ án
tham nhũng thuộc diện theo dõi, chỉ đạo của Ban Nội chính, Ban Chỉ đạo phòng,
chống tham nhũng Trung ương và Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định; nâng cao chất
lượng công tác phát hiện, xử lý án tham nhũng thuộc trách nhiệm của Ngành, đảm
bảo 100% các vụ, việc có hành vi tham nhũng phải được điều tra, truy tố, xét xử
nghiêm theo quy định của pháp luật và tài sản bị chiếm đoạt được thu hồi đạt trên
60%. Tập trung hướng vào nhiệm vụ trọng tâm “Nâng cao chất lượng tranh tụng của
kiểm sát viên tại phiên tòa” và “Nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm, kiểm tra chất lượng bản án hình sự sơ thẩm” theo Chỉ thị số 08,09/CT-VKSTC
ngày 6/4/2016 về tiếp tục tăng cường công tác kháng nghị án hình sự và tăng cường
các biện pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố ở 2 cấp cần phải được
phân công phù hợp, không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng
nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp. Kiểm sát viên khi thực hành
quyền công tố tại phiên tòa phải đầu tư thời gian, nghiên cứu kỹ hồ sơ tài liệu, chứng
cứ, chuẩn bị đề cương xét hỏi, nội dung tranh luận với luật sư và người tham gia tố

tụng, đề xuất hướng xử lý vụ án phải thật khách quan, đúng pháp luật; không để xảy
ra trường hợp Viện kiểm sát truy tố Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội; hạn chế đến
mức thấp nhất án bị hủy để điều tra, xét xử lại có liên quan đến trách nhiệm của
Kiểm sát viên, trường hợp Tòa án xét xử khác khung và điều luật truy tố của Viện
kiểm sát.

9


Đồng chí Trần Văn Sang (ngồi đầu hàng thứ 2) - Viện trưởng Viện KSND tỉnh
Bình Định tham dự trực tiếp tại phiên tòa xét xử lưu động rút kinh nghiệm tại huyện
Phù Cát.
Chủ động phối hợp với Tòa án tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm nhằm
nâng cao chất lượng, kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên (Mỗi Kiểm sát viên phải
thực hiện từ 2-3 vụ/năm); VKSND tỉnh tổ chức từ 02 đến 03 phiên tòa rút kinh
nghiệm bằng hình thức truyền hình trực tuyến đến 2 cấp; phấn đấu lãnh đạo VKSND
cấp tỉnh, lãnh đạo cấp Phòng và VKSND cấp huyện dành thời gian trực tiếp thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án phức tạp, dư luận xã hội quan tâm
(Từ 02-03 vụ/ năm); phân công cán bộ, Kiểm sát viên theo dõi, phát hiện những vi
phạm đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án để kịp thời báo cáo
VKSND cấp cao xem xét, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Đồng thời, VKSND 2 cấp cần tăng cường các biện pháp để kiểm sát chặt chẽ
hoạt động xét xử, các bản án, quyết định của Tòa án; nâng cao hiệu quả công tác
kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm kịp thời phát hiện vi phạm trong hoạt động tư
pháp; kiên quyết kiến nghị, kháng nghị yêu cầu cơ quan tư pháp khắc phục những vi
phạm đã được phát hiện; nâng cao số lượng, chất lượng kháng nghị phúc thẩm cùng
cấp và trên cấp trực tiếp được Tòa án chấp nhận (Kháng nghị phúc thẩm cùng cấp
đạt trên 80%, kháng nghị phúc thẩm trên cấp trực tiếp đạt trên 85%).
10



Chú trọng công tác giải quyết đơn kêu oan, đơn đề nghị kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm hình sự. Đối với những trường hợp để xảy ra oan, sai nghiêm trọng,
án trả hồ sơ điều tra bổ sung, án hủy có liên quan đến trách nhiệm của VKSND thì
đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ tổ chức kiểm điểm ngay để làm rõ nguyên nhân,
trách nhiệm và thông báo rút kinh nghiệm, báo cáo Viện trưởng VKSND tỉnh.
Xây dựng Kế hoạch thực hiện khâu công tác đột phá năm 2017 “Hạn chế án
hình sự trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan
đến trách nhiệm của Kiểm sát viên”; lựa chọn và tổ chức quán triệt các thông báo rút
kinh nghiệm về nghiệp vụ đối với cấp huyện (Thực hiện vào mỗi đợt giao ban tháng,
quý bằng hình thức trực tuyến).

