Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.84 KB, 15 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhân loại đang đứng trước sự phát triển thần kì của khoa học công nghệ, nước
Việt Nam nói chung và ngành giáo dục nói riêng phải đầu tư thích đáng cho sự nghiệp
giáo dục.Điều đó đặt ra yêu cầu phải kịp thời đào tạo ra một thế hệ trẻ năng động, sáng
tạo, nắm vững tri thức khoa học công nghệ để làm chủ trong mọi hoàn cảnh công tác và
hoạt động xã hội trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ngày nay khi đất nước bước sang giai đoạn mới, mục tiêu giáo dục của nhà
trường phổ thông được xác định rõ trong luật giáo dục: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là
giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản
nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và
trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” (Luật giáo dục - Điều 23)
Nghị quyết 29 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI đặt ra yêu cầu đối
với tất cả các cấp học, trong đó có cấp THCS: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp
dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người
học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
Đổi mới là một yêu cầu tất yếu để tồn tại và phát triển. Sự nghiệp đổi mới giáo
dục đã được Đảng và nhà nước khảng định là vai trò quan trọng cấp thiết trong hệ thống
“Đổi mới sự nghiệp giáo dục”, là nền tảng, là động lực thúc đẩy công nghiệp hoá- hiện
đại hoá đất nước để Việt Nam từng bước vững vàng khi hội nhập vào nền kinh tế thế
giới. Như vậy, để thực hiện quá trình đổi mới giáo dục không chỉ đổi mới về nội dung
chương trình SGK mà còn phải đổi mới về cả phương pháp Dạy - Học. Đây là hai vấn
đề có mối liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục trong
giai đoạn mới.
Để nâng cao chất lượng dạy - học nói chung, giờ học lịch sử nói riêng là mục tiêu
phấn đấu của tất cả các giáo viên trong nhà trường hiện nay. Nó là kết quả của sự suy
nghĩ và tìm tòi lớn về sư phạm, là kết quả tổng hợp của những nguyên lí khoa học của
việc dạy học và của nghệ thuật sư phạm. Vậy, làm thế nào để nâng cao hiệu quả dạy học


lịch sử theo phương pháp đổi mới và làm cho học sinh yêu thích môn Lịch sử là điều
băn khoăn, trăn trở của nhiều giáo viên đứng lớp. Điều trăn trở đó chỉ thực hiện được
khi đổi mới phương pháp dạy học từ bài soạn, tổ chức hoạt động học tập cho học sinh
đến việc sử dụng thiết bị và đổi mới kiểm tra đánh giá. Nói đến đổi mới phương pháp
dạy học là một phạm vi rất rộng đòi hỏi người đứng lớp phải có một tâm huyết nghề
1


nghiệp, nắm chắc “cái thần” của sự đổi mới để từ đó chắt lọc, điều chỉnh nhằm đổi mớí
phương pháp dạy học. Trong bài viết này tôi đề cập đến một vấn đề trọng tâm để nâng
cao chất lượng bộ môn lịch sử đó là “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học
môn Lịch sử ở THCS” để một lần nữa khảng định vai trò quan trọng của việc đổi mới
phương pháp dạy học ở trường Trung học cơ sở nói chung và môn lịch sử nói riêng.

2


1.2. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Cải tiến những giải pháp đã có trong việc đổi mới phương pháp dạy học nâng cao
chất lượng dạy và học môn Lịch sử.
Đưa ra một số giải pháp mới đổi mới phương pháp dạy học nâng cao chất lượng
dạy và học môn Lịch sử
1.3. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.3.1. Phạm vi nghiên cứu.
Áp dụng đối với học sinh năm học 2016-2017 và học kì I năm học 2017-2018.
1.3.2. Khách thể nghiên cứu.
Đổi mới phương pháp dạy học trong dạy học Lịch sử tại trường THCS.
1.3.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu việc Đổi mới phương pháp dạy học trong dạy học
Lịch sử tại trường THCS.

2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. THỰC TRẠNG CỦA NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU
Trong những năm gần đây việc đổi mới phương pháp dạy học được các cấp,
ngành giáo dục đào tạo nói chung và Giáo dục Lệ Thủy nói riêng đặc biệt quan tâm. Xác
định được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc đổi mới PPDH từ năm học 2016-2017
Phòng Giáo dục và Đào tạo Lệ Thủy triển khai chỉ đạo thực hiện chỉ đạo đổi mới
phương pháp dạy học qua công văn số 692/GD&ĐT-THCS ngày 14 tháng 9 năm 2016
với các nội dung:
- Tổ chức thực hiện quyết liệt việc đổi mới PPDH trong các tiết dạy trên lớp, thao
giảng dự giờ, sinh hoạt chuyên môn liên trường theo tinh thần Công văn 5555/BGDĐTGDTrH ngày 08/10/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Thực hiện đổi mới PPDH trên cơ sở vận dụng những nét tích cực của mô hình
trường học mới, cụ thể:
+ Trong mỗi tiết dạy, tùy theo yêu cầu từng kiểu bài, yêu cầu giáo viên linh hoạt
sử dụng 4 hình thức học tập: học cá nhân, học cặp đôi, học nhóm, học toàn lớp
+ Thực hiện tốt sự tương tác giữa thầy và trò, trò và trò theo phương châm “thầy
nói ít, trò học nhiều”
Trước yêu cầu về đổi mới PPDH, đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, nâng cao
chất lượng dạy học các trường trung học cơ sở và giáo viên trên địa bàn Lệ Thủy đã
hưởng ứng tích cực và bước đầu có nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn
có một số nguyên nhân cả về phía giáo viên, cả về phía học sinh, cả về phía cơ sở vật
chất lẫn cả về phía phụ huynh học sinh dẫn đến chất lượng dạy-học môn Lịch sử vẫn còn
nhiều băn khoăn, lo lắng.
3


