TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
***
Hoµng Ph-¬ng mai
GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở XÃ NINH LAI
HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội - 2011
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
***
Hoµng Ph-¬ng mai
GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở XÃ NINH LAI
HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60 22 70
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Thanh
Hà Nội - 2011
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
4
2. Mục tiêu nghiên cứu
5
3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu
5
4. Nguồn tư liệu của luận văn
5
5. Đóng góp của luận văn
5
6. Bố cục của luận văn
6
Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu
7
1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả ngoài nước về gia đình
7
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nước về gia đình
9
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
12
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
12
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu
15
1.2.3. Một số khái niệm cơ bản
16
1.3. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
19
1.3.1. Tên gọi và nguồn gốc tộc người
19
1.3.2. Điều kiện tự nhiên, môi trường
22
1.3.3. Dân số
25
1.3.4. Khái quát về kinh tế, văn hóa, xã hội tộc người
27
Tiểu kết
34
Chương 2: PHÂN LOẠI, CẤU TRÚC, QUY MÔ VÀ CHỨC NĂNG
CỦA GIA ĐÌNH
2.1. Những tiêu chí phân loại gia đình
35
2.2. Cấu trúc của gia đình
36
2.3. Quy mô gia đình
42
2.4. Các chức năng cơ bản của gia đình
44
2.4.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
45
2.4.2. Chức năng kinh tế
48
2.4.3. Chức năng xã hội
52
2.4.4. Chức năng giáo dục
53
5
2.5. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
56
2.5.1. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái
56
2.5.2. Quan hệ giữa vợ và chồng
58
2.5.3. Quan hệ giữa các anh, chị, em trong gia đình
59
Tiểu kết
60
Chương 3: CÁC PHONG TỤC VÀ NGHI LỄ TRONG CHU KÌ ĐỜI
NGƯỜI
3.1. Phong tục, nghi lễ sinh đẻ và nuôi con
61
3.1.1. Phong tục và nghi lễ sinh đẻ
61
3.1.2. Phong tục và nghi lễ nuôi dạy con cái
64
3.2. Phong tục và nghi lễ cưới xin
67
3.2.1. Quan niệm về hôn nhân và cưới xin của người Sán Dìu
67
3.2.2. Các nghi lễ và phong tục trong cưới xin
69
3.3 Phong tục và nghi lễ tang ma
83
3.3.1. Quan niệm của người Sán Dìu về thế giới tâm linh
83
3.3.2. Phong tục và nghi lễ đám tang
84
3.3.3. Nghi lễ làm ma
92
Tiểu kết
100
Chương 4: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH NGƯỜI SÁN DÌU
4.1. Những biến đổi về cấu trúc, quy mô, chức năng, mối quan hệ, phong
tục và nghi lễ gia đình
101
4.1.1. Biến đổi về cấu trúc và quy mô của gia đình
101
4.1.2. Biến đổi về chức năng của gia đình
105
4.1.3. Biến đổi về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
113
4.1.4. Biến đổi về các nghi lễ trong gia đình
117
4.2. Nguyên nhân biến đổi
124
4.2.1. Tác động của điều kiện kinh tế, văn hóa và xã hội
124
4.2.2. Tác động từ các chính sách của Đảng và của Nhà nước
129
Tiểu kết
135
Kết luận
136
Tài liệu tham khảo
138
Danh sách những người trả lời phỏng vấn sâu
141
Phụ lục
142
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Sán Dìu có 126.565 người
- đứng thứ 17 trong bảng thống kê dân số ở Việt Nam [10, tr.46]. Người Sán
Dìu cư trú tập trung ở vùng trung du các tỉnh Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh,
Bắc Cạn, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Trong nhiều thập kỉ qua, đã có không
ít các công trình nghiên cứu về dân tộc này. Tuy nhiên, chưa có một chuyên
khảo dân tộc học nào về truyền thống và biến đổi của gia đình dân tộc Sán Dìu ở
một địa phương cụ thể.
Người Sán Dìu với phong tục tập quán phong phú chứa đựng các giá trị nhân
văn sâu sắc được hình thành và phát triển trong tiến trình lịch sử đã trở thành những
đặc trưng văn hóa cần được lưu giữ. Gia đình là nơi bảo lưu một phần đáng kể các
yếu tố văn hóa truyền thống, là nơi biểu hiện các chân giá trị về chuẩn mực đạo đức,
thẩm mỹ, tâm lý, mối quan hệ giữa con người với con người và con người với xã
hội. Do đó cần có nghiên cứu về gia đình, tìm hiểu và luận giải một phần cụ thể về
bản sắc của tộc người Sán Dìu.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Các yếu tố văn hóa nảy sinh trong điều kiện xã hội mới đã tác
động nhiều chiều đến đời sống của người Sán Dìu. Vì vậy, nghiên cứu về gia đình
được đặt ra như một nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa cả về khoa học và thực tiễn
bởi gia đình là một trong những thiết chế xã hội quan trọng, liên quan đến hoạt
động của mỗi cá nhân cũng như cộng đồng. Theo quan điểm hệ thống, mỗi thiết
chế xã hội biến đổi sẽ dẫn đến cả hệ thống những thiết chế xã hội như kinh tế, pháp
luật, văn hoá… biến đổi theo. Chính vì vậy, gia đình và đặc biệt là gia đình các dân
tộc thiểu số, phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong giai đoạn toàn cầu hoá
hiện nay.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, tôi lựa chọn đề tài: "Gia đình của người
Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang - truyền thống
và biến đổi" làm đề tài luận văn thạc sĩ. Qua nghiên cứu này, sẽ góp thêm tư liệu
về gia đình người Sán Dìu ở Việt Nam nói chung và người Sán Dìu ở Tuyên
Quang nói riêng. Trên cơ sở nghiên cứu, luận văn chỉ ra những yếu tố tích cực và
những mặt hạn chế của gia đình truyền thống, góp phần bảo lưu những tinh hoa
văn hoá của gia đình người Sán Dìu ở Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Luận văn trình bày về quy mô, cấu trúc, loại hình gia đình, nghi lễ truyền
thống và biến đổi trong gia đình người Sán Dìu ở xã Ninh Lai huyện Sơn Dương,
tỉnh Tuyên Quang.