1.3. Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
Tăng cường công tác phối hợp với các ngành chức năng, triển khai thực hiện
có hiệu quả các hoạt động, biện pháp nghiệp vụ, duy trì thường xuyên công tác kiểm
sát trực tiếp Nhà tạm giữ, Trại tạm giam do Công an quản lý, Trại giam-Bộ Công an
và UBND xã, phường, thị trấn theo Luật Thi hành án hình sự, Luật Thi hành tạm
giữ, tạm giam; kiên quyết không để xảy ra quá hạn tạm giữ, tạm giam; kiểm sát chặt
chẽ nhằm hạn chế trường hợp trốn, chết hoặc phạm tội mới trong Nhà tạm giữ, Trại
tạm giam, Trại giam; bảo đảm án có hiệu lực pháp luật đều phải được thi hành
nghiêm túc, kịp thời, không để xảy ra trường hợp án có hiệu lực mà bị án còn ở
ngoài xã hội; kiểm sát chặt chẽ các trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ, miễn, giảm và
hoãn thi hành án phạt tù đúng theo quy định của pháp luật. Nâng cao trách nhiệm
trong công tác kiểm tra hồ sơ trước khi đề nghị Hội đồng xét giảm án, tha tù. Phát
11


hiện và quản lý chặt chẽ tình hình vi phạm pháp luật để ban hành kháng nghị, kiến
nghị, đẩy mạnh phúc tra việc thực hiện kiến nghị. Rà soát, sửa đổi các Quy chế phối
hợp giữa VKSND tỉnh với các cơ quan chức năng theo Luật tổ chức VKSND năm

2014 và các đạo luật mới về tư pháp.
Thực hiện có hiệu quả công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật về trình tự,
thủ tục xét hoãn, tạm đình chỉ, miễn, đình chỉ các biện pháp xử lý hành chính của
Tòa án nhân dân cùng cấp. Thực hiện kiểm tra Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Trại
giam - BCA.
1.4. Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia
đình, vụ án hành chính, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác
theo quy định của pháp luật
Chú trọng đến công tác phân công, bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên
ở từng đơn vị; tăng cường trách nhiệm của Kiểm sát viên để nâng cao chất lượng
kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực dân sự, hành chính; tham gia đầy đủ, đúng
quy định các phiên tòa, phiên họp, kiểm sát chặt chẽ các bản án, quyết định của Tòa
án. Chủ động phối hợp với Tòa án cùng cấp tổ chức họp liên ngành để bàn công tác
phối hợp, giải quyết những vụ, việc tồn đọng, bàn giải pháp khắc phục án quá hạn
luật định, phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm,...(Mỗi Kiểm sát viên phải
thực hiện từ 01-02 phiên tòa, chú trọng phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm
bằng hình thức theo Cụm).
Tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 04/CT-VKSTC-VPT1 ngày
17/5/2012 của Viện trưởng VKSND tối cao về “Phát hiện và quản lý chặt chẽ tình
hình vi phạm pháp luật, nâng cao số lượng, chất lượng kiến nghị, kháng nghị phúc
thẩm về dân sự, hành chính”. Phấn đấu án kháng nghị phúc thẩm cùng cấp được Tòa
án chấp nhận đạt trên 80%, kháng nghị phúc thẩm trên cấp trực tiếp được Tòa án
chấp nhận đạt trên 85%. Tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ và
thông báo rút kinh nghiệm những thiếu sót trong quá trình kiểm sát việc giải quyết
các vụ, việc dân sự, hành chính; rà soát và báo cáo kịp thời các đơn đề nghị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cho VKSND cấp cao, không để xảy ra
trường hợp đơn hết thời hạn nhưng không được giải quyết.
Triển khai Thông tư liên tịch số 02, 03 ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp
giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số quy định của BLTTDS, LTTHC đến
VKSND cấp huyện, thực hiện khâu công tác đột phá “Nâng cao chất lượng công tác

kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự - hôn nhân gia đình - hành chính - kinh
doanh thương mại - lao động và các việc khác theo quy định của pháp luật”.
12


