Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Hôn nhân của người sán dìu ở xã ninh lai, huyện sơn dương, tỉnh tuyên quang (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.86 KB, 25 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THU HIỀN

HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở XÃ NINH LAI,
HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60 31 03 10

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS NGUYỄN THỊ SONG HÀ

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội Việt Nam
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Song Hà

Phản biện 1: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thắng
Phản biện 2: TS. Lương Thị Thu Hằng

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ
họp tại: Học viện Khoa học Xã hội 10 giờ, ngày 17 tháng 10 năm 2017,
447 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân - Hà Nội


Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viện Học Viện Khoa học Xã hội
- Phòng nghiên cứu tư liệu Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với người Sán Dìu, hôn nhân không chỉ gắn liền với đời sống tâm
linh mà còn đánh dấu một sự kiện quan trọng trong bước đường đời của mỗi
dân tộc. Từ trước đến nay có rất nhiều học giả quan tâm nghiên cứu về hôn
nhân của người Sán Dìu, song do người Sán Dìu sống ở từng vùng miền khác
nhau trong cả nước nên văn hóa, nghi lễ trong hôn nhân cũng có những nét
khác nhau.
Là người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Tuyên Quang, hiện
đang công tác tại Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang, tôi có nhiều cơ hội tiếp xúc,
nghiên cứu, tìm hiểu phong tục tập quán của người Sán Dìu, song những
hiểu biết về văn hóa truyền thống của người Sán Dìu vẫn còn hạn chế, đặc
biệt mình là cán bộ làm công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể của 22 dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh Tuyên
Quang nên tôi quyết định chọn đề tài luận văn: “Hôn nhân của người Sán
Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang” để làm đề tài
tốt nghiệp thạc sĩ, với mong muốn nghiên cứu và tìm hiểu về hôn nhân của
tộc người Sán Dìu, giúp tôi bổ sung thêm kiến thức về phong tục, tập quán,
nghi thức, nghi lễ cưới xin của dân tộc Sán Dìu một cách có hệ thống. Đồng
thời, qua đó có những đề xuất và giải pháp cụ thể trong việc bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa của tộc người, để hôn nhân của người Sán Dìu vừa
mang màu sắc tiên tiến vừa đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dân tộc Sán Dìu là một trong những dân tộc thiểu số có nền văn hóa
đặc sắc, mang giá trị nhân văn cao đẹp, thể hiện trong nhiều lĩnh vực, nhất là

qua các phong tục, tập quán, nghi lễ của tộc người. Do vậy, đã có nhiều tác
giả, nhà nghiên cứu dân tộc học, nhà khoa học quan tâm và dày công nghiên

1


cứu về tộc người này. Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, kể
cả sách báo cũng như các tạp chí đã nêu bật được tổng tổng thể bức tranh
văn hóa của người Sán Dìu trên các vùng miền của cả nước, trong đó có hôn
nhân của người Sán Dìu.
2.1. Tình hình nghiên cứu các tác giả nước ngoài
Vấn đề hôn nhân của con người từ lâu đã được các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lên Nin đề cập đến tong tác phẩm “Nguồn gốc của gia
đình của chế độ tư hữu và của nhà nước” [2]. Trong tác phẩm này, F. Ăng
ghen đã khái quát hôn nhân gắn với các giai đoạn lịch sử của nhân loại, từ
thời kỳ tiền sử đến thời kỳ bộ lạc, thời kỳ phát sinh nhà nước đầu tiên cho
đến khi hình thành nhà nước hoàn chỉnh. Qua sự phân tích và khái quát của
F. Ăng ghen về hôn nhân và gia đình gắn liền với sự biến đổi và phát triển
của các giai đoạn lịch sử cho thấy, có ba thời kỳ gắn với ba hình thức đó là:
Thời kỳ mông muội là chế độ quần hôn; thời đại dã man là chế độ hôn nhân
đối ngẫu; và thời đại văn minh là hôn nhân một vợ một chồng. Có thể nói,
đây là một tác phẩm nghiên cứu về hôn nhân tổng quan nhất, giúp người đọc
có cái nhìn toàn diện về hôn nhân.
2.2. Tình hình nghiên cứu của các tác giả trong nước về văn hóa
của người Sán Dìu
2.2.1. Các nghiên cứu về văn hóa, gia đình của người Sán Dìu
Một trong những công trình nghiên cứu sớm nhất có đề cập đến
người Sán Dìu là Kiến văn tiểu lục của nhà bác học Lê Quý Đôn (17231782). Trong công trình này tác giả có nhắc đến các tộc người ở xứ Tuyên
Quang. Trong 07 chủng tộc người Man, có chủng tộc Sơn Man1, được các


1

Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn Tiểu lục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.335.

2


nhà khoa học lý giải rằng: “Man tức là Dao, và như vậy Sơn Man tức là Sơn
Dao hay cũng chính là Sán Dìu2.
Cuốn sách Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc)
được Viện Dân tộc học xuất bản năm 1979 đã trình bày cơ bản một cách
khái quát về bức tranh tộc người Sán Dìu ở Việt Nam như: Lịch sử tộc người,
văn hóa mưu sinh, văn hóa vật chất qua nhà ở, trang phục, ẩm thực và văn hóa tinh thần:
Cưới xin, ma chay...
Năm 2003, tác giả Ngô Văn Trụ và Nguyễn Xuân Cần đã (Chủ
biên) cho xuất bản cuốn sách Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang. Cuốn sách này
bước đầu đã mô tả một bức tranh toàn cảnh về người Sán Dìu ở Bắc Giang:
Từ nguồn gốc, tên gọi, địa bàn cư trú đến các hoạt động kinh tế truyền
thống, ẩm thực, trang phục truyền thống, các phong tục nghi lễ liên quan đến
chu kỳ đời người.
2.2.2. Các nghiên cứu về gia đình và hôn nhân của người Sán Dìu ở
Tuyên Quang
Năm 2007, Sở Văn hóa - Thông tin Tuyên Quang đã xuất bản cuốn
sách Bước đầu tìm hiểu dân ca dân tộc Tày, Sán Dìu và Cao Lan. Trong
cuốn sách này đã đề cập tới những làn điệu hát Soọng cô của tộc người Sán
Dìu trong đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất và những lời hát đối đáp
trong lễ cưới để từ đó đưa ra những khuyến nghị về việc bảo tồn, phát huy
các làn điệu dân ca của đồng bào các dân tộc thiểu số. Cuốn sách này cũng
là một nguồn tư liệu quan trọng để tác giả tham khảo, hoàn thiện bản luận
văn này.