- Chỉ rõ những đặc điểm, khuynh hướng phát triển hiện nay của gia đình tộc
người Sán Dìu và lý giải nguyên nhân tác động đến những biến đổi đó.
3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là gia đình của người Sán Dìu, bao gồm
những vấn đề cơ bản như: Loại hình, cấu trúc, các mối quan hệ và chức năng của gia
đình, các nghi lễ gia đình truyền thống và những biến đổi.
- Địa bàn nghiên cứu của luận văn là xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyên Quang. Đây là nơi có nhiều người Sán Dìu sinh sống nhất và còn bảo lưu
nhiều đặc điểm văn hóa tộc người.
4. Nguồn tư liệu của luận văn
- Nguồn tư liệu chính của Luận văn được tác giả thu thập trong các đợt điền
dã dân tộc học từ tháng 3-2009 đến tháng 9-2011. Thông qua phân tích, xử lý các
số liệu định lượng và định tính qua các cuộc phỏng vấn sâu, quan sát, điều tra bảng
hỏi, với người dân tại địa bàn nghiên cứu, đặc biệt là những người có uy tín và
hiểu biết trong cộng đồng tộc người.
- Kế thừa những kết quả nghiên cứu đã được công bố về người Sán Dìu có
liên quan đến nội dung luận văn.
- Nguồn tài liệu thống kê của Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang, Ủy ban Nhân dân
huyện Sơn Dương, Ủy ban Nhân dân xã Ninh Lai,
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về gia đình truyền thống và
những biến đổi của gia đình người Sán Dìu ở một địa phương cụ thể.
- Trên cơ sở nguồn tư liệu mới về gia đình người Sán Dìu, luận văn chỉ ra
những đặc trưng văn hóa, sự tương đồng và khác biệt với người Sán Dìu ở địa
phương khác.
- Trên cơ sở chỉ rõ những biến đổi của gia đình Sán Dìu truyền thống, luận
văn còn phân tích những nguyên nhân dẫn đến những biến đổi.
- Luận văn đóng góp thêm cơ sở khoa học giúp các nhà quản lý, hoạch định
chính sách, bảo tồn văn hóa dân tộc Sán Dìu.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm
có 4 chương:
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lí thuyết, phương pháp và địa bàn
nghiên cứu
Chương 2. Phân loại, cấu trúc, quy mô và chức năng của gia đình
Chương 3. Các phong tục và nghi lễ trong chu kì đời người
Chương 4. Những biến đổi của gia đình người Sán Dìu
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả ngoài nước về gia đình
Nghiên cứu về gia đình trên thế giới đã có một quá trình lâu dài với sự quan
tâm của nhiều học giả nổi tiếng, song nghiên cứu về gia đình dưới góc độ nhân
học thực sự phát triển từ thế kỉ XIX.
Một nghiên cứu mang ý nghĩa quan trọng trong sự hình thành hệ thống lý thuyết
về gia đình là tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước (1884)
của F. Engels. Đây là tác phẩm có tính hệ thống và vạch ra những mối quan hệ bên trong
gia đình đối với cấu trúc bên ngoài và toàn xã hội.
Vào những thập niên 20 và 30 của thế kỷ XX, đại diện cho xu hướng nghiên
cứu mối quan hệ giữa các cá nhân và văn hóa là Margaret Mead (1901-1978), với
nghiên cứu Tuổi dậy thì ở Samoa (Coming of Age), khẳng định vai trò từ phía gia
đình và mô hình văn hóa của gia đình tác động đến tâm lý trẻ vị thành niên ở Mỹ
nhiều hơn là các yếu tố sinh học, quan điểm này còn có giá trị phổ biến đến ngày nay.
Đóng góp quan trọng về phương pháp luận nghiên cứu gia đình trên thế giới
nói chung và ở Liên Xô cũ nói riêng là M.O.Koxven với cuốn Sơ yếu lịch sử văn
hóa nguyên thủy xuất bản năm 1953. Nghiên cứu đã đánh dấu cho xu hướng nghiên
cứu so sánh về gia đình giữa các nước, các lục địa, các tộc người và các nền văn hóa
khác nhau thể hiện được tiến trình phát triển và lí giải nguồn gốc phát sinh một số
vấn đề trong nghiên cứu gia đình.
Tiếp đó có thể kể đến O.A.Sukhaneva, với các nghiên cứu: Phong tục tập quán
trong hôn nhân và đám cưới tại làng Tadzhiks ở Shakhristan, Gia đình Hồi giáo
Uzbekistane (1960), Gia đình và gia đình các dân tộc Trung Á, Nghi lễ kết hôn
truyền thống của các dân tộc Trung Á (1978)…
Nghiên cứu về gia đình hiện nay có thể kể đến tác giả Clark W.Soransen bài viết
in trong cuốn Asia’s Cultural Mosaic - An Anthropological Introduction (Bức khảm
văn hoá Châu Á - Tiếp cận nhân học) (1993), đề cập đến gia đình các cư dân châu Á
trong đó có Việt Nam, đặc biệt tác giả đã chú ý phân tích mô hình làng xã và cơ cấu
của gia đình truyền thống.