Chỉ đạo tổ chức thành công cuộc thi “Kỹ năng soạn thảo Bài phát biểu của
Kiểm sát viên tại phiên tòa Hành chính” và cuộc thi “Chúng tôi là Kiểm sát viên”
năm 2017 để tìm hiểu và tuyên truyền BLTTDS và BLDS năm 2015.
1.5. Công tác kiểm sát thi hành án dân sự, hành chính
Tập trung triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Thông báo kết luận số
51/TBKL-BTP-VKSNDTC ngày 23/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Viện
trưởng VKSND tối cao về công tác phối hợp giữa Bộ Tư pháp và VKSND tối cao
trong công tác thi hành án dân sự; Quy chế công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi
hành án hành chính ban hành kèm theo Quyết định số 810/QĐ-VKSTC-V11 ngày
20/12/2016 của VKSND tối cao và Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTPTANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 quy định một số vấn đề về thủ tục THADS
và phối hợp liên ngành trong THADS; tăng cường công tác kiểm sát thi hành án, chú
trọng việc phân loại, rà soát, lập danh sách và quản lý số việc có điều kiện thi hành,
chưa có điều kiện thi hành, việc xét miễn, giảm, hoãn thi hành án, việc tham gia
cưỡng chế, định giá tài sản, tiêu huỷ tang vật; tăng cường công tác phối hợp với cơ
quan thi hành án bàn biện pháp nâng cao tỷ lệ số việc, số tiền có điều kiện thi hành
án xong so với năm 2016; đảm bảo 100% bản án hành chính có hiệu lực phải được
thi hành; đổi mới, nâng cao chất lượng các cuộc kiểm sát trực tiếp tại cơ quan thi
hành án dân sự; tập trung phát hiện những vi phạm, thiếu sót trong công tác thi hành
án dân sự để nâng cao số lượng, chất lượng kiến nghị, kháng nghị, đảm bảo các kiến
nghị, kháng nghị đều được chấp nhận thực hiện; nhất là rà soát phát hiện các bản án
Tòa tuyên không rõ ràng, gây khó khăn cho việc thi hành án, những vụ, việc có điều
kiện thi hành án nhưng còn để kéo dài gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người được
thi hành án. Chú trọng việc kiểm tra, phúc tra các kiến nghị, kháng nghị đã ban hành
năm 2016 đối với Cơ quan thi hành án.
1.6. Công tác kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động

tư pháp
Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2014
của Bộ Chính trị và Quy chế số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 Quy chế tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động tư pháp. Theo đó, các đơn vị cần tập trung nâng cao hiệu quả công
tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, phấn đấu giải quyết
đạt tỷ lệ trên 90% đơn khiếu nại, tố cáo mới phát sinh trong thời hạn luật định, trong
đó lãnh đạo Viện phải dành thời gian thích hợp để trực tiếp tiếp công dân tại cơ
quan, tránh trường hợp để đơn khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp. Rà soát, báo cáo
theo yêu cầu của VKSND cấp cao những đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái
13


thẩm, đơn kêu oan; tích cực kiểm sát việc giải quyết khiếu nại đối với hành vi của
người có thẩm quyền của Tòa án cùng cấp trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính; phát hiện vi phạm, phối hợp với UBMTTQVN, Ban pháp chế HĐND cùng
cấp và các phòng nghiệp vụ tiến hành kiểm sát trực tiếp việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp. Trong năm, mỗi đơn vị tiến hành kiểm sát trực tiếp ít
nhất 01 cơ quan tư pháp về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
2. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong lĩnh vực tổ chức cán bộ
2.1. Công tác xây dựng Ngành, xây dựng Đảng

Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo VKSND tỉnh, Đảng ủy theo chức trách nhiệm vụ
chỉ đạo các Chi, Đảng bộ, các VKSND huyện, thị xã, thành phố, các đơn vị trực
thuộc VKSND tỉnh xây dựng Chương trình hành động, Kế hoạch, tổ chức Hội nghị
để triển khai, quán triệt thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, đặc
biệt là những định hướng lớn về công tác tư pháp, đảm bảo thống nhất nhận thức và
hành động trong toàn Ngành, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao;
tiếp tục quán triệt thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 92KL/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, triển khai

thực hiện tốt các Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao, nhất là những chỉ tiêu,
nhiệm vụ mới thuộc trách nhiệm của Ngành.
Thực hiện Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao và Chỉ thị số 12-CT/TU
ngày 19/4/2016 của Tỉnh ủy Bình Định về việc triển khai thi hành các đạo luật liên
14


quan đến lĩnh vực tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Định, các văn bản về tổ chức, hoạt
động của Thanh tra, xử lý vi phạm trong ngành KSND. Chủ động phối hợp với các
cơ quan chức năng rà soát, đề xuất sửa đổi hoặc hủy bỏ những văn bản không còn
phù hợp, xây dựng văn bản hướng dẫn mới đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ theo
quy định của các đạo luật mới về tư pháp. Chủ động sửa đổi hệ thống Quy chế về
nghiệp vụ, Quy chế dân chủ ở cơ sở, Quy chế chi tiêu nội bộ, Quy chế công tác phối
hợp theo quy định của Luật và các hướng dẫn của Ngành, Liên ngành cấp trên.
2.2. Công tác Tổ chức - Cán bộ

Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Luật tổ chức VKSND năm 2014
trong toàn Ngành, kiện toàn Lãnh đạo VKSND các huyện, thị xã, thành phố và các
phòng trực thuộc VKSND tỉnh; rà soát, lập thủ tục đề nghị bổ nhiệm, bổ nhiệm lại
cán bộ lãnh đạo quản lý, Kiểm sát viên ở 2 cấp; thực hiện việc điều động, luân
chuyển cán bộ, Kiểm sát viên, lãnh đạo quản lý phục vụ cho nhiệm vụ công tác trong
Ngành; rà soát, tiếp tục thực hiện việc luân chuyển Viện trưởng VKSND cấp huyện
không phải là người địa phương; triển khai kế hoạch thực hiện việc tinh giản biên
chế từ nay đến năm 2021; thực hiện quy trình quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý
VKSND 2 cấp theo hướng dẫn của VKSND tối cao và Tỉnh ủy Bình Định; lựa chọn
cán bộ, công chức đủ điều kiện cử tham gia thi tuyển Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm
sát viên sơ cấp do VKSND tối cao tổ chức; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, công tác quản lý, chỉ đạo, điều
hành cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, tạo điều kiện, khuyến khích cán bộ, công
chức trẻ theo học Thạc sỹ, Tiến sỹ Luật, thường xuyên chăm lo, giáo dục bản lĩnh

15


chính trị, đạo đức nghề nghiệp và ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát
viên, gắn với việc tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI,
XII), Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Cuộc vận động xây dựng đội ngũ cán
bộ, Kiểm sát viên “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật,
công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.
3. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong lĩnh vực hậu cần, thi đua khen thưởng, sử dụng ngân sách Nhà nước, đối nội – đối ngoại
Triển khai thực hiện có hiệu quả Kế hoạch công tác kiểm sát và Kế hoạch Thi
đua – Khen thưởng năm 2017; phát động phong trào thi đua thực hiện Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng và chung sức xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2 (20162020), phối hợp với chính quyền địa phương và liên kết với các đơn vị lựa chọn xây
nhiều Nhà tình nghĩa cho đối tượng chính sách trên địa bàn tỉnh, giúp 01 xã xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2; tổ chức sơ, tổng kết phong trào thi đua, khen
thưởng gắn với các chỉ tiêu nghiệp vụ, chủ động xây dựng Chương trình, Kế hoạch
kiểm tra, sơ kết, tổng kết các hoạt động của Ngành, tổ chức Hội nghị cán bộ, công
chức, Hội nghị tập huấn công tác nghiệp vụ, Hội nghị triển khai thi hành các đạo luật
về tư pháp đã được Quốc hội sửa đổi, thông qua. Thực hiện đầy đủ chế độ thông tin
báo cáo, quản lý công tác trong Ngành và các chỉ tiêu nghiệp vụ theo Nghị quyết số
37/2013/QH13, Nghị quyết số 63/2013/QH13, Nghị quyết số 111/2015/QH13 của
Quốc hội.

16


Giao lưu với Đồn biên phòng 312 thuộc Bộ đội Biên phòng tỉnh Bình Định

Công khai minh bạch trong việc mua sắm tài sản công, phân bổ dự toán Ngân
sách cho VKSND các huyện, thị xã, thành phố; tăng cường công tác kiểm tra, quản

lý tài sản, tài chính; phân bổ công khai, sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí được
cấp và được địa phương hỗ trợ; nêu cao tinh thần tiết kiệm, chống lãng phí, tăng thu
nhập cho cán bộ, công chức trong cơ quan (Năm 2017 tiếp tục thực hiện tiết kiệm
10% kinh phí chi thường xuyên). Đôn đốc, quản lý, đẩy nhanh tiến độ thi công việc
sửa chữa, bảo trì trụ sở VKSND tỉnh, Tây Sơn, Hoài Ân, xây dựng mới trụ sở
VKSND thị xã An Nhơn theo kinh phí được cấp năm 2017. Thực hiện công tác
Quyết toán tài chính năm 2016 cho Ngành và VKSND cấp huyện.

