Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

SKKN một số giải pháp để nâng cao chất lượng dạy học môn tin học 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 13 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến kinh nghiệm.
Hiện nay việc đổi mới giáo dục trong nhà trường đã trở thành nền nếp sâu rộng từ
đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học,
phương pháp dạy học, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng dạy học. Phần lớn giáo viên
đứng lớp đã thích nghi với chương trình, phương pháp mới nhất là sử dụng, khai thác
triệt để tác dụng thiết bị thực hành, của trang thiết bị, phương tiện dạy học như bảng
phụ, tranh ảnh, thiết bị thí nghiệm - thực hành, máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa chức
năng.
Xuất phát từ cuộc vận động ứng dụng đẩy mạnh công nghệ thông tin vào dạy học
nhằm nâng cao chất lượng dạy học, Tin học càng được áp dụng rộng rãi, hỗ trợ đắc lực
cho rất nhiều môn học. Bởi vậy dạy Tin học cho học sinh không chỉ truyền thụ nội dung
đơn giản, mà phải hướng cho học sinh những nhận thức, những hiểu biết ngang tầm thời
đại...
Do hạn chế về nhiều mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị, trình độ giáo viên... mà đôi
khi phương pháp dạy học đã không tận dụng hết những thành tựu khoa học công nghệ
hiện đại, để truyền tải nhiều thông tin cho người học dẫn đến chất lượng dạy và học bộ
môn có mặt còn hạn chế.
Sự thành công của một tiết dạy ngoài phương pháp giảng dạy của giáo viên
và cách học của học sinh, còn cần sự hỗ trợ đắc lực của phương tiện, thiết bị và một số
ứng dụng khác trong dạy học. Chính vì vậy mà bản thân tôi luôn cố gắng tìm tòi, nghiên
cứu, trao đổi với đồng nghiệp và nghiên cứu các ứng dụng của thiết bị và phần mềm dạy
học phù hợp với đặc trưng của bộ môn.
Qua các năm giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6, tôi nhận thấy rằng nếu truyền thụ
tri thức chỉ thông qua lời nói thì học sinh cảm thấy mệt mỏi, không có hứng thú trong
học tập, việc tiếp thu bài giảng của học sinh không cao. Khi sử dụng phương tiện dạy
học trong bài giảng giúp học sinh dễ dàng tiếp thu và tham gia bài giảng một cách tích
cực và chủ động. Phương tiện dạy học vừa điều khiển nhận thức một cách sinh động,
vừa là nguồn tri thức phong phú để lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ năng. Từ đó giúp
học sinh dễ dàng chiếm lĩnh kiến thức thông qua quan sát. Tuy vậy, trong quá trình dạy
học một số học sinh vẫn chưa chú ý đến sự hướng dẫn của giáo viên nên việc chiếm lĩnh


kiến thức vẫn còn thụ động. Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên phải biết kết hợp
các phương tiện dạy học một cách thích hợp, linh hoạt khai thác và vận dụng tốt các
phương tiện sẽ kích thích được hứng thú tư duy của học sinh.
Việc khai thác tốt các hình ảnh và mô hình đưa ra trong quá trình dạy học không
chỉ giúp học sinh tiếp thu kiến thức mới nhanh hơn, hiệu quả hơn mà còn rèn luyện kỹ
năng quan sát, phân tích, dự đoán, so sánh, khái quát, kỹ năng vận dụng để học sinh
nâng cao kỹ năng kiến thức và có hứng thú hơn đối với môn học.
Từ đó, tôi đã chọn và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp để
nâng cao chất lượng dạy học môn Tin học 6”.
2. Điểm mới của đề tài, sáng kiến kinh nghiệm.
Sáng kiến của tôi đã đi sâu vào việc khai thác, sử dụng đồ dùng dạy học với
phương châm “Trăm nghe không bằng một thấy” mà chưa có sáng kiến nào đề cập đến.
Hơn nữa, sáng kiến này còn chỉ rõ các kỹ thuật thực hiện nên dễ thực hiện, dễ triển khai
rộng ở trong các trường THCS.
3. Đối tượng và phạm vi của đề tài, sáng kiến kinh nghiệm.
Đối tượng nghiên cứu học sinh khối 6.