Bên cạnh đó là Emily A. Schultz và Robert H.Lavanda trong Nhân học - một
quan điểm về tình trạng nhân sinh (2001), đưa ra những vấn đề cơ bản của nghiên
cứu nhân học, trong đó có những vấn đề về nghiên cứu gia đình và cách phân loại
gia đình.
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nước về gia đình
- Các nghiên cứu chung về gia đình
Nghiên cứu về gia đình dưới góc độ dân tộc học/nhân học được các nhà nghiên cứu
trong nước quan tâm đến từ sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhất là cuối những
năm 60 của thế kỉ XX, có nhiều công trình được công bố như:
Nghiên cứu chuyên sâu về gia đình dưới góc độ nhân học, tác giả Phạm
Quang Hoan và Nguyễn Ngọc Thanh với nghiên cứu Gia đình và hôn nhân, trong:
Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam (1992) đã thể hiện những quan điểm khoa học
từ thực địa đến khai quát hóa lý thuyết thành những cơ sở có giá trị trong nghiên
cứu cơ bản về vấn đề gia đình.
Tác giả Đỗ Thúy Bình tập trung giới thiệu về lối sống, phong tục, tập quán
trong gia đình, thể hiện trong sách: Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và
Thái ở Việt Nam (1994).
Trong nghiên cứu Dân tộc học/nhân học, về phương diện lí thuyết gia đình và
hôn nhân phải kể đến Phan Hữu Dật với cuốn Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam
(1998), đây là công trình gồm các bài nghiên cứu khoa học, đề cập nhiều lĩnh vực của
dân tộc học Việt Nam như: đường lối, chính sách, các nguyên tắc cơ bản của chính
sách dân tộc của Ðảng và Nhà nước ta, quá trình tộc người và quan hệ dân tộc ở nước
ta, văn hóa các dân tộc nước ta, một số vấn đề về hôn nhân gia đình và xã hội nguyên
thủy ở nước ta.
Tác giả Nguyễn Ngọc Thanh với nghiên cứu Gia đình và hôn nhân của dân
tộc Mường ở tỉnh Phú Thọ (2005) là nghiên cứu dân tộc học có giá trị sâu sắc, không
chỉ phác họa chi tiết những đặc điểm gia đình và hôn nhân của người Mường ở Phú
Thọ mà còn chỉ ra mô hình kết cấu, chức năng gia đình và những nguyên nhân ảnh
hưởng tới việc duy trì các yếu tố ảnh hưởng đến bản sắc tộc người.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu chuyên sâu có thể kể đến một số lý
thuyết được tác giả Phạm Quang Hoan đề cập trong nghiên cứu nhân học về gia
đình như: Vài suy nghĩ về phương pháp phân loại gia đình, Tạp chí Dân tộc học số
2/1985; Gia đình, bản chất, cấu trúc, loại hình Tạp chí Dân tộc học số 1-2/1988;
Vài suy nghĩ về hôn nhân và gia đình của các dân tộc ở nước ta hiện nay, Tạp chí
Dân tộc học, số 2/1993.
Liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu về gia đình dưới góc độ dân tộc học/nhân học
có thể kể đến Luận án tiến sĩ của Phạm Thị Kim Oanh với đề tài Hôn nhân và gia đình
của người Thái ở huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La (2009).
- Các nghiên cứu về gia đình người Sán Dìu
Từ đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, tác giả Ma Khánh Bằng với cuốn Người
Sán Dìu ở Việt Nam (1983) đã miêu tả khá chi tiết những đặc trưng văn hóa của
dân tộc Sán Dìu trong đó khái quát về mối quan hệ gia đình và các nghi lễ gia đình
trong một số trang viết.
Năm 1978, Viện Dân tộc học xuất bản cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam
(các tỉnh phía Bắc). Đây là công trình của tập thể các nhà dân tộc học Đặng Nghiêm
Vạn, Bế Viết Đẳng, Cầm Trọng đề cập đến 36 tộc người cư trú ở các tỉnh phía Bắc
Việt Nam.
Những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về văn hoá Sán Dìu ở
các địa phương đã được xuất bản, như: Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang (2003)
của Ngô Văn Trụ và Nguyễn Xuân Cần; Văn hoá truyền thống các dân tộc Tày,
Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang (2003). Hai công trình đã đề cập đến nghi lễ trong
cưới hỏi, tang ma và một số lời răn dạy về đạo hiếu của con cái trong các lời ca
soọng cô.
Tác giả Diệp Trung Bình với công trình Phong tục và nghi lễ chu đời người
của người Sán Dìu ở Việt Nam (2005). Công trình này phân tích khá kỹ lưỡng về
nghi lễ đời người truyền thống của dân tộc Sán Dìu.
Mới đây nhất, cuốn Văn hóa truyền thống dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang do
Nguyễn Ngọc Thanh chủ biên (tháng 6 - 2011). Đây là công trình chuyên khảo miêu tả cụ
thể các khía cạnh văn hóa người Sán Dìu ở Tuyên Quang với những cơ sở tài liệu, dẫn
chứng, ví dụ minh họa sinh động, có nhiều giá trị khoa học.
Trên bình diện chung hiện nay, chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào đề
cập riêng về gia đình của người Sán Dìu. Vì vậy, yêu cầu bổ sung tư liệu về vấn đề
gia đình của người Sán Dìu, góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn hóa tộc
người Sán Dìu ở Việt Nam là một việc làm cấp thiết và có ý nghĩa khoa học.
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
Luận văn nghiên cứu về gia đình người Sán Dìu với việc đi sâu vào các văn
hóa đặc trưng của gia đình, cấu trúc, chức năng và xu hướng biến đổi của gia
đình, vì vậy hướng tiếp cận chủ yếu là về nhân học văn hóa với lý thuyết biến
đổi văn hóa, và chức năng cơ cấu.