2.1.2. Về giáo viên.
Việc thay đổi chương trình lẫn phương pháp giảng dạy mới khiến nhiều giáo viên
thực sự lúng túng. Trong một tiết dạy, nhiều giáo viên thiếu vận dụng linh hoạt, chỉ sử
dụng một phương pháp, nhiều giáo viên chỉ nghiêng về nói lại nội dung SGK làm cho
tiết học đơn điệu, giờ học diễn ra rất nhàm chán, học sinh không thể phát huy được tính

tích cực học tập của mình. Thậm chí chỉ vì lo hoàn thành khối lượng kiến thức mà nhiều
giáo viên đã không chú trọng đến đối tượng học sinh yếu (nếu không muốn nói là bỏ
qua).
Phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử của một số giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu
đổi mới hiện nay. Chưa tạo được hứng thú cho học sinh.
Một bộ phận giáo viên chưa nhận thức được tầm quan tròn của TBDH trong việc
nâng cao chất lượng. Một số giáo viên có trình độ, khả năng ứng dụng CNTT còn hạn
chế nên ngại sử dụng trong quá trình thiết kế bài giảng và dạy học.
2.1.3. Về học sinh.
Đã qua nhiều năm thực hiện đổi mới, nhìn chung đại đa số học sinh đã tiếp cận
được với nội dung, kiến thức, chương trình và phương pháp dạy học mới, song quá trình
tiếp thu của học sinh chưa đồng đều, chưa linh hoạt trong quá trình hoạt động của mình,
việc tiếp cận với phương pháp dạy học mới và thiết bị dạy học mới đối với một số học
sinh còn khó khăn do đó kết quả tiếp thu của học sinh chưa đạt kết quả cao.
Học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn học, nhiều học sinh coi
môn Lịch sử là “môn phụ” vì vậy các em ít chú ý nghe giảng; Do đó chưa có sự đầu tư
thời gian, công sức, chưa nỗ lực vượt khó học tập vì vậy cấp càng khó hơn. Nhiều học
sinh đến giờ học không chú ý tập trung, về nhà không chịu làm bài tập, không chịu khó
rèn luyện học hỏi nên không thể tiến bộ được.
Một yếu tố ảnh hưởng sâu sắc đến sự thành công của việc học tập nói chung và
học Lịch sử nói riêng đó chính là thái độ học tập. Các em ghi chép một cách máy móc
những gì giáo viên ghi trên bảng và chỉ học thuộc lòng những gì ghi trong vở thậm chí là
không học bài chứ chưa nói đến việc kết hợp với SGK để giải quyết các câu hỏi trong
sách.
2.1.4. Cơ sở vật chất thiết bị phục vụ dạy học môn Lịch sử.
Trong những năm gần đây, do yêu cầu của đổi mới sự nghiệp giáo dục, CSVC của
nhà trường được tăng trưởng mạnh. Song ở một số trường phương tiện dạy học chưa đầy
đủ, cơ sở vật chất chưa đảm bảo, đồ dùng dạy học chưa đủ phục vụ hết các tiết dạy, giáo
viên phải tìm thêm các tranh ảnh, đồ dùng có liên quan khác. Một số tranh có hình ảnh
không rõ ràng gây khó khăn cho giáo viên trong việc khai thác ý nghĩa, nội dung tranh


4


để hướng dẫn học sinh vào bài học. Sách tham khảo, các loại từ điển và các sách công
cụ khác trong thư viện chưa phong phú.
Trang thiết bị hiện đại, thiết bị ứng dụng CNTT của các trường còn nghèo nàn và
chưa được khai thác và sử dụng hợp lý nếu có.
2.2. CÁC GIẢI PHÁP.
2.2.1. Xây dựng và thiết kế giáo án khoa học
Đổi mới chương trình giáo dục và cùng với nó là đổi mới phương pháp dạy học
(PPDH) và đổi mới đánh giá là những phương diện thể hiện sự quyết tâm cách tân, đem
lại những thay đổi về chất lượng và hiệu quả giáo dục. Và ở khía cạnh hoạt động, tất cả
những đổi mới này đều được biểu hiện sinh động trong mỗi giờ học qua hoạt động của
người dạy và người học. Chính vì thế những câu hỏi như: Làm thế nào để có một giờ
học tốt? Đánh giá một giờ học tốt như thế nào cho chính xác, khách quan, công bằng?
luôn có tính chất thời sự và thu hút sự quan tâm của tất cả các giáo viên (GV) và cán bộ
quản lí giáo dục.
Một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp
tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động
tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học. Ngoài những
yêu cầu có tính chất truyền thống như: bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học,
đặc trưng môn học; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh (HS); giờ học
đổi mới PPDH còn có những yêu cầu mới như: được thực hiện thông qua việc GV tổ
chức các hoạt động học tập cho HS theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp
tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; được thực hiện theo
nguyên tắc tương tác nhiều chiều: giữa GV với HS, giữa HS với nhau (chú trọng cả hoạt
động dạy của người dạy và hoạt động học của người học).
Về bản chất, đó là giờ học có sự kết hợp giữa học tập cá thể (hình thức học cá