Có thể nói, tất cả các công trình đã đề cập nêu trên là nguồn tư liệu có
giá trị để luận văn này tham khảo, song vấn đề đặt ra là các công trình nêu trên

2

Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.9.

3


chủ yếu chỉ là những mô tả dân tộc học, đã có ít nhiều công trình chú ý phân tích
để làm rõ đặc trưng văn hóa của tộc người Sán Dìu, những vấn đề biến đổi đang
đặt ra trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa song nghiên cứu về hôn nhân của
người Sán Dìu tại một địa bàn cụ thể là xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyê Quang để thấy được các giá trị văn hóa tộc người, truyền thống và biến
đổi; và những vấn đề đặt ra của hôn nhân đối với Luật Hôn nhân và gia đình;
công cuộc xây dựng đời sống nông thôn mới mà Đảng và Nhà nước ta đang
thực hiện thì chưa được quan tâm và nghiên cứu một cách sâu sắc, triệt để.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Giới thiệu tương đối toàn diện, đầy đủ và có hệ thống những đặc
điểm và nghi lễ trong hôn nhân truyền thống và biến đổi của người Sán Dìu
xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang trước và sau khi đất nước
ta thực hiện công cuộc đổi mới (1986), để từ đó thấy được đặc trưng văn hóa
của tộc người.
- Nêu lên những biến đổi và một số yếu tố tác động đến sự biến đổi
trong hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyên Quang.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bước đầu, đề xuất một số kiến nghị
nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp trong hôn nhân của người Sán
Dìu xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang trong xây dựng nông

thôn mới và xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là hôn nhân của người Sán
Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Trong đó, các đối
tượng cụ thể được quan tâm hơn là những người trong độ tuổi hôn nhân, những

4


người cao tuổi hiểu biết rõ về các phong tục, tập quán, nghi lễ trong hôn nhân và
các nhà tuyên truyền, thực hiện và quy hoạch chính sách.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu chính của luận văn là tập trung nghiên cứu các
vấn đề về đặc điểm, nghi thức, phong tục, tập quán kiêng kị, nghi lễ truyền
thống và hiện nay, xu hướng biến đổi liên quan đến hôn nhân của người Sán
Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Về phạm vi thời
gian, nghiên cứu tập trung miêu tả hôn nhân của người Sán Dìu trước, trong
và sau thời kỳ đổi mới (1986).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài căn cứ vào những quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện
chứng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống
các dân tộc. Bên cạnh đó để phân tích và lí giải rõ hơn về hôn nhân của
người Sán Dìu, đề tài hướng tới sử dụng 2 lý thuyết cơ bản là lý thuyết giao
lưu, tiếp biến văn hóa, lý thuyết chức năng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên
cứu sau:

- Điền dã dân tộc học: Để thực hiện luận văn này, tác giả đã thực
hiện 05 cuộc điền dã, tham dự 03 đám cưới tại xã Ninh Lai, huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang vào cuối năm 2016 và đầu năm 2017; Tổng quan,
kế thừa các tư liệu sẵn có như: Luận văn đã tham khảo, kế thừa những công
trình nghiên cứu trước, luận án, luận văn, tài liệu của tác giả trong và ngoài
nước, nhất là các cuốn sách, ấn phẩm về hôn nhân nói chung và hôn nhân
của người Sán Dìu nói riêng đã công bố thông qua nguồn tư liệu tham khảo

5


này, tác giả luận văn có thêm luận cứ để so sánh, đối chiếu nhằm thấy được
sự tương đồng và khác biệt với một số cộng đồng người Mường, Kinh, Thái
sống cộng cư. .
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ
thống, chuyên sâu về các nghi thức, nghi lễ trong hôn nhân của người Sán
Dìu xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Phản ánh chân thực
đời sống văn hóa của dân tộc này thông qua các nguyên tắc, đặc điểm, các
nghi lễ biến đổi trong hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai được luận
văn đặc biệt chú trọng và tập trung phân tích.
- Ý nghĩa thực tiễn: Từ nghiên cứu về nghi thức hôn nhân của người
Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Do đó, luận
văn sẽ góp phần bổ sung nhiều tư liệu mới và chỉ ra những yếu tố nội sinh
cũng như quá trình giao thoa, tiếp biến văn hóa trong lĩnh vực hôn nhân của
người Sán Dìu.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn được cơ cấu gồm 3 chương:
Chương 1 - Cơ sở lý luận và khái quát về địa bàn nghiên cứu.

Chương 2 - Hôn nhân của người Sán Dìu (trước thời kỳ đổi mới 1986).
Chương 3 - Hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai từ đổi mới
đến nay - Quá trình biến đổi, nguyên nhân và những vấn đề đang đặt ra.