Phạm vi áp dụng trong các tiết học Tin học lớp 6 Trường THCS đơn vị tôi đang
công tác năm học 2016-2017 và học kì I năm học 2017 - 2018.
II. PHẦN NỘI DUNG:
1. Thực trạng.
* Thuận lợi
Học sinh ở trường THCS hiện nay đã có thuận lợi trong học tập đó là: Đảng và
Nhà nước đã chú trọng, đầu tư nhiều cho giáo dục, các em đã có phòng học kiên cố. Bên
cạnh đó phụ huynh học sinh luôn quan tâm đến việc học tập của con em mình, luôn có
mối quan hệ chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm duy trì trao đổi thông tin thường xuyên
để nắm bắt được tình hình của con em mình ở trường. Tuy môn tin học mới chỉ là môn
học tự chọn nhưng nhà trường trang bị phòng học, máy vi tính và phần mềm phục vụ
cho việc dạy và học môn tin học.

Giáo viên được đào tạo chuẩn về Tin học để đáp ứng cho yêu cầu dạy và học.
* Khó khăn
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, dạy học định hướng theo năng
lực cho học sinh nên giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt
kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập
để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động các mục tiêu kiến thức, kĩ năng,
thái độ theo yêu cầu chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính nhưng khi soạn
giáo án, giáo viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ
động mới có thể thực hiện trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố
vấn, trọng tài trong các họat động tìm tòi, hào hứng tranh luận sôi nổi của học sinh. Để làm
được điều này thì đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình
độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn được tốt các hoạt động của học sinh mà
nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
Khó khăn lớn nhất hiện nay ở các trường học khi áp dụng phương pháp dạy học
mới vẫn là thiếu các trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy học... còn nhiều thiếu
thốn và bất cập. Để áp dụng phương pháp này vào dạy Tin học thì đòi hỏi phải có đèn
chiếu (máy chiếu qua đầu - Over head) hay máy chiếu (Projecter), màn hình tivi cỡ lớn,
máy vi tính đó là chưa kể đến việc nếu áp dụng đồng loạt thì mỗi lớp cũng đều phải
được trang bị đầy đủ trang thiết bị đáp ứng việc dạy và học ứng dụng công nghệ thông
tin một cách tốt nhất.
Tin học là một môn học được đưa vào giảng dạy tại trường THCS nơi tôi đang
công tác chậm hơn so với các trường trung tâm của của huyện nhà đặc biệt là các em
lớp 6 mặc dù các em rất thích máy tính nhưng chỉ là để chơi các trò chơi trên máy tính
là chủ yếu chứ chưa ý thức được tầm quan trọng của bộ môn nên chất lượng học tập còn
hạn chế. Đây là bộ môn đặc trưng muốn đạt chất lượng cao đòi hỏi các em phải tiếp xúc
với máy tính nhiều nhưng thời lượng mỗi tuần chỉ có 2 tiết trên lớp thì các em chưa thể
thực hành hết các kiến thức đã học mà nếu có thực hành hết thì sẽ chóng quên.
Bên cạnh đó do hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn, hầu như 100% gia đình không
có điều kiện để mua máy tính cho con em học, còn ở lớp thì theo thống kê của giáo viên
dạy thì trung bình mỗi lớp chỉ được 4 đến 6 em/1 máy vi tính.

Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh chưa cao, chưa thực sự
hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn
luyện yếu hoặc chỉ biết đến máy tính như một công cụ giải trí.
Qua điều tra khảo sát về cả lí thuyết và thực hành tôi tiến hành đã thu được kết
quả như sau:


Kém
S
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
%
L
10,
6
38
3
7,9
9
23,7 12 31,6 10 26,3 4
5
Qua kết quả khảo sát thì đa số các em nắm kiến thức lí thuyết còn yếu, các em hay
quên và chưa vận dụng vào thực hành được nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên.
Tỉ lệ yếu kém còn cao (chiếm 36,8 %)

2. Giải pháp.
Khối Tổng
lớp
số

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Giải pháp 1: Thay đổi cách ghi bảng.
Thường khi dạy các bài học lý thuyết giáo viên chủ yếu ghi bảng theo dòng, theo
cột theo cách truyền thống nhưng tôi đã chủ động thay đổi bằng các sơ đồ cây, bằng
hình ảnh, bằng bản đồ tư duy nên sự thu hút chú ý cao hơn, học sinh dễ nhớ hơn.
Ví dụ: Dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” giáo viên chiếu sơ đồ cấu trúc
chung của máy tính điện tử lên màn hình rồi yêu cầu học sinh quan sát và cho biết máy
tính điện tự gồm những phần nào. Sau đó giáo viên chỉ vào từng đối tượng trên sơ đồ và
giới thiệu lần lượt các khái niệm của các thành phần trong cấu trúc máy tính.

Sau
đó tôi đư ra các hình ảnh cho các em nhận biết thưc tế
Thiết bị vào (khối nhập):

Thiết bị ra (khối xuất):


Tiết bị xử lí trung tâm:


Giải pháp 2: Đẩy mạnh sử dụng đồ dùng trực quan.
Trực quan hoá thông tin dạy học là một quá trình thông qua đó người học tri giác
các tài liệu học tập dưới dạng các biểu trưng hình ảnh, âm thanh, mô hình, vật thật... với
sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan.
Dụng cụ trực quan được sử dụng trong môi trường học tập như trong dạy học,
giáo dục qua mạng dựa trên cơ sở máy tính... dụng cụ trực quan có thể được sử dụng
hiệu quả để giảng dạy các sự kiện, các chỉ dẫn, các quá trình và các khái niệm trừu
tượng mà chúng thường khó nhớ, khó hiểu. Các mục tiêu dạy học có thể thực hiện tốt
nếu biết phát huy thông qua công cụ trực quan.
Có thể nói dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học bằng
ngôn ngữ: Chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong cùng một vị trí,
làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một khái niệm dựa trên ngôn
ngữ trừu tượng. Đặc biệt là tranh ảnh trực quan làm tăng khả năng tiếp nhận và ghi nhớ
trong học tập đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của giáo dục.
Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng cụ trực
quan là đèn chiếu, tranh ảnh, biểu tượng.... vào dạy Tin học có hiệu quả rất cao.
Trước khi sử dụng dụng cụ trực quan cho một bài học thì trước hết giáo viên cần
xác định bài nào cần dụng cụ trực quan và những dụng cụ trực quan đó là gì phục vụ
cho những đơn vị kiến thức nào trong bài học.
Tiếp đến là công tác chuẩn bị với dụng cụ trực quan.
Ví dụ dạy bài: “Máy tính và phần mềm máy tính” cần chuẩn bị những đồ dùng
trực quan khi giới thiệu cấu trúc chung của máy tính điển tử như: bộ xử lí trung tâm
(CPU), thanh RAM, các ổ đĩa các thiết bị lưu giữ thông tin như USB, đĩa mềm, đĩa CD,
DVD...

hay hình ảnh của một số loại máy vi tính trong thực tế bằng cách chụp bởi tranh
ảnh hoặc các dụng cụ trực quan thiết thực như thế học sinh mới nhớ lâu và thấy trong
thực tế có thể gọi tên dụng cụ trực quan chính xác.



Đèn chiếu tương đối dễ sử dụng và việc chuẩn bị cho việc dạy học với đèn chiếu
tương đối dễ dàng, ít tốn thời gian.
Tuy nhiên để sử dụng đèn chiếu thì phải có sự chuẩn bị kiến thức và các nội dung kiến
thức cần trình chiếu. Nội dung đưa lên máy chiếu phải rõ ràng chính xác và phải có máy
vi tính.
Chẳng hạn: khi nói đến máy tính hoặc máy in thì ta đưa hình ảnh minh họa, bằng quan
sát trực quan như thế học sinh sẽ ghi nhớ kiết thức tốt nhất.