Đồng chí Trần Văn Sang - Viện trưởng VKSND tỉnh Bình Định, Thành viên
BCĐCCTP tỉnh phát biểu tại buổi làm việc

4. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong lĩnh vực thanh tra, kiểm tra
Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 05/CT-VKSTC của Viện trưởng
VKSND tối cao về việc chấp hành kỷ luật nghiệp vụ, công vụ và trật tự nội vụ; tăng
cường công tác thanh tra toàn diện, kiểm tra theo chuyên đề, kiểm tra đột xuất các
đơn vị ở 2 cấp, chú trọng đến công tác thanh tra về nghiệp vụ, tất cả các vụ án tạm
đình chỉ, đình chỉ điều tra của Ngành đều phải được thanh tra, kết luận. Tập trung
thanh tra, kiểm tra làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong
quản lý, chỉ đạo, điều hành dẫn đến vi phạm pháp luật, hạn chế, yếu kém trong thực
17


hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Qua thanh tra kịp thời thông báo rút kinh
nghiệm nhằm chấn chỉnh những vi phạm và nêu gương những đơn vị, cá nhân chấp
hành tốt; có hình thức xử lý những đơn vị, cá nhân để xảy ra oan, sai, tham nhũng, vi
phạm kỷ luật, mất đoàn kết nội bộ. Tổ chức kiểm tra, khảo sát đánh giá tình hình tạm
đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án trong 3 năm (2014, 2015, 2016); xây dựng văn
bản hướng dẫn thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các quy định của pháp luật về tạm
đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án. Theo dõi án hủy, án trả hồ sơ để điều tra bổ
sung để chấn chỉnh, rút kinh nghiệm trong toàn Ngành.


Đồng chí Trần Văn Sang - Viện trưởng VKSND tỉnh Bình Định phát biểu kết luận
buổi làm việc tại Vân Canh

5. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong các lĩnh vực khác
5.1. Công tác Thống kê tội phạm và công nghệ thông tin
Tiếp tục thực hiện tốt công tác thống kê và cập nhập quản lý phần mềm quản
lý án hình sự, dân sự, hành chính; nâng cao chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin
trong Ngành; nâng cấp, khai thác và sử dụng có hiệu quả hệ thống truyền hình trực
tuyến đến cấp huyện để phục vụ cho Hội nghị, phiên tòa rút kinh nghiệm, giao
ban...Triển khai thực hiện việc cài đặt và ứng dụng tường lửa cho mạng nội bộ
VKSND tỉnh Bình Định nhằm góp phần đảm bảo an toàn thông tin cho cơ quan,
kiểm soát được việc sử dụng máy trạm sai mục đích công việc; từng bước phối hợp
với Tòa án lập phương án kết nối hệ thống truyền hình trực tuyến từ phòng xét xử
đến phòng làm việc của Lãnh đạo Viện, Lãnh đạo Tòa án ở 2 cấp. Thực hiện có hiệu
quả Văn phòng điện tử.
18


5.2. Công tác tuyên truyền
Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền theo Chỉ thị số 05/CTVKSTC ngày 23/8/2012 của Viện trưởng VKSND tối cao và Kế hoạch số 06/KHVKSTC ngày 19/01/2015 của Ban Chỉ đạo tuyên truyền VKSND tối cao về phục vụ
chủ trương, nhiệm vụ cải cách tư pháp và hoạt động tư pháp trong ngành KSND;
nâng cao chất lượng, nội dung, quản lý, khai thác có hiệu quả Trang thông tin điện
tử; tập trung tuyên truyền về các đạo luật mới về tư pháp, kết quả thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Ngành; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Phối hợp với cơ quan chức năng mở lớp bồi dưỡng nâng cao kỹ năng viết tin, bài
cho đội ngũ Biên tập viên, Cộng tác viên của Ngành.

Đồng chí Trần Văn Sang - Viện trưởng Viện KSND tỉnh trao Giải nhất cho Đội 1 Viện KSND TP. Quy Nhơn