Biến đổi văn hóa (Changement culturel) là một quá trình diễn ra trong tất cả
các xã hội và là một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng của nhân học. Khi nghiên cứu
về biến đổi văn hóa trong đó có tiếp biến văn hóa (Acculturation) dùng để diễn giải
quá trình thay đổi văn hóa diễn ra do sự tiếp xúc của hai hệ thống văn hóa độc lập
nhau; sự tiếp xúc đó làm tăng đặc tính của nền văn hóa này trong nền văn hóa kia.
Một phương pháp tiếp cận biến đổi văn hóa có ảnh hưởng lớn từ những năm
1920 đến 1950 ở Anh đó là Thuyết chức năng đại diện là Radcliffe Brown (1881-
1955) và Malinowski (1884-1942). Thuyết chức năng tiếp cận sự biến đổi một
cách bảo thủ vì cho rằng các xã hội và các nền văn hóa hòa nhập tương đối tốt và
ổn định. Với quan điểm này, nếu một nền văn hóa thay đổi thì sau đó nó sẽ phải
chịu những tác động bên ngoài.
Talcott Parsons (1902 - 1979), là người đưa ra những nhận định về lý thuyết
biến đổi xã hội, đồng thời lại là người có tầm ảnh hưởng lớn nhất với thuyết chức
năng cơ cấu, là bước phát triển đáng kể sau những lý thuyết giá trị của A.Racliff
Brown về cấu trúc - chức năng. Một trong những tiếp cận mang tính ứng dụng và hiện
đại hơn trong nghiên cứu về gia đình đó là tác phẩm Nhân học - một quan điểm về
tình trạng nhân sinh của Emily A. Schultz và Robert H.Lavenda. Qua đây, có thể định
hướng được các vấn đề nghiên cứu cần tập trung khi triển khai đề tài, đặc biệt nhấn
mạnh đến các yếu tố mang tính thời đại trong sự đan xen các vấn đề truyền thống,
những mối quan hệ của gia đình đối với cấu trúc bên ngoài và với toàn xã hội, nhấn
mạnh nhiều hơn đến hoàn cảnh gia đình trong mối tương quan với cơ cấu giai cấp và
sự khác biệt của các gia đình đó qua các thông số, phân công lao động, vùng dân cư,
đặc điểm địa phương, nông thôn, đô thị hóa, thực hiện nếp sống mới…
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chủ đạo sử dụng trong luận văn là điền dã dân tộc học với các
kỹ năng: quan sát, quan sát tham sự, phỏng vấn sâu, điều tra theo bảng hỏi và sử lý
bằng SPSS
- Nghiên cứu liên ngành dân tộc học với xã hội học, tâm lý học, sử học
- Phân tích các tài liệu thống kê, tài liệu thứ cấp liên quan đến đề tài
1.2.3. Một số khái niệm cơ bản
1.2.3.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội chuyên
biệt, vì thế việc sử dụng các khái niệm, các lí thuyết khác nhau là điều thường xảy
ra. Đối với ngành dân tộc học, gia đình là nơi biểu hiện những sắc thái văn hóa
độc đáo của tộc người, vì vậy việc xác định khái niệm gia đình có vai trò vô cùng
quan trọng.
Ở đây, luận văn sử dụng khái niệm từ gia đình (family) với ý nghĩa như được
đề cập đến trong điều 8 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000: Gia đình là tập
hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan
hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền của họ với nhau [24, tr. 61].
Trong tiếng Sán Dìu, gia đình là Ết ca. Theo quan niệm của tộc người gia
đình chính là tập hợp những người có cùng quan hệ huyết thống sống chung dưới một
mái nhà. Người Sán Dìu còn có từ ốc để chỉ cả nhà và gia đình, nhà là nơi tập hợp và
cư trú của các thành viên, đứng đầu là người cha, người chồng (chủ gia đình).
1.2.3.2. Một số khái niệm khác
Phong tục là thói quen đã có từ lâu đời, đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được
mọi người công nhận và tuân theo [36, tr.1216].
Tập quán là thói quen hình thành từ lâu và đã trở thành nếp trong đời sống xã hội của
một cộng đồng dân cư, được mọi người công nhận và tuân theo [36, tr.1393].
Kiêng kỵ là sự cấm đoán được chấp nhận mang tính lễ nghi để ngăn chặn việc
tiếp xúc với một đồ vật, một người hay một hoạt động.
Phong tục, tập quán và kiêng kỵ là những hoạt động sống của con người
hình thành trong quá trình lịch sử, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác và ai cũng tuân theo ở một địa phương, một cộng đồng
dân cư nhất định.
Nghi lễ: Nghi lễ là những hành động nghi thức diễn ra trong bối cảnh thờ cúng
tôn giáo, nó mang tính chất biểu tượng chuyển tải các thông điệp về địa vị văn hóa
và xã hội của các cá nhân. Từ điển tiếng Việt cho rằng: “nghi lễ là nghi thức và trình
tự tiến hành của một cuộc lễ” [34,tr. 866].
Văn hóa tộc người: được hiểu là tổng thể những yếu tố văn hóa vật thể và
phi vật thể giúp cho việc phân biệt tộc người này với tộc người khác, các nhóm
khác. Văn hóa tộc người là nền tảng nảy sinh và phát triển của ý thức tự giác
tộc người [35, tr. 356].