Sau bài dạy tôi tiến hành kiểm tra nhận thức của học sinh bằng hình thức kiểm tra
15 phút. Kết quả thu được:
Giỏi

Khá

TB

Yếu

Khối
lớp

Tổng
số

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

6

38

4

10,5

11

28,9

14

36,8

7

18,4


Kém
S
%
L
2 5,3

Qua khảo sát cho thấy số học sinh biết phân biệt các thiết bị của máy tính tăng lên
rõ rệt. Tỉ lệ khá giỏi đã được tăng lên so với chất lượng khảo sát đầu năm học: 7,8%, tỉ lệ yếu
kém giảm: 13,1%. Tuy nhiên một số học sinh vẫn chưa xác định đúng các vị trí thiết
bị, .... Như vậy bước đầu việc vận dụng kiến thức, kĩ năng của các em vào làm bài tập
thực hành đã có hiệu quả rõ rệt.
Giải pháp 3: Dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ họa.
Biểu trưng đồ họa được tạo ra bằng nhiều cách, đồ họa liên quan với hình ảnh, đồ
họa liên quan với khái niệm, đồ họa tuỳ ý... Việc dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ
họa trong Tin học giúp người học có thể thao tác nhanh các bước thực hành - đây là yêu
cầu cần đạt của người học Tin học, dựa vào các biểu trưng đồ họa này học sinh có thể
phát hiện ra khái niệm, ý nghĩa của nó. ..
Chẳng hạn khi dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản” giáo viên cần cho học
sinh làm quen với việc sao chép, di chuyển, cắt (xoá)... nhanh qua các biểu tượng.
Giáo viên đưa các biểu tượng

Tương tự bài “Chỉnh sửa văn bản” giáo viên đưa các biểu tượng

? Hãy nêu tên các biểu tượng trên và tính năng của các biểu tượng
 Dạy bài “Định dạng văn bản” ngoài việc định dạng văn bản bằng menu lệnh giáo
viên cần cho học sinh định dạng văn bản thông qua các biểu tượng sau.


HS nhìn vào biểu tượng và nêu chức năng của các biểu trượng từ đó các em nắm

chắc hơn kiến thức lí thuyết để vận dụng vào làm thực hành tốt hơn.
* Dạy bài “Trình bày trang văn bản và in” ngoài việc dùng lệnh in, xem văn bản bằng
menu lệnh thì có thể in, xem văn bản thông qua các biểu tượng sau.

Giải pháp 4: Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh.
Biểu trưng hình ảnh được tạo ra như ảnh chụp, tranh minh họa, tranh vẽ. Tất cả
đều phản ánh sự vật và ý nghĩa dưới dạng các biểu trưng cụ thể và mang tính hiện thực
cao, người học có khả năng phiên dịch các biểu trưng hình ảnh thành các vật tương tự
trong thế giới hiện thực.
Khi dạy bài “Máy tính điện tử” ta có thể sử dụng một số ảnh, ảnh minh họa về
máy tính, một số thiết bị của máy tính như đĩa mềm, USB ổ cứng, … để học sinh quan
sát và phân biệt.

Hoặc khi dạy bài “Hệ điều hành Windows” để giúp học sinh sớm hình thành kĩ
năng làm việc với máy tính như khởi động máy tính, tắt máy tính hay phân biệt các đối
tượng trên màn hình máy tính ta tiến hành đưa một số hình ảnh liên quan.

Giải pháp 5: Kết hợp các loại hình trực quan.


Giữa các loại hình trực quan, người thiết kế có thể kết hợp đa dạng các loại biểu
trưng trực quan ngôn ngữ, hình ảnh, đồ họa với nhau. Đối với hầu hết học sinh ba loại
này bao gồm nhiều mức độ khác nhau rất có ích trong học tập.
Ví dụ: Khi dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” ta có thể sử dụng kết hợp
giữa biểu trưng hình ảnh và biểu trưng ngôn ngữ.
Giáo viên yêu cầu:
- Quan sát hình ảnh và cho biết ở hình trên đâu là thiết bị xuất, nhập,. .

* Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, “Tổ chức thông tin trong máy
tính”, “Định dạng văn bản”... ta có thể sử dụng kết hợp cả ba hình thức trực quan



* Dạy bài “Định dạng văn bản” giáo viên chiếu hình ảnh sau và kết hợp cho học sinh
thực hiện định dạng phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ... trên thanh công cụ và trên bảng chọn
trực tiếp trên máy tính thì học sinh dể tiếp thu bài và ghi nhớ lâu hơn.

Sau khi áp dụng biện pháp tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua
biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh học sinh nhận biết các
biểu tượng được nhanh hơn, phân biệt và ghi nhớ các biểu tượng, các nút lệnh điều
khiển được lâu hơn. Từ đó học sinh có thể sử dụng các kiến thức đã học để thực hành
cũng như vận dụng vào thực tiễn tốt hơn.
Giải pháp 6: Xây dựng kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng.
Sau một tiết học tôi thường củng cố lại cho học sinh những cái vừa học bằng các
dạng bài tập trắc nghiệm giúp học sinh nắm lại bài, học sinh có thể phân biệt được lệnh,
các biểu tượng và nắm ý nghĩa của các biểu tượng.
Ví dụ: Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, Nối các ý với các hình ảnh của
các cột A, B, C, D sao cho hợp lý.
A
B
C
D
Ctrl + O
Ctrl + N
Ctrl + S
Alt + F4

File \ Open
File \ Save
File \ Exit
File \ New


Tạo tập tin văn bản mới
Đóng tập tin văn bản
Mở văn bản đã có
Lưu văn bản

* Bài “Chỉnh sửa văn bản”: Dùng các từ, cụm từ điền vào chổ trống cho phù hợp.


(1) Edit \ Copy
(2) Edit \ Cut
(3) Edit \ Paste
(4) Delete

(5) Ctrl + V
(6) Ctrl + C
(7) Ctrl + X

Các bước sao chép khối
Bước1. Chọn khối
Bước2. Click vào. ........... (hay bấm tổ hợp phím...... hoặc Click biểu tượng..........)
Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.
Bước4. Click vào. ........... (hay bấm tổ hợp phím...... hoặc Click biểu tượng..........)
Các bước chuyển khối
Bước1. Chọn khối
Bước2. Click vào. ........... (hay bấm tổ hợp phím...... hoặc Click biểu tượng..........)
Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.
Bước4. Click vào. ........... (hay bấm tổ hợp phím...... hoặc Click biểu tượng..........)
Các bước xoá khối
Bước1. Chọn khối

Bước2. Click vào. ........... (hay bấm phím...... hoặc Click biểu tượng..........)
Giải pháp 7: Khai thác phần mềm Netop School và mạng LAN.
Sử dụng công nghệ kiểm soát từ xa tiên tiến, NetOp School cho phép giáo viên có
thể sử dụng máy vi tính của mình để hướng dẫn, kiểm soát và trợ giúp học sinh. Ngoài
ra, nó còn tạo cho học sinh cơ hội được trao đổi kinh nghiệm trực tiếp với giáo viên,
tiếp cận kiến thức mới một cách trực quan sinh động. Chương trình hiện được sử dụng
tại hơn 50 quốc gia trên thế giới, do Công ty Danware (Đan Mạch) xây dựng. NetOp
School có giao diện thân thiện, thích hợp với hầu hết các phòng máy tại các trường học
hiện nay.
Một số ứng dụng hiệu quả của phần mềm áp dụng dạy học trực quan:
*. Entire Screen: Quảng bá toàn bộ màn hình của giáo viên tới màn hình của học
sinh hoặc nhóm học sinh đã được giáo viên chọn trên Netop Teacher. Dạy bài: “Quan
sát các vì sao trong hệ mặt trời với phần mềm Solar System 3D”
- Áp dụng rất hiệu quả trong việc giảng dạy vì không cần đến máy chiếu và học
sinh không thể làm gì trên máy trong lúc giáo viên giảng bài. Học sinh quan sát và làm
theo hướng dẫn trực tiếp phần mềm trên máy tính của học sinh. Sau đó giáo viên ngừng
quảng bá và học sinh có thể tự thao tác, tự thực hành được trên máy tính của mình một
cách dễ dàng.
*. Media File: Quảng bá một chương trình nghe nhìn đang chạy trên máy tính
của giáo viên tới máy tính của học sinh.
*. Student Screen: Chọn một màn hình của một học sinh nào đó từ trong danh
sách thả xuống và quảng bá tới tất cả các màn hình khác của học sinh.
- Ví dụ khi dạy bài “Chỉnh sửa văn bản” giáo viên quảng bá một màn hình học
sinh nào đó đến tất cả các học sinh khác, cho cả lớp xem và nhận xét, bài làm của bạn.
Giới thiệu đoạn video ùn tắc giao thông không có đèn tín hiệu giao thông và cảnh
sát giao thông. Khi dạy bài “Hệ điều hành làm những việc gì?”