6


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1. 1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Hôn nhân: Khi nghiên cứu về hôn nhân, Emily A.schultz và
Robobert H.Lavenda (2001) cho rằng: “Hôn nhân là một quá trình xã hội mà
mô hình mẫu của nó là sự kết hợp giữa một người đàn ông và một người đàn
bà, là một sự kiện làm biến đổi những thành viên của nó, làm thay đổi quan
hệ giữa những người thân thuộc của mỗi bên và những khuôn mẫu xã hội
thông qua việc sinh đẻ cùng với một số quyền lợi và nghĩa vụ đi kèm" [28,
tr. 342]. Theo hai tác giả, hôn nhân cũng nên tính hợp pháp của con cái do
người vợ sinh ra và thiết lập các mối quan hệ giữa họ hàng bên vợ và họ
hàng bên chồng [28, tr. 343].
- Nội hôn tộc người: Tác giả Emily A.Schultz và Robobert H.
Lavenda (2001) cho rằng: "Nội hôn là khi người ta chỉ cho phép lấy người
cùng một nhóm xã hội với mình" [28, tr. 308]. Trong đó, nội hôn tộc người
là quy tắc chỉ kết hôn với người đồng tộc trong nhóm xã hội của mình.
- Ngoại hôn dòng họ: Tác giả Emily A. Schultz và Robobert H.
Laenda (2001) cho rằng: "Ngoại hôn là khi người ta kết hôn với người thuộc
ngoài nhóm xã hội với mình. Và, hôn nhân hỗn hợp tộc người là khái niệm
dùng để chỉ sự kết hôn giữa hai người không cùng dân tộc" [28, tr.308].
Trong đó, ngoại hôn dòng họ là quy tắc kết hôn ngoài dòng họ được luật tục
hay tập quán quy định, khi người ta kết hôn với người ngoài nhóm xã hội

với mình.
- Hôn nhân đa thê: Là khái niệm dùng để chỉ sự kết hôn của khi
người đàn ông cùng một lúc có hơn một vợ cùng một thời điểm, thì mối
quan hệ này được gọi là đa thê.

7


- Hôn nhân phụ hệ: Là hình thức hôn nhân ra đời vào giai đoạn thị
tộc phụ quyền phát triển. Trong hôn nhân phụ hệ vai trò của người đàn ông,
chủ của gia đình được đề cao.
- Hôn nhân đơn hôn: Là hình thái hôn nhân cá thể, hôn nhân 1 vợ 1
chồng. Hôn nhân đơn hôn có ở chế độ mẫu hệ và phụ hệ. Trong hôn nhân
đơn hôn tính lợi ích giới và được xem là một hình thái tiến bộ của nhân loại.
Song, hiện nay trong hình thái hôn nhân đơn hôn phải tính tới tính bền vững
cũng như sự xuất hiện của các yếu tố mới chẳng hạn như hôn nhân đồng tính
[55, tr. 224].
- Hôn nhân 1 vợ 1 chồng: Là phong tục kết hôn chỉ với một người
sống thủy chung một lần, được xác lập khi đáp ứng các điều kiện theo quy
định của Luật hôn nhân và gia đình, theo đó, cá nhân đã kết hôn chỉ được có
một vợ hoặc một chồng.
- Nghi lễ hôn nhân: Nghi lễ hôn nhân được hiểu là các nghi lễ, nghi
thức diễn ra theo phong tục, tập quán hoặc quy đinh của cộng đồng trong
mỗi cuộc hôn nhân. Nghi lễ hôn nhân là một thủ tục để khẳng định cuộc hôn
nhân đó là hợp pháp, được gia đình, họ hàng, dòng tộc, cộng đồng công
nhận, nó làm thay đổi địa vị xã hội của con người.
- Truyền thống: Thói quen hình thành đã lâu trong cuộc sống và nếp
nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác [70, tr. 1.055].
- Biến đổi: Là sự thay đổi thành khác trước hoặc sự thay đổi, điều
thay đổi khác với trước [69, tr. 64]. Hôn nhân thuộc về những giá trị văn hóa

phi vật thể, do đó nó cũng không phải yếu tố bất biến mà luôn luôn vận
động, biến đổi thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn. Trong bối cảnh
hội nhập, cư trú đan xen hiện nay, biến đổi văn hóa của các tộc người, trong
đó có hôn nhân là hoàn toàn tất yếu.

8


- Bản sắc văn hóa tộc người: Bản sắc văn hóa tộc người là tổng thể
những yếu tố văn hóa vật chất và tinh thần mang đặc tính chung và riêng của
tộc người, giúp phân biệt tộc người này với tộc người khác và giữa nhóm địa
phương trong cùng tộc người với nhau.
1.1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
- Lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa: Giao lưu tiếp biến văn hóa
là quá trình một nền văn hóa thích nghi, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa
khác bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng của nền văn hóa ấy. Vì thế, sự
giao lưu tiếp biến văn hóa cũng là một cơ chế khác của biến đổi văn hóa, đó
là sự trao đổi đặc tính văn hóa nảy sinh khi các cộng đồng tiếp xúc trực diện
và liên tục. Các thành tố của nền văn hóa tuy có biến đổi, song mỗi nền văn
hóa vẫn giữ tính riêng biệt của mình… Qua quá trình tiếp xúc và giao lưu
giữa hai nền văn hóa thì xã hội yếu hơn thường sẽ bị xã hội mạnh hơn tác
động làm thay đổi [28, tr. 107-108].
- Thuyết chức năng: Theo Malinowski, văn hóa là cái nhằm thỏa
mãn nhu cầu sinh vật của mình, hơn nữa nó cải tạo môi trường xung quanh
và tạo ra môi trường sản xuất. Văn hóa là tổng thể những đáp ứng đối với
nhu cầu cơ bản và nhu cầu sản xuất. Chính vì vậy, bất kì văn hóa nào trong
tiến trình phát triển đều tạo ra một hệ thống cân bằng, ổn định, trong đó mỗi
bộ phận của chỉnh thể đều được thực hiện chức năng của nó. Như vậy,
thuyết này nhìn nhận chức năng cơ bản của văn hóa là để thỏa mãn những
nhu cầu của cá nhân về cả vật chất (kế sinh nhai, nhà ở, quần áo...) lẫn tâm

lý (nghi lễ, tôn giáo, truyền thuyết...)[65, tr.14].
1.2. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
1.2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên của huyện Sơn Dương.
Sơn Dương là một huyện miền núi nằm ở phía Nam của tỉnh Tuyên
Quang, có vị trí địa lý từ 21030' đến 21050' vĩ bắc, từ 105015' đến 105035'