II. Đánh giá công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong Ngành Kiểm sát
nhân dân Bình Định
1. Ưu điểm

19


Quán triệt và thực hiện nghiêm túc các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về cải
cách tư pháp, hoạt động của VKSND trong những năm qua đã có những chuyển biến
mạnh mẽ, nhất là công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Việc khởi tố, áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam được chính xác
hơn, góp phần làm giảm đáng kể tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không để làm oan người vô tội. Chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa của Kiểm sát
viên tiếp tục được nâng cao.
Viện trưởng VKSND tỉnh Bình Định đã chủ động đề ra các biện pháp đồng
bộ, hợp lý nên công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Có những cách làm mới, sáng tạo, thiết thực, hiệu quả do đó kết quả công tác hàng
năm đã đạt và vượt chỉ tiêu công tác của Ngành đề ra. Hàng năm, căn cứ chỉ thị,
chương trình kế hoạch công tác và yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở địa phương, Lãnh
đạo Ngành đã xây dựng chương trình kế hoạch công tác của đơn vị mình, chọn
những khâu đột phá đề ra các biện pháp, giải pháp cụ thể để tổ chức thực hiện có
hiệu quả từng khâu công tác, phân công nhiệm vụ và trách nhiệm cho từng bộ phận,
từng cán bộ, Kiểm sát viên, Chuyên viên; giải quyết hài hòa, đảm bảo sự phối hợp
nhịp nhàng giữa các khâu công tác; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát đối với
hoạt động của cán bộ, công chức trong cơ quan để thường xuyên chấn chỉnh, uốn
nắn, rút kinh nghiệm nghiêm túc, khắc phục kịp thời những thiếu sót, tồn tại. Do đó
chất lượng công tác được nâng cao rõ rệt: Việc giải quyết án đảm bảo đúng luật định,
20



không oan, sai; nhiều vụ án phức tạp được địa phương quan tâm đã được đưa ra truy
tố, xét xử kịp thời, đáp ứng yêu cầu chính trị địa phương,…Công tác kiểm sát các
hoạt động tư pháp đều đạt kết quả tốt. Qua đó, góp phần giữ vững ổn định về an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, phục vụ kịp thời tình hình chính trị tại
địa phương.
2. Một số thiếu sót, hạn chế
Việc triển khai thực hiện kế hoạch công tác hàng năm có lúc, có nơi còn chậm.
Các vướng mắc trong hoạt động nghiệp vụ còn chưa được tổng hợp, nghiên cứu và
hướng dẫn kịp thời. Một số quy chế, chế độ thông tin, báo cáo thực hiện chưa
nghiêm túc. Lãnh đạo ở một số đơn vị thiếu sâu sát, thiếu kiên quyết.
Công tác lãnh đạo, điều hành chưa phối hợp đồng bộ trong từng bộ phận hoặc
các bộ phận với nhau, hoặc giữa cấp trên với cấp dưới, hoặc không nắm chắc trình
độ, năng lực, kinh nghiệm của từng cán bộ, Kiểm sát viên. Còn nặng về chú trọng
công tác thực hành quyền công tố mà chưa chú trọng đến công tác kiểm sát các hoạt
động tư pháp và công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều
hành còn nặng về chương trình, kế hoạch mà chưa thường xuyên quan tâm sâu sát
đến biện pháp tổ chức thực hiện.
3. Một số nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế
Một trong những nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế nêu trên là do
chưa chú trọng tổng kết, rút kinh nghiệm công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong
Ngành. Cán bộ lãnh đạo VKSND các cấp, nhất là cấp huyện ít được bồi dưỡng về
kiến thức khoa học quản lý, chỉ đạo, điều hành.
Kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức hằng năm tuy đã có xây dựng và
tổ chức thực hiện theo kế hoạch, nhưng việc xem xét, tuyển chọn cán bộ đưa đi đào
tạo, bồi dưỡng còn một số trường hợp bất cập.
Công tác tuyên truyền, phổ biến Quy chế chưa được các cơ quan, đơn vị, địa
phương quan tâm đúng mức; sự phối hợp công tác giữa chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ; một số đơn vị thực hiện
chưa nghiêm chế độ thông tin, báo cáo.
CHƯƠNG III

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
QUẢN LÝ, CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH

21


1. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn
Ban cán sự đảng, Lãnh đạo VKSND tỉnh thường xuyên quan tâm rà soát, bổ
sung Quy chế hoạt động phù hợp với yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
Ngành và tình hình thực tế tại địa phương. Trên cơ sở đó, quán triệt sâu sắc đến toàn
thể cán bộ, công chức, người lao động trong toàn ngành để duy trì thực hiện nghiêm
túc, có nền nếp, hiệu quả các quy định trong Quy chế. Thông qua các buổi giao ban,
lãnh đạo Viện kịp thời nghe các đơn vị phản ánh những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ, trên cơ sở đó kịp thời chỉ đạo, định hướng và đề ra giải
pháp cụ thể để tổ chức thực hiện có hiệu quả các hoạt động thực hiện chức năng của
ngành.
Ngay từ đầu năm, căn cứ vào Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao về công
tác của VKSND, lãnh đạo VKSND tỉnh tập trung xây dựng kế hoạch công tác với
những chỉ tiêu nghiệp vụ và các biện pháp thực hiện cụ thể, đặc biệt là chú trọng xác
định các khâu công tác cần tạo ra sự đột phá. Đồng thời, chỉ đạo các đơn vị trong
ngành bám sát vào chức năng, nhiệm vụ được giao và tuỳ từng điều kiện cụ thể, xác
định rõ các chỉ tiêu công tác, nhất là những nội dung cần tạo ra bước đột phá để tổ
chức thực hiện trong từng đơn vị và từng khâu công tác.
Cùng với việc đề ra các biện pháp thực hiện cụ thể trong kế hoạch công tác
của ngành thì một trong các nội dung được lãnh đạo VKSND tỉnh đặc biệt quan tâm,
chú trọng là công tác thanh tra, kiểm tra. Chính vì vậy, để đảm bảo cho việc thực
hiện chương trình, kế hoạch công tác của các đơn vị trong ngành có chất lượng, hiệu
quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, lãnh đạo Viện chủ động xây dựng kế hoạch
kiểm tra việc xây dựng và triển khai thực hiện ở tất cả các đơn vị trong ngành.