nhân) với học tập hợp tác (hình thức học theo nhóm, theo lớp); chú trọng kết hợp học
với hành, nâng cao tri thức với rèn luyện các KN, gắn với thực tiễn cuộc sống; phát huy
thế mạnh của các PPDH tiên tiến, hiện đại; các phương tiện, thiết bị dạy học và những
ứng dụng của công nghệ thông tin…; chú trọng cả hoạt động đánh giá của GV và tự
đánh giá của HS.
Ngoài việc nắm vững những định hướng đổi mới PPDH như trên, để có được
những giờ dạy học tốt, người GV cần phải nắm vững các kĩ thuật dạy học. Chuẩn bị và
thiết kế một giờ học cũng là một hoạt động cần có những kĩ thuật riêng.
2.2.1.1. Quy trình chuẩn bị một giờ học theo định hướng đổi mới PPDH.
5


Hoạt động chuẩn bị cho một giờ dạy học đối với GV thường được thể hiện qua
việc chuẩn bị giáo án. Đây là hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho một bài học cụ
thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa GV với HS, giữa HS với HS nhằm đạt được
những mục tiêu của bài học.
Căn cứ trên giáo án, có thể vừa đánh giá được trình độ chuyên môn và tay nghề sư
phạm của GV vừa thấy rõ quan niệm, nhận thức của họ về các vấn đề giáo dục như: mục
tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, cách sử dụng PPDH, thiết bị DH, hình thức tổ chức
dạy học và cách đánh giá kết quả học tập của HS trong mối quan hệ với các yếu tố có
tính chất tương đối ổn định như: kế hoạch, thời gian, cơ sở vật chất và đối tượng HS.
Chính vì thế, hoạt động chuẩn bị cho một giờ học có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng,
quyết định nhiều tới chất lượng và hiệu quả giờ dạy học.
Các bước thiết kế một giáo án
- Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng và
yêu cầu về thái độ trong chương trình. Bước này được đặt ra bởi việc xác định mục tiêu
của bài học là một khâu rất quan trọng, đóng vai trò thứ nhất, không thể thiếu của mỗi
giáo án. Mục tiêu (yêu cầu) vừa là cái đích hướng tới, vừa là yêu cầu cần đạt của giờ
học; hay nói khác đi đó là thước đo kết quả quá trình dạy học. Nó giúp GV xác định rõ
các nhiệm vụ sẽ phải làm (dẫn dắt HS tìm hiểu, vận dụng những KT, KN nào; phạm vi,

mức độ đến đâu; qua đó giáo dục cho HS những bài học gì).
- Bước 2: Nghiên cứu SGK và các tài liệu liên quan để: hiểu chính xác, đầy đủ
những nội dung của bài học; xác định những KT, KN, thái độ cơ bản cần hình thành và
phát triển ở HS; xác định trình tự logic của bài học.
Bước này được đặt ra bởi nội dung bài học ngoài phần được trình bày trong SGK
còn có thể đã được trình bày trong các tài liệu khác; trước hết nên đọc kĩ nội dung bài
học và hướng dẫn tìm hiểu bài trong SGK để hiểu, đánh giá đúng nội dung bài học rồi
mới chọn đọc thêm tư liệu để hiểu sâu, hiểu rộng nội dung bài học.
Mỗi GV không chỉ có kĩ năng tìm đúng tư liệu cần đọc mà cần có kĩ năng định
hướng cách chọn, đọc tư liệu cho HS. GV nên chọn những tư liệu đã qua thẩm định,
được đông đảo các nhà chuyên môn và GV tin cậy.
Việc đọc SGK, tài liệu là để tìm nội dung chính xác định những kiến thức, kĩ năng
cơ bản, trọng tâm mức độ yêu cầu và phạm vi cần đạt; đọc để tìm những thông tin quan
tâm: các mạch, sự bố cục, trình bày các mạch kiến thức, kĩ năng và dụng ý của tác giả;
đọc để phát hiện và phân tích, đánh giá các chi tiết trong từng mạch kiến thức, kĩ năng.
Nếu nắm vững nội dung bài học, GVsẽ phác họa những nội dung và trình tự nội dung
của bài giảng phù hợp, thậm chí có thể cải tiến cách trình bày các mạch kiến thức, kĩ