9


kinh đông, từ thành phố Tuyên Quang đi dọc theo quốc lộ 37 khoảng 30km
sẽ đến huyện Sơn Dương. Huyện lỵ là thị trấn Sơn Dương cách trung tâm
thành phố Tuyên Quang 30km. Tổng diện tích tự nhiên của huyện Sơn
Dương là 78.863 ha. Dân số toàn huyện Sơn Dương là 43.588 hộ, 171.694
nhân khẩu (theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009), người Sán Dìu là
12.367 chiếm 7,2% dân số toàn huyện (có những xã người Sán Dìu chiếm
60- 80% dân số như xã Ninh Lai, Thiện Kế, ...). Sơn Dương là nơi sinh sống
của các dân tộc: Kinh, Tày, Sán Dìu, Sán Chay, Nùng, Dao, Hoa, Mông,
Mường... Tính đến năm 2010, huyện Sơn Dương có 01 thị trấn và 32 xã.
1.2.2. Khái quát về lịch sử tộc người.
Luận văn trình bày vài nét về lịch sử tộc người Sán Dìu ở xã Ninh
Lai, về cơ bản, tộc người Sán vẫn tự gọi dân tộc mình là San Dáo Nhín (Sơn
Dao Nhân) tức là người Sán Dìu. Các dân tộc lân cận dựa vào đặc điểm cư
trú, phương thức canh tác, y phục truyền thồng của tộc người Sán Dìu mà
gọi họ bằng những tên gọi khác nhau như: Trại Đất (người Trại ở nhà đất),
Trại Ruộng (người Trại làm ruộng), Trại Cộc, Mán Quần Cộc (người Mán
mặc quần cộc), Mán Váy Xẻ (người phụ nữ Mán mặc váy xẻ), Slán Dảo,
Sán Nhiêu, Sán Dìu Chộc... Tháng 3 năm 1960, Tổng cục Thống kê Việt
Nam ghi nhận tên gọi chính thức của dân tộc trong các văn bản của Nhà
nước là Sán Dìu. Căn cứ vào ngôn ngữ và một số phong tục tập quán, người
Sán Dìu được xếp vào hệ ngôn ngữ Hán - Tạng [68, tr.18].

1.2.3. Khái quát về xã Ninh Lai.
1.2.3.1. Lịch sử và điều kiện tự nhiên.
Xã Ninh Lai nằm ở phía Nam của huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên
Quang, cách trung tâm huyện khoảng 35km, cách thành phố Tuyên Quang
khoảng 65km. Phía bắc giáp xã Thiện Kế, phía nam giáp xã Đạo Trù (huyện
Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc). Hiện nay xã Ninh Lai gồm có 20 thôn. Tổng diện

10


tích đất tự nhiên là 2.468 ha. Dân số là 2.061 hộ với 8.493 nhân khẩu, gồm 03
dân tộc anh em cùng chung sống: Sán Dìu, Kinh, Dao. Trong đó, người Sán Dìu
đông nhất chiếm 75% dân số toàn xã [53, tr 5,7,123].
1.2.3.2. Một số đặc điểm kinh tế.
Người Sán Dìu ở đây sống chủ yếu bằng phương thức trồng trọt, chăn
nuôi. Đồng bào khai phá nương rẫy từ rừng tự nhiên đất màu mỡ, thích hợp với
từng loại cây trồng như lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, vừng, hoa màu các loại và rau
xanh... Hệ thống đồi núi thấp và dải đất bằng là thế mạnh của xã Ninh Lai, thuận
lợi cho việc trồng một số loại cây công nghiệp như mía, cây lấy gỗ và trồng một
số giống lúa đặc sản, thơm ngon, đảm bảo cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp bền
vững. Các điều kiện tự nhiên của xã đã tạo tiền đề thuận lợi để cho xã Ninh Lai
xây dựng cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp toàn diện.
1.2.3.3. Đời sống xã hội
Hiện nay, tỉnh Tuyên Quang có 22 dân tộc anh em cùng cư trú,
trong đó, tại xã Ninh Lai có 03 dân tộc (Sán Dìu, Kinh, Dao) cùng sinh sống
quần tụ chan hoà trong khối đoàn kết gắn bó keo sơn. Người Sán Dìu sống
theo gia đình nhỏ, trong đó mọi quyền hành thuộc về người chồng, người
đàn ông. Đơn vị cư trú của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai tương đương với
một làng của người Kinh gọi là bản. Bản người Sán Dìu ở xã Ninh Lai
thường được phân bố ở cạnh các sườn núi, các ngọn đồi thấp dọc theo sông,

suối. Gia đình người Sán Dìu ở Ninh Lai là gia đình nhỏ phụ hệ, địa vị xã
hội của người đàn bà trong gia đình ít được coi trọng như nam giới. Vai trò
của người đàn ông trong gia đình bao giờ cũng là trụ cột quyết định những
vấn đề lớn như thờ cúng tổ tiên, khai phá ruộng nương, làm nhà, tổ chức
việc cưới, việc tang...
1.2.3.4. Đời sống văn hóa
- Văn hóa vật chất:

11


Về nhà ở, tên gọi nhà ở theo tiếng Sán Dìu là "Ốc". Cấu trúc ngôi nhà
của người Sán Dìu thường được dựng 3 gian, 2 bên nhô ra phía trước khoảng
80cm, tạo nên một cái hiên nhỏ ở phía trước gian chính giữa. Mái nhà lợp bằng
tranh, cọ hay rơm rạ, xung quanh còn nhà được che bằng vách đất3.
Về ăn uống, người Sán Dìu thường ăn ba bữa một ngày, lương thực
chính của người Sán Dìu là gạo, gồm có gạo nếp và gạo tẻ, ngoài ra còn có
ngô, khoai, sắn. Đồ uống là nước trà, lá vối hoặc các loại rễ cây rừng phơi
khô. Trong các bữa cơm, đàn ông Sán Dìu thường có thói quen uống một vài
chén rượu, đặc biệt khi gia đình có khách, mời rượu khách để thể hiện lòng
hiếu khách.
Về trang phục, y phục của người Sán Dìu trước đây được may từ
vải sợi bông hoặc tơ tằm do đồng bào tự dệt. Đồng bào thường nhuộm vải
màu chàm để may quần áo và hầu như không có hoa văn trang trí.
- Văn hóa tinh thần:
Người Sán Dìu ở xã Ninh Lai thường hướng tới thế giới tâm linh, họ
coi vạn vật đều có linh hồn. Vì thế, người Sán Dìu ở đây ngoài thờ cúng tiên,
ông bà còn thờ cả các vị thánh, vị thần, Thành Hoàng làng. Các đặc trưng văn
hóa của tộc người được thể hiện rõ qua các nghi lễ sinh đẻ, phong tục cưới hỏi,
tang ma và các phong tục tập quán khác của người Sán Dìu.

1.2.3.5. Công tác giáo dục
Năm học 2015 - 2016, trường Tiểu học xã Ninh Lai có 28 lớp học
với 769 học sinh; Trường Trung học cơ sở có 18 lớp với 448 học sinh. Cả 2
trường đều nằm tại trung tâm xã; năm 2016 đạt chuẩn quốc gia. Tổng cộng
toàn xã có 01 trường mầm non cũng nằm ở trung tâm xã gồm có 20 lớp học,

3

Ma Văn Bằng - Người Sán Dìu ở Việt Nam - Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983.

12


tổng cộng 508 cháu.(Theo báo cáo tổng kết năm 2015 - 2016 của UBND xã
Ninh Lai).
1.2.3.6. Công tác y tế
Công tác chăm sóc sức khỏe người dân được quan tâm đều đặn và
thường xuyên. Toàn xã Ninh Lai có 01 trạm y tế, các chương trình y tế quốc
gia, chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình uốn ván sơ sinh và thực
hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh, phòng chống sốt rét…
Tiểu kết chương 1
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng một số
khái niệm cơ bản như : Hôn nhân, nghi lễ, văn hóa tộc người, truyền thống,
biến đổi..., một số lý thuyết nghiên cứu được sử dụng trong luận văn như : Lý
thuyết chức năng, lý thuyết giao lưu tiếp biến văn hóa để phân tích và đánh giá các nội
dung của luận văn.
Địa bàn nghiên cứu chính của đề tài luận văn là xã Ninh Lai, với tỷ
lệ chiếm 75% dân số của toàn xã, cùng với điều kiện địa lý tự nhiên, khí hậu,
đất đai, nơi cư trú và lịch sử tụ cư của người Sán Dìu đã tạo nên một nền văn
hóa đa dạng, phong phú, mang sắc thái đặc trưng riêng của người Sán Dìu ở

xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

13


CHƯƠNG 2
HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở XÃ NINH LAI
TRƯỚC ĐỔI MỚI (1986)
2.1. Quan niệm về hôn nhân
Người Sán Dìu cũng như một số đồng bào khác cũng có quan niệm
trai lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng, khi nam nữ thanh niên lớn lên phải có
đôi, có cặp. Con trai lớn lên mà không cưới vợ là có tội với tổ tiên, gia đình,
dòng tộc họ hàng; con gái lớn lên mà bố mẹ không gả chồng được cho con là
nỗi buồn lo của gia đình. Và một cuộc hôn nhân tốt đẹp, một đôi vợ chồng
hạnh phúc, theo quan niệm của người Sán Dìu là phải môn đăng, hộ đối về
gia đình, dòng họ, về bản thân đôi nam nữ đó phải khỏe mạnh, tuổi đời cũng
như sự hiểu biết, trình độ phải tương xứng, trong cuộc sống vợ chồng hàng
ngày làm gì cũng phải được bàn bạc, thống nhất và đoàn kết với nhau trong
mọi công việc dù lớn hay nhỏ.
2.2. Nguyên tắc hôn nhân
2.2.1. Cách thức tìm hiểu bạn đời
Người Sán Dìu nói chung và người Sán Dìu ở xã Ninh Lai nói riêng
trong xã hội truyền thống, nam nữ thanh niên được quyền tự do tìm hiểu bạn đời
trước khi kết hôn, thể hiện vai trò tự do lựa họn bạn đời của họ trong hôn nhân.
2.2.2. Quyền quyết định hôn nhân
Trong văn hóa của người Sán Dìu, các bậc làm cha, làm mẹ khá tôn
trọng việc lựa chọn người bạn đời của con cái mình bởi họ cũng có suy nghĩ
rằng: Trai gái người Sán Dìu chúng tôi yêu nhau, lấy nhau thường rất hạnh
phúc vì trải qua quá trình tìm hiểu, bố mẹ cũng thường tôn trọng sự lựa chọn
của con cái ở các gia đình quyền quý xưa mới thường hay gả ép để môn