1.3. Khái quát địa bàn nghiên cứu
1.3.1. Tên gọi và nguồn gốc tộc người
Dân tộc Sán Dìu Cư trú tập trung ở vùng trung du các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phũc, Bắc
Giang, Quảng Ninh, Hưng Yên, Bắc Cạn, Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Người Sán Dìu trước đây vẫn tự gọi dân tộc mình là San Dáo Nhín, có nghĩa
là Sơn Dao Nhân (tức người Dao ở trên núi). Các dân tộc lân cận dựa trên đặc
điểm cư trú, phương thức canh tác hoặc y phục truyền thống của người Sán Dìu mà
gọi họ bằng các tên khác như: Trại đất (người Trại ở nhà đất) để phân biệt với Trại
cao (người Cao Lan ở nhà sàn), Trại ruộng (người Trại làm ruộng), Trại cộc, Mán
cộc, Mán quần cộc (trang phục quần cộc), Mán váy xẻ (phụ nữ mặc váy xẻ), Slán
Dao…
1.3.2. Điều kiện tự nhiên, môi trường
Xã Ninh Lai nằm ở phía nam huyện Sơn Dương, cách trung tâm thị xã Tuyên
Quang 30km về phía đông nam. Xã có đặc thù của vùng chuyển tiếp giữa trung du
và miền núi, trong đó yếu tố của địa hình trung du mang những đặc điểm nổi trội.
Địa hình đồi núi bát úp, có độ dốc thấp, thoai thoải dần. Ninh Lai là xã nằm ở vùng
thấp và bằng phẳng nhất trong toàn huyện, thuận lợi cho canh tác ruộng nước và
nhiều loại cây công nghiệp ngắn ngày.
1.3.3. Dân số
Người Sán Dìu sống chủ yếu ở các xã: Thiện Kế, Ninh Lai, Sơn Nam, trong
đó đông nhất là Ninh Lai, địa bàn xã có 1.506 hộ tương đương với 7.262 nhân khẩu
thì có đến 1.118 hộ với 5.422 khẩu là người Sán Dìu, chiếm 73,4 % dân số toàn xã.
1.3.4. Khái quát về kinh tế, văn hóa, xã hội tộc người
1.4.1. Kinh tế
- Kĩ thuật canh tác và kinh nghiệm sản xuất
- Công cụ lao động
1.4.2. Văn hoá, xã hội
- Thiết chế thôn, làng - Ẩm thực
- Trang phục - Ngôn ngữ
- Tri thức dân gian - Văn nghệ dân gian
- Nhà cửa
Chương 2
PHÂN LOẠI, CẤU TRÚC, QUY MÔ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
2.1. Những tiêu chí phân loại gia đình
Tiêu chí để phân loại gia đình là dựa vào tính chất của những mối quan hệ
thân tộc (bàng hệ hay trực hệ), số thế hệ cùng chung sống, số lượng các cặp hôn
nhân và xác định các thành viên trong một gia đình có chung sở hữu, cùng thực
hiện các chức năng của gia đình.
2.2. Cấu trúc của gia đình
- Gia đình hạt nhân: Là đơn vị gia đình nhỏ nhất, bao gồm một cặp vợ
chồng và con cái chưa kết hôn của họ. Trong gia đình bao gồm ít nhất các trục
quan hệ cơ bản sau: Quan hệ vợ - chồng, quan hệ cha mẹ - con cái, gia đình có
từ hai con trở lên thì thêm trục quan hệ giữa con cái với nhau, tức là quan hệ
anh chị em. Gia đình hạt nhân là dạng gia đình đặc biệt quan trọng trong mô
hình xã hội. Nó là kiểu gia đình của tương lai và ngày càng phổ biến trong xã
hội người Sán Dìu.
+ Gia đình hạt nhân đầy đủ: là loại gia có đầy đủ các mối quan hệ: chồng,
vợ, các con; chỉ gồm hai thế hệ cha, mẹ và con cái chưa kết hôn, có cùng đơn vị
kinh tế, sản xuất tiêu dùng chung.
+ Gia đình hạt nhân không đầy đủ: là loại gia đình trong đó không đầy đủ
các mối quan hệ: chồng, vợ và các con, nghĩa là trong đó chỉ tồn tại quan hệ của
chỉ người vợ với người chồng (tức là bố hoặc mẹ với các con chưa kết hôn.
- Gia đình hạt nhân mở rộng: Bên cạnh mối quan hệ vợ chồng với các con,
trong gia đình hạt nhân mở rộng còn có thêm mối quan hệ với thành viên
khác trong cùng huyết thống (như ông bà, anh chị em họ, cô, dì, chú, bác)
cùng chung sống trong một đơn vị kinh tế. Các thành viên trong gia đình
cũng được xếp đặt trong chế độ gia trưởng với quyền lãnh đạo gia đình là
người đàn ông cao tuổi nhất.
- Gia đình lớn phụ hệ: thường được coi là gia đình truyền thống liên quan tới
dạng gia đình trong quá khứ. Đó là một nhóm người ruột thịt của một vài thế hệ sống
chung với nhau dưới một mái nhà, thường từ ba thệ hệ trở lên, tất nhiên trong phạm vi
của nó còn có cả những người ruột thịt từ tuyến phụ.
2.3. Quy mô gia đình
Một hộ gia đình được xác định là những người cùng sống trong một ngôi nhà
hoặc một đơn vị nơi ở, chia sẻ việc chi tiêu và thường ăn chung. Các hộ gia đình
người Sán Dìu ở Ninh Lai hầu hết là các hộ chủ yếu gồm các thành viên của gia
đình (được xác định là những người liên quan bởi họ hàng, quan hệ hôn nhân hoặc
quan hệ sinh thành). Một số trường hợp khác có thể kể đến như con nuôi hoặc
người làm thuê cho gia đình, nhưng số này rất ít.