6


năng của SGK, xây dựng một hệ thống câu hỏi, bài tập giúp HS nhận thức, khám phá,
vận dụng các kiến thức, kĩ năng trong bài một cách thích hợp.
- Bước 3: Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức của HS, gồm: xác
định những kiến thức, kĩ năng mà HS đã có và cần có; dự kiến những khó khăn, những
tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải quyết.
Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới PPDH, GV
không những phải nắm vững nội dung bài học mà còn phải hiểu HS để lựa chọn PPDH,
phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học và đánh giá cho phù hợp. Như vậy,
trước khi soạn giáo án cho giờ học mới, GV phải lường trước các tình huống, các cách

giải quyết nhiệm vụ học tập của HS. Nói cách khác, tính khả thi của giáo án phụ thuộc
vào trình độ, năng lực học tập của HS, được xuất phát từ : những kiến thức, kĩ năng mà
HS đã có một cách chắc chắn, vững bền; những kiến thức, kĩ năng mà HS chưa có hoặc
có thể quên; những khó khăn có thể nảy sinh trong quá trình học tập của HS. Bước này
chỉ là sự dự kiến; nhưng trong thực tiễn, có nhiều giờ học do không dự kiến trước, GV
đã lúng túng trước những ý kiến không đồng nhất của HS với những biểu hiện rất đa
dạng. Do vậy, dù mất công nhưng mỗi GV nên dành thời gian để xem qua bài soạn của
HS trước giờ học kết hợp với kiểm tra đánh giá thường xuyên để có thể dự kiến trước
khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức cũng như phát huy tích cực vốn kiến thức, kĩ
năng đã có của HS.
- Bước 4: Lựa chọn PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và
cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo.
Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới PPDH, GV phải
quan tâm tới việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen
và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, KN vận dụng KT vào những tình huống khác
nhau trong học tập và trong thực tiễn; tác động đến tư tưởng và tình cảm để đem lại
niềm vui, hứng thú trong học tập cho HS. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, các GV vẫn
quen với lối dạy học đồng loạt với những nhiệm vụ học tập không có tính phân hoá, ít
chú ý tới năng lực học tập của từng đối tượng HS. Đổi mới PPDH sẽ chú trọng cải tiến
thực tiễn này, phát huy thế mạnh tổng hợp của các PPDH, PTDH, hình thức tổ chức dạy
học và cách thức đánh giá nhằm tăng cường sự tích cực học tập của các đối tượng HS
trong giờ học.
- Bước 5: Thiết kế giáo án.
Đây là bước người GV bắt tay vào soạn giáo án - thiết kế nội dung, nhiệm vụ,
cách thức hoạt động, thời gian và yêu cầu cần đạt cho từng hoạt động dạy của GV và
hoạt động học tập của HS. Trong thực tế, có nhiều GV khi soạn bài thường chỉ đọc
SGK, sách GV và bắt tay ngay vào hoạt động thiết kế giáo án; thậm chí, có GV chỉ căn
7



cứ vào những gợi ý của sách GV để thiết kế giáo án bỏ qua các khâu xác định mục tiêu
bài học, xác định khả năng đáp ứng nhiệm vụ học tập của HS, nghiên cứu nội dung dạy
học, lựa chọn các PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức
đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Cách làm như
vậy không thể giúp GV có được một giáo án tốt và có những điều kiện để thực hiện một
giờ dạy học tốt. Về nguyên tắc, cần phải thực hiện qua các bước 1, 2, 3, 4 trên đây rồi
hãy bắt tay vào soạn giáo án cụ thể.
2.2.1.2. Cấu trúc của một giáo án được thể hiện ở các nội dung sau:
- Mục tiêu bài học:
+ Nêu rõ yêu cầu HS cần đạt về KT, KN, thái độ;
+ Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể, có thể lượng hoá được.
- Chuẩn bị về phương pháp và phương tiện dạy học:
+ GV chuẩn bị các thiết bị dạy học (tranh ảnh, mô hình, hiện vật, hoá
chất...), các phương tiện dạy học (máy chiếu, TV, đầu video, máy tính, máy projector...)
và tài liệu dạy học cần thiết;
+ Hướng dẫn HS chuẩn bị bài học (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu
và đồ dùng học tập cần thiết).
- Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ cách thức triển khai các hoạt động
dạy- học cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ:
+ Tên hoạt động ;
+ Mục tiêu của hoạt động;
+ Cách tiến hành hoạt động;
+ Thời lượng để thực hiện hoạt động;
+ Kết luận của GV về: những KT, KN, thái độ HS cần có sau hoạt động;
những tình huống thực tiễn có thể vận dụng KT, KN, thái độ đã học để giải quyết; những
sai sót thường gặp; những hậu quả có thể xảy ra nếu không có cách giải quyết phù
hợp;...
- Hướng dẫn các hoạt động tiếp nối: xác định những việc HS cần phải tiếp tục
thực hiện sau giờ học để củng cố, khắc sâu, mở rộng bài cũ hoặc để chuẩn bị cho việc
học bài mới.

Sự thành công của một giờ dạy theo định hướng đổi mới PPDH phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo của cả người
dạy và cả người học. Dù ở điều kiện và hoàn cảnh nào, sự chuẩn bị chu đáo theo quy
trình trên đều đem lại những giờ học có hiệu quả, bổ ích và hứng thú đối với cả người
dạy, người học.