đăng hộ đối.
2.2.3. Tuổi kết hôn

14


Trong xã hội truyền thống, người Sán Dìu ở xã Ninh Lai con trai
thường 17-18 tuổi có vợ đã, con gái 16-17 tuổi đã gả chồng và đồng bào
quan niệm lứa tuổi như vậy để dựng vợ, gả chồng là phù hợp, con trai cũng
đã đến tuổi trưởng thành, đã được tham gia vào các hoạt động của cộng
đồng, gia đình, phụ nữ này bắt đầu biết chăm lo cho gia đình và làm mẹ.
2.2.4. Tiêu chí lựa chọn bạn đời
Người đàn ông là trụ cột chính trong gia đình, nên người chồng lý
tưởng, thường được để ý đến gia đình có hòa thuận không; khi lựa chọn bạn đời
của mình các cô gái thường để ý xem là người ấy có sức khỏe tốt, cao to, có sức
vóc hơn người, biết săn bắt hái lượm, cần cù, chịu khó, chăm chỉ làm ăn...
Người vợ lý tưởng, phải là một cô gái khỏe mạnh, ngoan hiền, nết
na, thùy mị, cần cù, chăm chỉ, chịu khó, bắp chân to mập mạp, giỏi việc
đồng áng và chăm lo hạnh phúc cho gia đình, phẩm chất đạo đức tốt, biết
trồng bông, xe sợi, dệt vải và biết may vá, thêu thùa, có thể làm được cái
chăn đắp, áo mặc cho chồng, cho con.
2.2.5. Tính chất hôn nhân
Hôn nhân truyền thống của người Sán Dìu thường mang tính gả bán
khá rõ nét, thể hiện qua việc sau khi hai bên đã quyết định đi tới hôn nhân,
đại diện nhà trai và nhà gái cùng nhau trao đổi, bàn bạc, thỏa thuận, thống
nhất về số tiền cũng như lượng thực phẩm: Gạo, gà, rượu, chè, thuốc lá…
mà nhà trai phải mang sính lễ dẫn cưới sang cho nhà gái. Trong đó, không thể một
khoản tiền mặt, bạc trắng với ý nghĩa để mua người con gái về nhà mình.
2.3. Nguyên tắc và hình thức kết hôn
2.3.1. Ngoại hôn dòng họ

Trong quan hệ hôn nhân, người Sán Dìu xưa kia cũng như một số
dân tộc khác quan niệm, người cùng họ không được lấy nhau, nhất là trong
cùng một hệ thống tên đệm (mỗi họ có một hệ thống tên đệm riêng), thì dù

15


xa nhau đến mấy đời cũng không được lấy nhau. Người Sán Dìu không có
tục lệ hôn nhân nối dây.
2.3.2. Nội hôn tộc người
Nội hôn tộc người là sự lựa chọn người đối ngẫu để kết hôn cùng một
dân tộc, được luật tục hoặc tập quán đã định rõ. Theo quan niệm truyền thống
của người Sán Dìu xưa kia, phổ biến là nam nữ cùng dân tộc kết hôn với nhau.
Đặc biệt, do sống cùng bản với nhau nên các chàng trai, cô gái thường biết khá
rõ về nhau và gia đình của nhau trước khi tìm hiểu và tiến tới hôn nhân, từ đó có
điều kiện tạo lập được một gia đình bền vững.
2.3.3. Hôn nhân hỗn hợp dân tộc
Hôn nhân hỗn hợp giữa các dân tộc đương nhiên không được ưa
thích và trên thực tế rất hiếm có những gia đình mà vợ và chồng lại thuộc về
hai dân tộc khác nhau. Do nhiều nguyên nhân lịch sử khác nhau, dẫn đến
những định kiến giữa các dân tộc với nhau cũng xảy ra sâu sắc, nên phần lớn
các cặp vợ chồng người Sán Dìu lấy nhau đều cùng một thành phần dân tộc,
để củng cố và bảo vệ sự thống nhất trong cộng đồng dân tộc.
2.3.4. Hôn nhân đa thê, hôn nhân của những người góa vợ, góa
chồng, gái chửa hoang
Đối với những người “số phận hẩm hiu”, chẳng may “nửa đường đứt
gánh”, chịu cảnh góa vợ, góa chồng lúc tuổi đời còn trẻ hay khi con cái còn thơ
dại, thiếu người nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ, bảo ban… thì sau khi đoạn tang
được phép tục huyền, tái giá, đi thêm bước nữa. Trong trường hợp trai tân mà
lấy gái góa tuy không bị dân bản chê cười, nhưng hiếm khi xảy ra, vì đồng bào

cho rằng, sau này khi chết đi, người chồng sẽ bị mồ côi vợ ở thế giới biên kia, vì
vợ anh ta lúc đó sẽ xum họp với hồn ma của người chồng cũ. Còn trường hợp
gái tân mà lấy trai góa vợ thì phải được bố mẹ gia đình cô gái đồng ý và tổ chức
hôn lễ theo tập tục của đồng bào, tức là nhà trai phải trải qua các thủ tục, nghi lễ

16


của đám cưới đầy đủ như cưới vợ lần đầu. Đối với gái chửa hoang, người Sán
Dìu ở Ninh Lai tuân thủ theo luật tục, quan niệm của đồng bào chửa hoang là
một vấn đề rất nặng nề.
2.3.5. Ngoại tình và ly hôn
Gắn liền với quan niệm về một cuộc sống chung thủy, gắn bó nên
với Sán Dìu chuyện vợ chồng ly dị cũng là chuyện hiếm có, nếu điều đó có
xảy ra thì không chỉ liên quan đến việc phân chia con cái, tài sản mà còn khó
lòng tránh khỏi những lời dèm pha, chê bai, đàm tiếu, dị nghị của họ hàng,
làng xóm, nhất là với phụ nữ.
2.4. Nghi lễ trong hôn nhân
2.4.1. Bước tìm hiểu
Khi con cái đến tuổi trưởng thành, các bậc cha mẹ đã để ý tìm kiếm
ý trung nhân cho con trai, con gái để được thuận tuổi cũng như phù hợp
hoàn cảnh gia đình, hoặc trường hợp trai gái yêu nhau họ cũng thường tìm
hiểu tuổi hợp nhau để có thể tiến xa hơn. Khi nhà gái đồng ý hai bên tiến
hành các nghi lễ tiếp theo.
2.4.2. Trước lễ cưới (Khịn tạo sênh ca chíu)
Trước lễ cưới, hai bên gia đình thường tiến hành một số lễ thức cần
thiết nhằm đánh dấu quan hệ của đôi nam nữ và thể hiện trách nhiệm của hai
bên gia đình đối với hôn nhân của con cái mình, tạo điều kiện để đôi nam nữ
tiến tới hôn nhân, gồm có: Nghi lễ xin lá số (Lỏng nén sang); Nghi lễ dạm ngõ
(Hỵ mun); Nghi lễ ăn hỏi và nghi lễ sang bạc (Hỵ mun nghén cạ/Hỵ cộ nghén);