Thông qua công tác kiểm tra đã xác định rõ những việc làm được và chưa làm được;
những khó khăn, vướng mắc, nhất là các vướng mắc trong các khâu công tác nghiệp
vụ kiểm sát; chỉ rõ những thiếu sót, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình tổ chức
thực hiện nhiệm vụ để đề ra định hướng, chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị.
Xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra cả năm; gắn việc thanh tra,
kiểm tra trực tiếp với việc đẩy mạnh hoạt động tự kiểm tra của các đơn vị.
Nhằm hỗ trợ tích cực cho công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, lãnh đạo
VKSND tỉnh phải xác định giải pháp quan trọng cần tập trung chỉ đạo thực hiện là
đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của
ngành.
2. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ
Để nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo, điều hành, cần đổi mới công tác tổ
chức cán bộ theo phương hướng sau:
22


2.1. Kiện toàn đội ngũ lãnh đạo VKSND các cấp, các đơn vị, nâng cao năng
lực quản lý, chỉ đạo, điều hành tiến tới tiêu chuẩn hóa các chức vụ lãnh đạo
Rà soát lại trình độ, năng lực của đội ngũ lãnh đạo các cấp, các đơn vị theo
các yêu cầu sau: Trình độ văn hóa và trình độ lý luận chính trị; trình độ chuyên môn
nghiệp vụ; số đã được đào tạo cơ bản và đào tạo không cơ bản; số có trình độ, năng
lực còn có thể đào tạo và số không còn khả năng đào tạo; đánh giá, phân loại khả
năng giải quyết công việc thực tế của họ; để từ đó có những đề xuất, biện pháp bồi
dưỡng lại, bố trí sắp xếp công việc hợp lý.
Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, quản lý cho những
đối tượng này để họ có thể nắm chắc, vận dụng thành thạo các thao tác nghiệp vụ
trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp để giúp họ
chỉ đạo tốt ở đơn vị mình.
Tiêu chuẩn hóa việc bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo: Người được bổ nhiệm vào
những chức vụ này phải tốt nghiệp Đại học Luật và đã qua đào tạo lớp nghiệp vụ

kiểm sát; tinh thông nghiệp vụ và có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ đối với cán bộ,
kiểm sát viên trong đơn vị và cấp dưới; người được bổ nhiệm phải là những Kiểm
sát viên có thời gian làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp ít nhất năm năm trở lên; người được bổ nhiệm phải có phẩm chất chính trị, đạo
đức nghề nghiệp; có kinh nghiệm tổ chức chỉ đạo, điều hành hoạt động chuyên môn
nghiệp vụ cũng như các hoạt động khác và quản lý đơn vị; có uy tín trong việc phối
kết hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Tòa án và các cơ
quan hữu quan.
2.2. Đổi mới các khâu công tác cán bộ như đánh giá; quy hoạch; đào tạo,
bồi dưỡng; bổ nhiệm, miễn nhiệm; điều động, luân chuyển cán bộ
Mục tiêu của công tác cán bộ là xây dựng đội ngũ cán bộ Kiểm sát trong sạch,
vững mạnh, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Vì vậy, cần phải nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,
năng lực công tác theo tiêu chí "Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về
pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”, đáp ứng yêu cầu tiêu
chuẩn hóa cán bộ trong thời kỳ mới. Như vậy, đổi mới công tác cán bộ phải tiến
hành đồng bộ, theo một lộ trình thích hợp và có trọng tâm, trọng điểm.
Đổi mới khâu đánh giá cán bộ: Cần phải đảm bảo tính khách quan, toàn diện,
tính lịch sử cụ thể; phát huy đầy đủ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, lấy kết quả,
hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chủ yếu trong đánh giá cán bộ. Cần phải
tiến hành thường xuyên, theo định kỳ hàng năm và trước khi đề bạt, bổ nhiệm, luân
chuyển cán bộ để đưa vào hồ sơ, giúp cơ quan quản lý nắm và hiểu được cán bộ.
23