8


2.2.2. Đa dạng hóa hình thức học tập bằng tổ chức linh hoạt hoạt động nhóm.
Việc khuyến khích học sinh hợp tác với các thành viên khác trong lớp góp phần
tạo lập nên cộng đồng, gia tăng sự đoàn kết và khiến việc học trở nên tích cực hơn. Tuy
nhiên, quyết định xem có nên cho hoạt động nhóm hay không và tổ chức như thế nào,
việc đó có thể làm bạn cảm thấy mệt mỏi.
Bởi vì làm việc nhóm có thể là một thách thức và phức tạp, nhiều giáo viên hoặc
là tránh không cho hoạt động nhóm hoặc giữ học sinh ở những nhóm cố định. Duy trì
các “nhóm cố định” trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Họ không có sự điều chỉnh
thường xuyên tùy theo mục đích của bài tập và hồ sơ đánh giá học sinh. Điều này có thể
tước đi cơ hội cho học sinh được học hỏi và phát triển các mối quan hệ với tất cả các bạn
trong lớp.
Ngược lại, nhóm linh hoạt, sắp xếp học sinh một cách có chủ ý và thay đổi thường
xuyên tùy theo các trải nghiệm học tập trong một khoảng thời gian tương đối ngắn (ví
dụ: một hoặc hai tuần). Hoạt động nhóm kết nối với nhiệm vụ học tập và dựa trên kết
quả đánh giá lớp học cũng như các đặc điểm khác của học sinh.
Qua quá trình tổ chức hoạt động nhóm linh hoạt tôi nhận thấy có ba lợi thế so với
hoạt động nhóm cố định, cụ thể như sau:
+ Thứ nhất: Hoạt động nhóm linh hoạt kết nối các học sinh với nhau.
Bất cứ khi nào học sinh hoạt động trong một nhóm nhỏ, họ tách biệt với phần còn
lại của lớp. Với nhóm linh hoạt, sự tách biệt là tạm thời. Sau một khóa học kéo dài nhiều
ngày, nhiều tuần, nhiều tháng, học sinh cộng tác với nhiều người khác theo những cách

mới mà không phải thực hiện những buổi hoạt động cả nhóm, cá nhân hoặc tương tác
trong một nhóm nhỏ cố định. Hoạt động nhóm linh hoạt củng cố tình cảm trong lớp học.
+ Thứ hai: Hoạt động nhóm linh hoạt đưa học sinh đến với những quan điểm mới
và khác biệt.
Cũng như người lớn, trẻ em ở mọi lứa tuổi bị lôi cuốn bởi những người giống họ –
người chia sẻ quan điểm với họ, có cùng trải nghiệm, sở thích và dường như cùng có sự
đánh giá cao với một số thứ. Nhu cầu kết bạn là chuyện bình thường và rất có ích. Tuy
nhiên, học sinh có thể rất thoải mái hoặc có xích mích với cùng những thành viên trong
nhóm ở trong hoặc ngoài không gian lớp học. Nhóm linh hoạt tách học sinh ra khỏi vùng
thoải mái và buộc họ làm việc chung với những người mà họ không thể từ chối để trải
nghiệm những mối quan hệ mới.
+ Thứ ba: Nhóm linh hoạt chống lại sự khác biệt
Khi tiến hành hoạt động nhóm linh hoạt giáo viên đã gửi thông điệp mạnh mẽ đến
học sinh về vai trò của giáo viên đối với lớp học. Khi được sắp nhóm, hầu hết học sinh
sẽ đặt ra các câu hỏi: Ai cùng nhóm với mình? Chúng tôi sẽ làm gì? Họ sẽ làm gì?…
9


Học sinh đang tiến hành một dạng thức kiểm tra “độ cứng của giáo viên” cũng như niềm
tin của giáo viên đối với năng lực học tập của học sinh. Nhóm linh hoạt làm đã thử thách
người học ở chỗ họ bị sắp xếp làm việc với người khác theo những mục đích của giáo
viên. Các nhóm đôi khi được chia dựa trên độ sẵn sàng của học sinh hoặc cấp độ kĩ năng
nhưng các thành viên trong nhóm kết nối với nhau dựa trên mối quan tâm, sở thích học
tập, trải nghiệm,…
Khi lên kế hoạch tổ chức nhóm linh hoạt, những điều đầu tiên phải cân nhắc là
mục đích và thời lượng: học sinh sẽ làm gì trong nhóm, tại sao họ sẽ làm như thế và làm
trong bao lâu? Học sinh có cơ hội thực hành hoặc vận dụng một kĩ năng? Tìm tòi kiến
thức hay những ý tưởng mới? Phân tích một bài thơ hay dữ liệu trong một bài nghiên
cứu? Làm dự án ngắn hay dài hạn? Dù “lí do” là gì thì nó cũng phải phù hợp với hoạt
động nhóm – đó là một nhiệm vụ nằm trong hệ thống hơn là đứng riêng lẻ.