Nghi lễ nộp cheo (Nap cheo); Nghi lễ gánh gà (Tam cay bạo nhít).
2.4.3. Lễ cưới
Đây là nghi lễ chính thức để gia đình, dòng họ và cộng đồng công
nhận cô dâu, chú rể là vợ chồng. Đám cưới của người Sán Dìu ở Ninh Lai,
để thực hiện các thủ tục, các nghi lễ trong đám cưới ngoài ông mối, bà mối

17


thì nhà trai cũng như nhà gái đều phải có một ông Quan lang trưởng (Tạm
lòng thòi) làm trưởng đoàn. Thông thường, người ta chọn người làm trưởng
đoàn là người thân thuộc trong gia đình, dòng họ, sẽ tham gia từ lúc ăn hỏi
cho đến kết thúc lễ cưới. Người được chọn làm quan lang trưởng phải có
cuộc sống vợ chồng hòa thuận, con trai, con gái song toàn, làm ăn giỏi, và
đặc biệt là phải giỏi hát Soọng cô.
Để chuẩn bị cho đám cưới diễn ra trong 4 đêm, 5 ngày, hai bên gia
đình phải chuẩn bị rất nhiều thứ, ngoài phần lo vật chất để làm mâm cỗ mời
họ hàng, người quen, công tác tổ chức cũng rất được quan tâm. Việc nhờ
mọi người cùng tổ chức, tham gia từng công việc cụ thể được tiến hành chu
đáo từ trước khi cưới nhiều ngày.
Khai hoa tửu: Là một nghi lễ không thể thiếu trong đám cưới của
người Sán Dìu, thể hiện một nét văn hóa đặc trưng và đậm chất nhân văn của
tộc người. Trong lễ này, lễ vật dùng khai hoa tửu chính là “Bình rượu tình”
(chíu sếnh ang) mà nhà trai đưa tới, có hai quả trứng vịt luộc nối với nhau
bằng hai sợi chỉ màu xanh đỏ, hai đầu dây xâu hai đồng tiền lỗ vuông mà
nhà trai mang sang (lễ vật này ngày nay gọi là là lễ tơ hồng của nhà trai
mang sang đón dâu).
2.4.4. Sau đám cưới
- Lễ lại mặt (Chọn thap kiooc chiéc)
Không chỉ có trong lễ cưới cổ truyền mà cho đến hôm nay, lễ lại

mặt vẫn được dồng bào Sán Dìu ở Ninh Lai vẫn duy trì, gìn giữ và thực
hiện. Lại mặt là nghi lễ cuối cùng của đám cưới. Ý nghĩa của nghi lễ này là
nhắc nhở con cái giữ đạo hiếu, biết ơn sinh thành của cha mẹ, nhắc chàng rể
coi bố mẹ vợ cũng như bố mẹ mình
- Một số phong tục, tập quán khác

18


Trong cuộc sống, người Sán Dìu rất quý con dâu, coi con dâu như
con gái nhà, và cũng rất quý con rể, coi con rể như con trai trong nhà. Các
em chồng rất quý chị dâu, nhất là các em gái. Các em vợ rất trọng anh rể. Do
đó, cô dâu tuy mới về nhà chồng cũng rất yên tâm và sống vui vẻ trong gia
đình nhà chồng. Con rể cũng rất vui vẻ đi lại nhà bố mẹ vợ. Con rể coi bố
mẹ vợ cũng như bố mẹ mình.
- Đám cưới đối với trường hợp ở rể:
Theo phong tục truyền thống người Sán Dìu từ trước đến nay, cư trú
sau hôn nhân là ở bên nhà chồng. Tuy nhiên, gia đình nào không có con trai
thì người con gái sẽ cưới rể về nhà, người Sán Dìu ở Ninh Lai gọi là “rip
món” (ở rể). Trong trường hợp này, nhà gái đứng ở vị trí nhà trai và chủ
động tổ chức hôn lễ như những cuộc hôn nhân bình thường khác, từ lễ dạm
ngõ, ăn hỏi và cưới...
Tiểu kết chương 2
Hôn nhân của người Sán Dìu vẫn mang nặng tính chất phụ quyền,
gia trưởng với vai trò quyết định chính vẫn là nam giới, gia đình, họ hàng
trai. Trai gái được tự do tìm hiểu nhau nhưng cha mẹ, dòng họ là người
quyết định hôn nhân của con cái. Các quy tắc hôn nhân truyền thống vẫn
được bảo tồn: Ngoại hôn dòng họ, nội hôn tộc người, cô dâu cư trú bên nhà
chồng… Trong hôn nhân, mục đích chính là sinh con, đẻ cái, tăng nhân lực
cho gia đình, dòng họ. Vì vậy, mọi quan niệm về tiêu chuẩn chọn bạn đời

đều hướng vào mục đích đó. Hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai
diễn ra với nhiều nghi lễ khác nhau, về cơ bản có các bước: Tìm hiểu, yêu
đương; xin lá số; dạm ngõ; ăn hỏi; sang bạc; nộp cheo; gánh gà; lễ cưới; lễ
lại mặt. Các nghi lễ này đã trở thành phong tục tập quán, nếp sống và là đặc
trưng mang đậm giá trị bản sắc văn hóa tộc người Sán Dìu ở xã Ninh Lai,
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