*. Remote Control: Điều khiển từ xa máy tính học sinh; Kiểm soát chuột và phím
của máy học sinh.


- Ví dụ dạy bài “Chỉnh sửa văn bản” giáo viên có thể theo dõi, chỉnh sửa bài tập
cho học sinh từ xa.


Sau khi áp dụng biện pháp sử dụng phần mềm Netop School và mạng LAN để
giảng dạy đã giúp cho học sinh tiếp nhận kiến thức nhanh, ghi nhớ lâu từ đó vận dụng
tốt trong thực hành. Giáo viên cũng quan sát, giám sát, điều chỉnh kịp thời và quan tâm
được tất cả các đối tượng học sinh. Trong các biện pháp đã áp dụng thì biện pháp này
đạt hiệu quả vượt trội và rất phù hợp với đặc trưng bộ môn và điều kiện của nhà trường.
3. Kết quả.
Qua một thời gian áp dụng sáng kiến vào dạy học tin học lớp 6 tôi nhận thấy:
- Việc ứng dụng giúp giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách tích
cực và trực quan, tiết kiệm thời gian trong tiết dạy lí thuyết từ đó học sinh có thời gian
thực hành nhiều hơn và trong quá trình thực hành học sinh nhớ kiến thức lâu hơn.
- Đối với học sinh tôi nhận thấy học sinh học tập tích cực hơn, hào hứng hơn,
chú ý hơn, tham gia xây dựng bài sôi nổi hơn. Đặc biệt các em ghi nhớ kiến thức lâu
hơn, chất lượng đi lên rõ rệt.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào các tiết dạy thể hiện chất lượng các mức
như sau:
* Kết quả khảo sát đầu năm 2016-2017
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Khối Tổng
S
lớp
số

SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
%
L
10,
6
38
3
7,9
9
23,7 12 31,6 10 26,3 4
5
* Kết quả qua các lần kiểm tra.
Kiểm tra
thể
nghiệm