Quy mô gia đình được thể hiện trước tiên qua số lượng các thành viên
trong gia đình. Trong xã hội truyền thống người Sán Dìu có quan niệm nhiều
con, nhiều của, mỗi con mỗi lộc là phổ biến, con cái là nguồn lao động của gia
đình, là nơi nương tựa của cha mẹ lúc tuổi già. Với đặc điểm kinh tế nông nghiệp lao
động giản đơn dựa vào sức người là chính nên nhu cầu thu hút nhân lực vào hoạt
động sản xuất của gia đình đã góp phần làm hạ thấp tuổi kết hôn, tỷ lệ sinh đẻ trong
các gia đình luôn cao. Mọi gia đình và dòng họ đều muốn có nhiều con cháu, đồng
thời do tư tưởng trọng nam khinh nữ, muốn có con trai để nối dõi tông đường, phụng
dưỡng cha mẹ và gánh vác các công việc lễ nghi quan trọng của gia đình, nên dân số
ngày một tăng cao.
2.4. Các chức năng cơ bản của gia đình
2.4.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Chức năng “tái sản xuất ra con người” về cơ bản là duy trì nòi giống, phát
triển dân số xã hội. Nếu khái niệm “tái sản xuất sinh học” chỉ ngụ ý công việc sinh
con, thì thuật ngữ “tái sản xuất lao động” lại mở rộng hơn, nó bao gồm chăm sóc,
nuôi dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất nguồn lao động và sức
lao động cho xã hội. Sự đổi mới và tái tạo hàng ngày sức lao động được gọi là “tái
sản xuất con người” mang cả ý nghĩa đảm bảo sự kế tục của xã hội đến thế hệ sau.
2.4.2. Chức năng kinh tế
- Tổ chức sản xuất và phân công lao động giữa các thành viên trong gia đình
- Tài chính của gia đình, các nguồn thu chi
- Vai trò của người chủ gia đình trong điều hành sản xuất
- Việc phân chia tài sản
2.4.3. Chức năng xã hội
Chức năng xã hội được xem là cầu nối với các mối quan hệ ngoài gia đình.
Các mối quan hệ với bên ngoài và các hoạt động xã hội ở phạm vi dòng họ, cộng
đồng thường do nam giới đảm nhiệm. Người đàn ông là người chủ gia đình và
cũng là người đại diện cả gia đình khi tham gia các công việc của dòng họ hay với
xóm làng.
2.4.4. Chức năng giáo dục
Trong gia đình người Sán Dìu luôn có sự tôn trọng đặc biệt của trẻ em với
người lớn tuổi, của con đối với cha, sự cư xử đúng mực giữa vợ với chồng. Với tư
tưởng Nho giáo ảnh hưởng sâu sắc, những tôn ti trật tự của chế độ gia trưởng phải
tuyệt đối được tôn trọng trong gia đình.
2.5. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
2.5.1. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái
- Con cái luôn phải hiếu thuận với cha mẹ là đạo lý quan trọng nhất trong
cuộc sống gia đình
- Cha mẹ là người quyết định mọi việc đối với con cái.
- Có những kiêng kị đặc biệt giữa con dâu và bố chồng
2.5.2. Quan hệ giữa vợ và chồng
- Người vợ ở vào địa vị phụ thuộc vào mọi quyết định của người chồng.
- Chế độ gia trưởng tạo ra sự ổn định trong gia đình. Sự liên kết của hôn nhân
được tạo nên bằng cả những sức ép từ bên ngoài, từ quan niệm xã hội nên quan hệ vợ
chồng luôn phải thuận hòa, yên ấm và đúng chuẩn mực. Hiện tượng li hôn rất ít xảy ra,
kể cả với những cuộc hôn nhân hoàn toàn do bố mẹ sắp đặt.
2.5.3. Quan hệ giữa các anh, chị, em trong gia đình
- Gia đình tuân theo những chuẩn mực của chế độ gia trưởng. Người anh cả
luôn là người có uy tín nhất và các em phải nghe theo, kể cả các chị gái đã đi lấy
chồng. Anh em phải kính trên nhường dưới, yêu thương nhau.
- Có những kiêng kị đặc biệt giữa anh chồng và em dâu.
Chương 3
CÁC PHONG TỤC VÀ NGHI LỄ TRONG CHU KÌ ĐỜI NGƯỜI
3.1. Phong tục, nghi lễ sinh đẻ và nuôi con
3.1.1. Phong tục và nghi lễ sinh đẻ
Chỗ ở của phụ nữ mang thai cũng có những kiêng kị. Người lạ tránh ngồi lên
đầu giường người mang thai vì như thế người mẹ sẽ khó thở, nguy hiểm cho trẻ.
Đồ đạc trong buồng của thai phụ không nên thay đổi vị trí, vì hồn của đứa trẻ đi
chơi khắp mọi nơi trong nhà và đã quen hết với đồ vật trong buồng, nếu có thay
đổi, hồn đứa trẻ sẽ không nhận biết được đường về của mình, hồn lạc mất thì người
mẹ sẽ bị sảy thai. Gia đình có người mang thai cũng không được đào hố, đào rãnh
quanh nhà vì sợ phạm vía đứa trẻ sẽ dẫn đến sảy thai.
Người Sán Dìu ở xã Ninh Lai có tập quán đẻ ngồi, vì đồng bào cho rằng nếu đẻ
nằm, máu sẽ chạy lên đầu, vừa khó đẻ lại dễ gây tử vong. Sản phụ bám vào thành
giường hoặc bám vào một sợi dây buộc thòng từ xà nhà xuống. Trường hợp đẻ khó,
người ta dùng những bài thuốc dân gian cho sản phụ và gia chủ thắp hương khấn xin
tổ tiên phù hộ cho ca đẻ thành công. Nếu ca đẻ phải lựa chọn giữa mẹ và con thì bà đỡ
sẽ tìm mọi cách để cứu lấy đứa trẻ.
3.1.2. Nghi lễ bảo vệ và nuôi dạy con cái
Người Sán Dìu, cũng như nhiều dân tộc khác, rất chú ý đến sự sinh trưởng và phát
triển cả về thể chất lẫn tinh thần của trẻ em, vì vậy họ có nhiều nghi lễ cũng như
phương cách tốt nhất để bảo vệ và nuôi dạy con em mình.