Từ những yếu tố trên, chúng ta phải xây dựng kế hoạch tổ chức nhóm linh hoạt.
Để giải quyết tốt vấn đề này, giáo viên phải trả lời dược các câu hỏi sau:
- Học sinh có nên ở trong nhóm lớn hay là làm việc theo cặp?
- Cho tự đọc hay đọc theo nhóm ba?
- Nhóm bốn người quá to hay quá nhỏ cho trò ghép hình?
- Học sinh có thể tự chọn nhóm không, hay là giáo viên nên chọn?
- Có phải cấp độ kĩ năng ảnh hưởng phần lớn đến các bài tập nhóm, hay là sở
thích?
2.2.3. Tăng cường khai thác thiết bị dạy học và ứng dụng CNTT.
Phương pháp dạy học mới đã và đang được nghiên cứu, áp dụng ở trường phổ
thông như: dạy học nêu vấn đề, dạy học tích cực, dạy học lấy học sinh làm trung tâm,
dạy học theo dự án, dạy học với sự hỗ trợ của công nghệ… . Tất cả đều nhằm mục đích
tích cực hoá hoạt động của học sinh, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh. Việc
đổi mới nâng cao hiệu quả phương pháp dạy - học bất kỳ giai đoạn nào đều cần sử dụng
tới công nghệ.
Kiến thức lịch sử là kiến thức về quá khứ. Có những sự kiện đã diễn ra cách ngày
nay hàng trăm, hàng ngàn năm thậm chí lâu hơn. Yêu cầu bộ môn đòi hỏi, khi nhận thức
học sinh phải tái hiện những sự kiện, hiện tượng đó một cách sống động như đang diễn
ra trước mắt mình. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử làm cho giờ học
trở nên sinh động, không bị khô khan, tẻ nhạt, lôi cuốn được học sinh học tập tích cực,
chủ động, tạo cho các em động cơ và không khí học tập thoải mái. Đặc biệt đối với bộ
môn Lịch sử công nghệ thông tin làm nhiệm vụ hỗ trợ cho các phương pháp dạy học
khác, cho nên giáo viên có thể ứng dụng nó để hỗ trợ cho việc tường thuật, hoặc miêu tả
các sự kiện, hiện tượng lịch sử... kết hợp với lời trình bày sinh động.
10


Hiện nay với những phương tiện dạy học hiện đại, các phần mềm hỗ trợ dạy học
thì việc ứng dụng CNTT vào quá trình dạy học sẽ tạo ra khả năng tái hiện các sự vật
hiện tượng một cách gián tiếp, nó góp phần tạo nên trong ý thức của học sinh những

hình ảnh trực quan cảm tính của sự vật hiện tượng, là tiền đề của tư duy theo quan điểm
nhận thức: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn".
2.2.3.1. Ứng dụng CNTT tạo ảnh động tái hiện sự kiện.
Ưu thế của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử là bằng các
hiệu ứng giáo viên có thể làm cho học sinh thấy được sự sinh động trong diễn biến các
trận đánh và thấy được sự quyết liệt trong mỗi sự kiện... Một bản đồ động sẽ hứng thú
hơn nhiều so với bản đồ tĩnh, tuy nhiên việc thiết kế một bản đồ điện tử là một vấn đề rất
khó làm đối với giáo viên. Phương pháp này có thể áp dụng cho rất nhiều bài trong
chương trình của bộ môn Lịch sử đặc biệt là các bài có diễn biến của phong trào cách
mạng, các trận đánh lớn.
2.1.3.2. Ứng dụng CNTT tạo video tường thuật diễn biến lịch sử.
Có thể nói các thước phim tư liệu là nguồn tư liệu sống trong dạy học lịch sử bởi
qua những thước phim này các em biết luôn được về thời kì quá khứ hào hùng của dân
tộc. Tùy theo nội dung của bài giáo viên có thể đưa vào những đoạn phim tư liệu, hoặc
thiết kế những video ảnh phù hợp làm phong phú thêm bài học, đồng thời thay đổi
không khí trong một giờ học Lịch sử. Hiện nay với nhiều phần mềm thiết kế video ảnh
đơn giản giáo viên có thể tự thiết kế cho mình một video để phục vụ giảng dạy.
LÀM VIDEO TỪ ẢNH BẰNG PROSHOW PRODUCER
Bước 1: Mở chương trình.
Bước 2: Tại tùy chọn Buil bạn bắt đầu xây dựng tạo video, tại mục Foder list dẫn
đến nơi chứa ảnh muốn tạo thành video.
Bước 3: Sau khi dẫn đến nơi chứa ảnh mục file List sẽ liệt kê và hiện thị các ảnh
có trong đó, kích đúp vào ảnh muốn cho vào clip hoặc nhấn chuột phải và chọn add to
show để thêm ảnh vào clip
Bước 4: Nếu muốn chèn nhạc vào clip bạn kéo thả bài hát vào mục Soundtrack
Bước 5: Thiết lập các tùy chọn cho ảnh, click phải chuột vào ảnh đã được chọn và
chọn slide options. Một cửa sổ mới hiện ra, tại mục caption Setting cho phép bạn thêm
text vào video, nhấn biểu tượng dấu (+) ở mục caption sau đó viết đoạn văn bản vào
mục selection caption text, bạn cũng có thể chỉnh sửa màu sắc, cỡ chữ,... cho text với

các tùy chọn ở bên dưới.