TS
HS

Giỏi
TS

Khá


%

TS

%

TB
TS

%

Yếu-Kém
TS

%

Nhận xét

Học kỳ I năm học 2016-2017
Học kỳ I

38

4

10,5

11


28,9

17

44,7

6

15,8

Khá, giỏi tăng: 7,3%
Yếu-Kém giảm: 21%

Học kỳ II năm học 2016-2017
Học kỳ II

38

5

13,2

15

39,5

17

44,7


1

2,6

Cả năm

38

5

13,2

15

39,5

17

44,7

1

2,6

Khá, giỏi tăng: 21,1%
Yếu-Kém giảm: 34,2%
So với đầu năm:
Khá giỏi tăng: 21,1%



Yếu kém giảm:34,2%

Qua thời gian nghiên cứu trong năm học bằng nhiều phương pháp khác nhau,
qua dự giờ đồng nghiệp và dạy thể nghiệm. Tôi đã tìm ra một số kinh nghiệm áp dụng
vào trong giảng dạy và thu được những kết quả nhất định. Trong giờ học các em chú ý
hơn, tích cực hơn, đã kích thích được khả năng tư duy sáng tạo, tự tin của các em, các
em nắm bài một cách chủ động không máy móc. Kết quả số học sinh khá, giỏi tăng lên,
số học sinh trung bình, yếu giảm đi rõ rệt.
III. KẾT LUẬN:
1. Ý nghĩa.
Dạy học là một nghệ thuật. Sử dụng tốt phương pháp dạy học là con đường tốt
nhất để đạt được mục đích yêu cầu tiết dạy, trong đó phương tiện đặc biệt có hiệu quả
tốt giúp người học hiểu và nắm chắc thông tin cần thiết. Việc sử dụng phương tiện vào
quá trình dạy học là cần thiết đối với mỗi giáo viên vì nó mang lại hiệu suất, hiệu quả
của giáo dục cao.
Muốn học sinh học tốt các môn học nói chung và môn Tin học nói riêng thì điều
đầu tiên người giáo viên phải tạo được ở học sinh niềm say mê, hứng thú học tập bộ
môn. Giờ học phải thu hút sự chú ý ham học hỏi của học sinh, tạo cho các em lòng tin
vào khả năng của mình, nhiệt tình ham mê học tập.
Qua một thời gian nghiên cứu bằng nhiều phương pháp khác nhau, qua dự giờ
của các đồng nghiệp, qua dạy thể nghiệm, đối chứng, tôi đã tìm ra được một số kinh
nghiệm áp dụng vào trong giảng dạy và thu được những kết quả nhất định, trong giờ
học các em đã chú ý hơn, tích cực hơn, đã kích thích phát huy được khả năng tư duy,
tính tích cực của các em, các em nắm bài một cách chủ động không máy móc.
Tóm lại, việc nghiên cứu đề tài này đã góp phần một cách tích cực nâng cao chất
lượng học tập bộ môn Tin học của học sinh và tôi mong muốn sẽ tiếp tục áp dụng sáng
kiến này trong giảng dạy Tin học.
Bài học kinh nghiệm
Kinh nghiệm thực tiễn dạy học và kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy để
nâng cao chất lượng dạy học cần có các điều kiện sau:

- Tạo không khí học tập tích cực, giáo viên phải tạo ra mỗi giờ học là một niềm vui
niềm say mê trong học tập của học sinh. Giáo viên luôn tạo ra những thách thức vừa sức, tổ
chức những họat động tự lực của học sinh trong từng tiết học.
- Qua mỗi lần thử nghiệm nên có một thời gian nhìn nhận đánh giá kết quả và rút
kinh nghiệm cho lần sau, biết cách khai thác trí lực của học sinh theo hướng tích cực,
chủ động thì việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện lỹ năng của học sinh sẽ trở nên thuận lợi
và có kết quả hơn.
- Các thiết bị dạy học rất có ý nghĩa giáo viên phải luôn phát huy hết tác dụng của
các thiết bị dạy học, đặc biệt là dụng cụ trực quan có như vậy mới gây được hứng thú
học tập của các em. Bên cạnh mỗi tiết dạy giáo viên luôn nỗ lực chuẩn bị các đồ dùng
trực quan đầy đủ phù hợp với nội dung bài dạy từ đó vậy giáo viên mới tạo được sự
hứng thú bộ môn cho các em.
- Bên cạnh đó giáo viên phải biết vận dụng các kiến thức trong bài dạy vào các
họat động thực tế có liên quan và giải thích cụ thể từ đó các em có nhu cầu tìm hiểu về
môn học.
2. Kiến nghị:


Qua quá trình thực hiện giảng dạy bản thân tôi có một số kiến nghị sau: Đề nghị
nhà trường trang bị thêm máy chiếu (projecter) tạo được phòng có trang bị máy chiếu
riêng để phục vụ cho việc dạy học bằng máy chiếu được thuận lợi hơn. Mua bản quyền
phần mềm Netop School phiên bản mới nhất để việc dạy tin học được thuận lợi hơn.
Trang bị thêm máy tính ở phòng thực hành đủ cơ số để cho học sinh học và thực hành.



×