Khi đứa trẻ vừa sinh ra, trong vòng ba ngày người lạ không được đến thăm vì
sợ vía độc không tốt cho trẻ, sẽ làm trẻ hay khóc giật mình. Nếu bị ám vía như thế,
cha của đứa trẻ phải đến nhà người lạ trong làng đổ một ít nước vào vạt áo họ đang
mặc, vắt lấy nước đem về cho trẻ uống để giải vía, trẻ sẽ khỏi giật mình và không
quấy khóc nữa. Bảo vệ và nuôi dạy con gồm các nghi lễ sau:
- Lễ cúng mụ (nam mụ):
- Lễ trả nợ cho trẻ ở vườn hoa luân hồi (ván pha trại)
- Lễ đặt tên (lay khạy)
3.2. Phong tục và nghi lễ cưới xin
3.2.1. Quan niệm về hôn nhân và cưới xin của người Sán Dìu
Hôn nhân là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong chu kỳ đời người,
là sự kiện lớn đối với cả gia đình, dòng họ và cộng đồng làng xóm. Trai gái yêu
nhau muốn tiến tới hôn nhân bắt buộc phải tuân theo những nguyên tắc, luật lệ của
dòng họ và dân tộc mình. Nếu không được sự chấp thuận của gia đình, không hợp
tuổi với nhau, sẽ không được kết hôn. Bởi theo quan niệm của người Sán Dìu, đám
cưới mà không được cha mẹ gia đình hai bên đồng ý thì không bao giờ có hạnh
phúc; tuổi không hợp mà ở bên nhau sẽ dẫn đến nhiều bất hạnh cho đôi vợ chồng và
cả gia đình hai họ.
3.2.2. Các nghi lễ và phong tục trong cưới xin
- Các nghĩ lễ và phong tục trước ngày cưới
- Nghi lễ xin lá số (Lỏng nén sang)
- Nghi lễ xin cưới (Hỵ mun)
- Nghi lễ xem mặt (Hỵ mong men)
- Nghi lễ ăn hỏi (Hỵ mun nghén cạ)
- Nghi lễ sang bạc (Hỵ cộ nghén)
- Nghi lễ chọn và báo ngày cưới (Tháy nhít tan/ Cộ nhít tan)
- Nghi lễ gánh gà (tam cay bạo nhít)
- Nghi lễ nộp cheo (Nap cheo)
3.3 Phong tục và nghi lễ tang ma
3.3.1. Quan niệm của người Sán Dìu về thế giới tâm linh
Thế giới tâm linh của người Sán Dìu rất phong phú và rộng lớn, điều đó thể
hiện rõ nét trong các phong tục về tang ma và các nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Trong
thế giới tâm linh luôn chứa đựng sự thiêng liêng và kính trọng của mọi thành viên
cộng đồng. Chính vì vậy, thế giới tâm linh của người Sán Dìu vừa thiêng liêng vừa
gần gũi, ăn sâu trong nếp sống của mỗi con người, nên bản tính người Sán Dìu
luôn sống có sự chừng mực và ứng xử phải đạo trong đời sống cộng đồng.
Theo quan niệm của người Sán Dìu, thế giới có 3 tầng:
- Tầng trên cùng là tầng trời, là nơi trú ngụ của thần thánh và tổ tiên đã mất.
- Tầng ở giữa là tầng trần gian, nơi con người thực sinh sống.
- Tầng dưới cùng là tầng âm phủ, địa ngục, cũng là nơi ở của các loại ma quỉ.
Đồng bào Sán Dìu chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo nên quan niệm con
người sống trên trần gian chỉ là sống nhờ, sống gửi. Khi chết mới là về thực sự nơi của
mình. Số mệnh của con người do trời định và phụ thuộc vào kiếp trước. Nếu tiền kiếp ăn
ở tốt lành, phúc đức thì kiếp này được sung sướng.
3.3.2. Phong tục và nghi lễ đám tang
- Nghi lễ tắm rửa cho người chết (sáy sin bí sý láo nhín)
- Nghi lễ cho tiền vào miệng người chết (hám hối sén)
- Lễ báo tang và phát tang (bạo hạo, phát hạo)
- Nghi lễ đón thầy cúng (tánh say hu)
- Nghi lễ cúng áo quan (nam con sói)
- Lễ dâng cơm cho người chết
- Nghi lễ chọn đất làm huyệt mộ
- Nghi lễ mở đường
- Làm nhà táng (pha ốc chấy)
- Nghi lễ khâm liệm trước khi đưa tang
- Nghi lễ chôn cất
3.3.3. Nghi lễ làm ma
Theo quan niệm của đồng bào Sán Dìu, khi chôn cất xong một người, đó
mới chỉ là chôn phần xác còn phần hồn thì vẫn lang thang trên trần thế hoặc bị
dày vò dưới âm phủ do chưa sạch sẽ hoàn toàn. Để linh hồn được siêu thoát, về
với tổ tiên thì con cháu phải báo hiếu bằng cách làm ma để rửa sạch bụi trần.
Người chết mà chưa được làm ma thì không thể về với tổ tiên được sẽ quay lại
quấy nhiễu con cháu, làm cho cuộc sống của con cháu luôn rủi ro, làm ăn khó
khăn, ốm đau liên miên.