11


Chuyển qua tùy chọn Effects, tại đây tiến hành chỉnh sửa các hiệu ứng của ảnh,
văn bản khi chạy ảnh, thay đổi từ cảnh này sang cách khác, kích vào layer để thay đổi
ảnh, hiệu ứng…
Bước 6: Chọn khoảng thời gian chuyển đổi giữa các hình ảnh, quan sát ở phía các
bức ảnh đã được chọn kích đúp vào các số và chỉnh lại khoảng thời gian chuyển đổi ảnh,
châm hay nhanh đơn vị tính bằng giây(s)
Bước 7: Sau khi chỉnh sửa thiết lập xong, chuyển qua tùy chọn Publish, chọn
định dạng và mục đích video muốn xuất ra sau đó nhấn Create. Thiết lập các thông số
sau đó nhấn Create để xuất video
Với các thao tác cơ bản để tạo 1 video hoàn thiện từ những bức ảnh có sẵn bằng
phần mềm ProShow Producer, bây giờ chúng ta có thể tự tạo cho mình những đoạn
video với những bức ảnh phục vụ bài học.
2.1.4. Ứng dụng CNTT để tổng kết, củng cố bài học.
Bản đồ tư duy - giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp
học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục
tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em
này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên
kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những
phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự
ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành
thạo BĐTD trong dạy học HS sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ
động, sáng tạo và phát triển tư duy.
Bản đồ tư duy - giúp HS học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu
cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự
suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng bản đồ tư duy giúp

HS học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
2.1.4. Ứng dụng CNTT để kiểm tra đánh giá khách quan.
Để việc dạy và học môn Lịch sử đạt được kết quả tốt, ngoài yếu tố giảng dạy,
truyền đạt kiến thức, việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập cũng là một vấn đề hết sức
quan trọng. Căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá, chúng ta sẽ thấy được hiệu quả của
việc giảng dạy. Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh là một yêu cầu
cần thiết và cấp bách, nhằm đảm bảo tính khoa học, chính xác, khách quan, giúp người
dạy và người học nhìn nhận được đúng thực chất của việc dạy học, từ đó có những biện
pháp thiết thực để nâng cao chất lượng dạy học.
Nhưng việc sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử
nói riêng là một trong những biện pháp rất quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy
12


của học sinh. Quá trình hoạt động chung, thống nhất giữa thầy và trò sẽ làm cho học
sinh nắm vững hơn những tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và bồi dưỡng phẩm chất
đạo đức, hình thành nhân cách cho các em. Mặt khác nhằm giảm bớt số lượng học sinh
học yếu kém môn Lịch sử trong nhà trường và phát huy hết năng lực của học sinh khá
giỏi; giúp các em nắm chắc được kiến thức bài học và hiểu sâu hơn các sự kiện, hiện
tượng, nhân vật lịch sử.
Việc tích cực ứng dụng CNTT để tổ chức kiểm tra đánh giá nhằm giảm bớt thời
gian, công sức, tiền của và cải thiện hiệu quả của việc kiểm tra đánh giá. Hiện nay có
nhiều phần mềm hỗ trợ dạy học giúp giáo viên thiết kế các bài tập trắc nghiệm khách
quan có khả năng tương tác cao mà giáo viên có thể sử dụng để áp dụng trong soạn bài
và giảng dạy như: Adobe Presenter, iSpring Suite, Trí Việt, Violet,...
Với các phần mềm này giáo viên có thể tạo ra nhiều dạng câu hỏi trắc nghiệm
khác nhau hay cũng có thể tạo ra các trò chơi ô chữ để đưa vào bài giảng.
Để minh họa cho các giải pháp trên, sau đây tôi xin xây dựng giáo án và
hướng dẫn các bước giảng dạy trên lớp:
2.3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Chính vì vậy mà sau khi tiến hành vận dụng một số kinh nghiệm dạy học theo
phương pháp mới trong năm học 2017-2018, tôi tiến hành khảo sát chất lượng của học
sinh qua kết quả 1 tiết và khảo sát chất lượng qua thanh tra. Kết quả là số học sinh khá
giỏi tăng lên và số học sinh yếu - kém giảm hẳn đi so với đầu năm.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Qua quá trình áp dụng kinh nghiệm dạy học theo phương pháp mới vào dạy học
môn Lịch sử năm học 2016-2017 và đầu năm 2017-2018, tôi nhận thấy dạy học theo
phương pháp mới thì hiệu quả bộ môn được nâng lên rõ ràng theo hướng tích cực. Điều
đó để một lần nữa khẳng định vai trò của việc tổ chức dạy học theo phương pháp đổi
mới là cần thiết cho môn học Lịch sử nói riêng và các môn học khác nói chung. Điều
quan trọng hơn là học sinh yêu thích hơn môn lịch sử và hứng thú tìm hiểu sâu sắc hơn
về bộ môn này. Cụ thể:
- Đã từng bước tạo được sự hứng thú, khơi dậy lòng say mê học tập môn Lịch sử ở học
sinh. Nhiều học sinh đã có sự quan tâm đến các sự kiện lịch sử, muốn tìm tòi, khám phá.
Chính vì vậy mà các em không còn xem nhẹ môn học này, không còn coi môn Lịch sử là
“môn phụ” nữa.