Đổi mới khâu quy hoạch cán bộ: phải bảo đảm nguyên tắc Đảng lãnh đạo
công tác cán bộ, theo cơ chế tập thể cấp ủy quyết định trên cơ sở đề xuất của người
đứng đầu cơ quan, đơn vị và sự đề cử của cấp dưới. Hơn nữa, phải thực sự gắn kết
với các khâu khác trong công tác cán bộ như nhận xét, đánh giá cán bộ; đào tạo, bồi
dưỡng; luân chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ để có nguồn cán bộ tốt nhất.

Mặc khác, cần đảm bảo sự công bằng, dân chủ, công khai trong quy hoạch cán bộ để
lựa chọn nhân tài nhằm sử dụng những cán bộ xứng đáng và ưu tú nhất.
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: Cần xây dựng chiến lược đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ lâu dài, có lộ trình cụ thể, mục đích và xác định những nhiệm
vụ trước mắt và lâu dài cho công tác này. Bên cạnh đó, cần có chính sách khuyến
khích cán bộ đi học nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại
ngữ, tin học..; có chính sách đào tạo cán bộ trẻ, trong diện quy hoạch.
Đổi mới công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ: Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm
chức danh Kiểm sát viên cần được tiếp tục nghiên cứu trên cơ sở Kết luận số 79 –
KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của
Tòa án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49 – NQ/TW, để xây
dựng các tiêu chuẩn Kiểm sát viên các cấp cho phù hợp để làm cơ sở cho việc bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại Kiểm sát viên toàn ngành.
Đổi mới công tác điều động, luân chuyển cán bộ: Công tác điều động cán bộ
cần phải xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo sự cân đối, đồng đều theo yêu cầu công việc
của địa phương, đơn vị. Điều động cán bộ bao gồm điều động lên, điều động xuống,
điều động ngang. Công tác luân chuyển cán bộ cần xác định rõ tiêu chuẩn cán bộ
luân chuyển, kết hợp luân chuyển với điều động (chỉ thực hiện luân chuyển đối với
cán bộ lãnh đạo quản lý, trong quy hoạch, có triển vọng phát triển). Đặc biệt, phải
căn cứ vào năng lực, sở trường của cán bộ và đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ của địa
phương, đơn vị để luân chuyển và bố trí công việc phù hợp với cán bộ luân chuyển.
Bên cạnh đó, cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra định kỳ sơ kết, rút kinh nghiệm,
từng bước đưa công tác luân chuyển cán bộ vào nền nếp, có chất lượng và hiệu quả
cao
2.3. Tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ; hoàn
thiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ kiểm sát.

24



Khen thưởng cho các cá nhân có tinh thần học tập nâng cao trình độ trong 6 tháng đầu
năm 2017 của ngành KSND Bình Định

Để quản lý tốt đội ngũ cán bộ cần tiến hành đổi mới việc phân công, phân cấp quản
lý cán bộ nhằm xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp quản lý, theo hướng
phân cấp mạnh hơn cho các Viện Kiểm sát địa phương, bảo đảm nguyên tắc và trách
nhiệm của lãnh đạo Viện Kiểm sát địa phương trong việc quản lý đội ngũ cán bộ.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ phải trên cơ sở đánh giá, tuyển chọn, đảm bảo
đúng tiêu chuẩn, đúng khả năng, sở trường.
Việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ chính trị và
nghiệp vụ, thực hiện đúng lương tâm và trách nhiệm của người cán bộ kiểm sát là
yêu cầu có tính thường xuyên, liên tục. Mặt khác, cần tăng cường công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, bản lĩnh, ý thức tổ chức
kỷ luật để mỗi cán bộ nâng cao ý thức chính trị, đạo đức, lối sống.
Thực hiện chế độ, chính sách cán bộ có vai trò quan trọng trong công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ. Chế độ, chính sách được đảm bảo là một động lực quan trọng
giúp cho cán bộ yên tâm công tác, yêu ngành, yêu nghề, gắn bó với nghề. Hệ thống
chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ gồm có: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ; chính sách sử dụng và quản lý cán bộ; chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và
tinh thần đối với cán bộ. Ngành kiểm sát đã chủ động, xây dựng một số chính sách
đặc thù để đề nghị Đảng, Nhà nước quyết định cho cán bộ của ngành, góp phần
25


×