19


CHƯƠNG 3
BIẾN ĐỔI TRONG HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY
3.1. Biến đổi trong đặc điểm và quan niệm hôn nhân của người Sán Dìu
3.1.1. Biến đổi về quan niệm hôn nhân
- Biến đổi về cách thức tìm hiểu, quyền lựa chọn bạn đời và quyết
định hôn nhân.
- Biến đổi về tuổi kết hôn.
- Biến đổi về tiêu chí lựa chọn bạn đời.
- Biến đổi cư trú sau hôn nhân.
- Biến đổi tính chất hôn nhân.
- Biến đổi trong ly hôn.
3.1.2. Biến đổi về nguyên tắc và hình thức kết hôn
- Ngoại hôn dòng họ.
- Nội hôn tộc người
- Hôn nhân hỗn hợp dân tộc.
- Hôn nhân đa thê, hôn nhân của những người góa vợ, góa chồng,
gái chửa hoang.
3.1.3. Biến đổi về phong tục tập quán, kiêng cữ và nghi lễ
- Biến đổi về phong tục, tập quán, nghi lễ

- Biến đổi về trang phục
3.2. Nguyên nhân của sự biến đổi
3.2.1. Tác động của pháp luật
3.2.2. Tác động của các chính sách đổi mới kinh tế - xã hội
3.2.3. Tác động của yếu tố văn hóa, xã hội, giáo dục và thông tin
truyền thông

20


3.2.4. Những ảnh hưởng của các nghi lễ trong hôn nhân của người
Sán Dìu đến quá trình Xây dựng nông thôn mới và cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.

3.2.4.1. Quá trình xây dựng nông thôn mới và cuộc vận động “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” ở xã Ninh Lai.
Đối với xã Ninh Lai, việc triển khai Chương trình nông thôn mới
được thực hiện vào giữa năm 2011 cùng với việc ban hành Nghị quyết
thực hiện của Đảng ủy và chính quyền xã. Qua 6 năm thực hiện, theo báo
cáo của UBND xã Ninh Lai, đến tháng 10 năm 2016, xã đã đạt 19/19 tiêu
chí theo quy định của bộ tiêu chí Quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
3.3.4.2. Ảnh hưởng của phong tục, tập quán và nghi lễ hôn nhân
đối với quá trình xây dựng nông thôn mới tại cộng đồng dân cư
Thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng đời sống
văn hóa mới từ năm 1986 đến nay, được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương, nhân dân xã Ninh Lai đã phát động và thực hiện
phong trào "Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa mới" ở 20 thôn bản trong
địa bàn toàn xã. Trong đó, tang ma, cưới xin của người Sán Dìu là một trong
những nội dung cơ bản liên quan tới việc thực hiện nếp sống văn minh ở xã
Ninh Lai đến địa bàn từng thôn và tới từng hộ gia đình.

3.3. Bảo tồn và phát huy các giá trị hôn nhân
3.3.1. Một số đặc điểm văn hóa tộc người trong hôn nhân
3.3.2. Những vấn đề hôn nhân của người Sán Dìu đang đặt ra
hiện nay
3.3.3. Khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị trong
hôn nhân
Dựa trên tình hình thực tế và từ việc đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về
hôn nhân của người Sán Dìu nơi đây, tác giả luận văn bước đầu đề xuất một
vài khuyến nghị như sau:

21


- Tiếp tục thực hiện tốt nhóm giải pháp về công tác tuyên truyền,
vận động.
- Tiếp tục phát huy vai trò của các cụ già làng, trưởng họ, người có uy
tín, bà cô, ông cậu, thầy cúng và các thành viên hội nghệ nhân dân gian...
- Cấp ủy, chính quyền các cấp cần quan tâm, thực hiện tốt việc thống
kê, sưu tầm, biên soạn, phục dựng lại những phong tục, tập quán tốt đẹp của
người Sán Dìu.
- Tăng cường vai trò của các cấp, các ngành trong việc giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Tiếp tục thực hiện việc đưa văn hóa truyền thống vào trường học.
- Có chính sách ưu tiên đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số.
Tiểu kết chương 3
Việc đi sâu nghiên cứu những biến đổi trong hôn nhân của người
Sán Dìu trong thời kỳ đổi mới chính là cơ sở để xây dựng chủ trương, phối
hợp với chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Trên cơ sở đó tiếp tục làm giàu thêm vốn văn hóa sẵn có của tộc
người, giúp các nhà hoạch định chính sách xây dựng, chỉ đạo, thực hiện

thành công phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình, làng bản văn
hóa phù hợp với phong tục, tập quán của dân tộc; khuyến khích, phát huy
những phong tục, tập quán tốt đẹp, có giá trị nhân văn, thể hiện bản sắc tộc
người, loại bỏ những tập quán không còn phù hợp với xây dựng đời sống
văn hóa mới.

22


KẾT LUẬN
Nghiên cứu về hôn nhân của người Sán Dìu ở Ninh Lai không chỉ
có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn, để từ đó có
những kiến nghị, đề xuất với cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp trong việc cưới. Những kết quả đạt được
đã có đóng góp cho khoa học về nguồn tư liệu mới về tộc người Sán Dìu ở
địa bàn nghiên cứu nói riêng và các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung; giúp
các nhà nghiên cứu đi sau có cái nhìn khái quát hơn khi đi sâu vào tìm hiểu
lĩnh vực hôn nhân và có điều kiện để so sánh, đánh giá về hôn nhân của
người Sán Dìu giữa các vùng miền cụ thể. Trên cơ sở tiếp cận từ góc nhìn
Nhân học/ Dân tộc học, chúng ta nhận thấy hôn nhân của người Sán Dìu là
chuỗi hệ thống giá trị mang đặc trưng sắc thái tộc người. Các đặc điểm,
nguyên tắc, hình thức, tập quán, nghi lễ hôn nhân của người Sán Dìu ở Ninh
Lai có sự tương đồng và khác biệt, mang yếu tố lịch sử, kinh tế - xã hội, văn
hóa tộc người giữa các vùng miền. Đây là những yếu tố quan trọng để có thể
so sánh với hôn nhân của người Sán Dìu cư trú ở các vùng miền khác, cũng
như tộc người khác trên lãnh thổ Việt Nam.

23



×