13


- Học sinh hoạt động tích cực, chủ động hơn, đa phần học sinh đã chiếm lĩnh được kiến
thức một cách nhanh chóng và chắc chắn.
- Kỹ năng trực quan, tư duy, phân tích, tổng hợp của học sinh được nâng cao hơn và
hoàn thiện hơn. Qua đó hình thành kĩ năng phân tích, nhận xét, đánh giá sự kiện lịch sử
sâu sắc hơn. Đồng thời học sinh vận dụng được các kiến thức lịch sử vào cuộc sống thực
tiễn một cách dễ dàng và hiệu quả.
Nói tóm lại, đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS là một cuộc cách mạng lớn
trong ngành giáo dục. Không phải chỉ là ngày một ngày hai mà chúng ta phải khắc phục
lối dạy học cũ, cũng không thể hoàn thiện ngay được phương pháp dạy học mới. Mặc dù

phương pháp dạy học cũ và phương pháp dạy học mới không có một sự tách biệt rạch
ròi mà trong nó vừa mang tính kế thừa lối dạy học truyền thống vừa sáng tạo, linh hoạt.
Đối với bộ môn Lịch sử khi dạy cần cho học sinh nhận thức được rằng: Học lịch sử là
quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ để hiểu hiện tại và chuẩn bị cho
tương lai. Học tập lịch sử cũng là để hình dung rõ ràng, giải thích đúng, có cơ sở khoa
học về lịch sử. Lịch sử là những gì đã qua đi nhưng không hoàn toàn biến mất mà để lại
dấu vết của nó qua kí ức của nhân loại, qua thành tựu văn hoá , qua các hiện tượng lịch
sử, qua ghi chép của người xưa, qua tên đất, tên làng…nên khi dạy giáo viên chọn
phương pháp dạy học thích hợp. Tiêu chí cơ bản của PPDH lịch sử mới là hoạt động tự
lập tích cực của học sinh. Muốn được như vậy giáo viên phải gia công nhiều ở khâu
chuẩn bị bài, lập kế hoạch bài học và đặc biệt chú trọng đổi mới hoạt động học tập của
học sinh. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả dạy học theo phương pháp đổi mới còn có
nhiều phương pháp tối ưu khác nữa. Mong rằng các đồng chí, đồng nghiệp góp ý xây
dựng để giờ học lịch sử ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
3.2. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Từ quá trình tìm tòi, nghiên cứu dạy học theo phương pháp đổi mới ở môn Lịch sử tôi
mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị, đề xuất như sau:
3.2.1. Đối với giáo viên:
+ Phải có tâm huyết với nghề, tạo hứng thú cho học sinh bằng cách trình bày sinh động,
bằng sự am hiểu lịch sử, nghệ thuật trình bày, vốn sống, kinh nghiệm chuyên môn, tình
cảm đối với lịch sử và cả sự yêu mến học sinh để mỗi giờ học trôi qua là một sự tiếc nối
cũng là sự tò mò mong đợi những giờ học tiếp theo.
+ Nghiên cứu SGK, SGV, tài liệu tham khảo và các đồ dùng trực quan có liên quan đến
nội dung bài học.
+ Có ý thức học hỏi đồng nghiệp, trau dồi kiến thức, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.

14


+ Đầu tư nhiều hơn vào việc soạn bài theo tinh thần dạy học thông qua tổ chức các hoạt

động học tập cho học sinh. Giáo viên phải thể hiện rõ ràng mục tiêu, nội dung bài học,
hệ thống câu hỏi khoa học, lôgic, phân chia thời gian hợp lí.
+ Đẩy mạnh việc đổi mới hoạt động dạy học trên lớp, giáo viên là người chỉ đạo hướng
dẫn, học sinh là người chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh kiến thức.
+ Chú trọng việc củng cố và phát triển ở học sinh các kỹ năng: Kỹ năng sử dụng bản
đồ, lược đồ, kỹ năng phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá sự kiện lịch sử.
+ Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực vào trong một tiết dạy. Hình
thành và phát triển các kỹ năng làm việc với các thiết bị học tập.
+ Giáo dục cho học sinh ý thức tôn trọng lịch sử, truyền thống dựng nước, giữ nước và
xây dựng đất nước của lớp người đi trước.
+ Tạo được niềm tin, sự hứng thú, ham mê học tập lịch sử ở học sinh.
+ Có thái độ gần gũi cởi mở, thân thiện đối với học sinh, biết khen thưởng và động viên
kịp thời, phê bình một cách tế nhị để giúp học sinh tự tin và tự nhiên hơn trong hoạt
động học tập, hạn chế tính tự ti, lười hoạt động ở một số học sinh yếu.
+ Thường xuyên kiểm tra việc học bài, làm bài tập, chuẩn bị bài mới của học sinh, quan
tâm nhiều hơn đến học sinh yếu kém và có những biện pháp khắc phục kịp thời.
3.2.2. Đối với học sinh
+ Có say mê, hứng thú học tập môn Lịch sử.
+ Có đầy đủ các phương tiện học tập như: SGK, vở bài tập.
+ Đổi mới trong suy nghĩ, trong cách học, phải tự giác học, chủ động, sáng tạo, có ý
thức trách nhiệm về hoạt động học tập của mình.
+ Xác định rõ mục đích, yêu cầu của giờ học, không chỉ về kiến thức mà còn về cả kỹ
năng.
+ Giành thời gian thích đáng để tự làm việc, nghiên cứu với SGK (kênh hình, kênh
chữ), với các nguồn cung cấp kiến thức khác theo sự hướng dẫn của giáo viên.
+ Biết cách học, làm việc theo nhóm, hợp tác với bạn để tìm ra kiến thức mới.
+ Có ý thức tìm tòi lịch sử ở địa phương mình.
+ Tham gia nghe nói chuyện truyền thống nhân ngày 22-12. Gặp gỡ các nhân chứng
lịch sử để hiểu biết thêm lịch sử dân tộc mình…


15



×