- Nghi lễ làm ma thông thường
- Nghi lễ làm ma cho phụ nữ
- Nghi lễ làm ma cho người làm thầy cúng
- Nghi lễ làm ma cho những người chết bất thường
Chương 4
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH NGƯỜI SÁN DÌU
4.1. Những biến đổi về cấu trúc, quy mô, chức năng, mối quan hệ, phong
tục và nghi lễ gia đình
4.1.1. Biến đổi về cấu trúc và quy mô của gia đình
Hiện nay ở người Sán Dìu Ninh Lai không còn tồn tại gia đình lớn gồm ba hoặc
bốn cặp vợ chồng trở lên theo trực hệ hay bàng hệ có chung một đơn vị kinh tế, hay
các gia đình 4 thế hệ (có quan hệ cụ và chắt). Mô hình gia đình hạt nhân chiếm ưu thế
tuyệt đối, chủ yếu là các gia đình hạt nhân hai thế hệ, và gia đình hạt nhân mở rộng.
4.1.2. Biến đổi về chức năng của gia đình
- Chức năng tái sản xuất ra con người
- Chức năng kinh tế
- Chức năng xã hội
- Chức năng giáo dục
4.1.3. Biến đổi về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
Người chồng có vai trò quyết định và chỉ đạo các hoạt động lớn chi phối sản
xuất trong gia đình, còn người vợ quyết định việc nội trợ và gieo trồng. Vấn đề hôn
nhân của con cái được cả hai vợ chồng bàn bạc và đi đến quyết định. Khi con cái
đến tuổi trưởng thành cũng được tham gia bàn bạc và quyết định lợi ích chung của
các thành viên. Sự thay đổi các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
mang tính tích cực. Các giá trị tiên tiến và hiện đại được tiếp nhận có chọn lọc
và các giá trị truyền thống được phục hồi, bảo lưu và đặc biệt là được làm mới
cho phù hợp với thời đại. Rõ ràng, các quan hệ trong gia đình đang ngày càng
trở nên hiện đại hơn và phù hợp hơn với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
4.1.4. Biến đổi về các nghi lễ trong gia đình
- Biến đổi của các nghi lễ sinh đẻ và bảo vệ trẻ em
Người Sán Dìu vẫn coi trọng và đề cao vấn đề sinh đẻ và nuôi dạy con cái nhưng
quan niệm, phong tục tập quán, nghi lễ về vấn đề này đã có nhiều thay đổi theo xu
hướng tiến bộ. Trước hết, với quan niệm ngày càng rộng mở hơn của gia đình và dòng
họ không còn cho rằng nghĩa vụ chính của người phụ nữ là phải sinh thật nhiều con, đặc
biệt nhiều con trai thì càng tốt. Ngày nay bản thân người Sán Dìu đã ý thức được nguyên
nhân của sự đói nghèo và những vất vả khi sinh đẻ nhiều, những khó khăn trong việc
nuôi dạy con cái nếu điều kiện gia đình khó khăn. Bên cạnh đó sự vận động có hiệu quả
chương trình Dân số Kế hoạch hoá gia đình đã đem đến những nhận thức mới mẻ cho
đồng bào về các vấn đề sinh sản.
- Biến đổi trong nghi lễ cưới xin
Qua thực tế phỏng vấn những người trong độ tuổi kết hôn (từ 25 đến 65 tuổi)
có vợ, có chồng chiếm đa số 91% trong mẫu điều tra, goá chồng là 6%, goá vợ là
2%, chỉ còn 2% chưa có ý định kết hôn. Các số liệu đều chứng minh, hôn nhân
hiện nay là hôn nhân tiến bộ, tuân thủ chế độ một vợ một chồng. Bên cạnh việc
thực hiện khuôn mẫu truyền thống, hôn nhân của người Sán Dìu ở Ninh Lai còn
tuân theo đúng pháp luật về đăng ký kết hôn. Có 97% các cuộc hôn nhân đẫ đăng
ký kết hôn. Hình thức đăng ký kết hôn đã trở thành nguyên tắc pháp lý và được
thực hiện trong trong thôn, đây được coi như một thủ tục bắt buộc có đối với đồng
bào Sán Dìu.
Mô hình hôn nhân đã có sự thay đổi khá cơ bản so với truyền thống, sau khi điều tra
50 hộ gia đình và phỏng vấn những người có nhóm tuổi từ 18 đến 30, kết quả cho thấy:
con cái tự lựa chọn có hỏi ý kiến cha mẹ chiếm tỷ lệ cao nhất 76,0%, con cái tự lựa chọn
tự quyết định chiếm 14,0%, cha mẹ sắp đặt hoàn toàn chỉ chiếm 10,0%. Đó thực sự là
mô hình hôn nhân tự nguyện và dân chủ. Xu hướng dân chủ và tự nguyện trong kết hôn
tăng lên tỷ lệ thuận với tuổi trẻ và trình độ học vấn cao.
Yếu tố hợp tuổi vẫn giữ vai trò quan trọng trong quan niệm kết hôn của người
Sán Dìu, bên cạnh đó tác động của những nhân tố vẫn được xem là các giá trị của
kinh tế thị trường như nêu trên lại chưa đóng vai trò quan trọng trong các tiêu
chuẩn dẫn tới kết hôn, có thể người dân còn e ngại khi thể hiện quan điểm này của
mình khi chúng tôi thực hiện phỏng vấn.
- Biến đổi trong các nghi lễ tang, ma
Nghi lễ tang ma của người Sán Dìu ở Ninh Lai là một trong những bộ phận cấu
thành nên văn hoá truyền thống có sức sống mãnh liệt nhất và khó bị phai nhạt theo
thời gian. Theo điều tra thực tế, hiện nay các nghi lễ tang ma hầu như vẫn được lưu
giữ trọn vẹn. Có được điều đó là nhờ vào đội ngũ thầy cúng am hiểu các tục lệ dân
gian, họ tiến hành đầy đủ và bài bản hầu như tất cả các bước.
Kể từ khi thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về nếp sống mới, thời
gian tổ chức đám tang đã được rút ngắn, chỉ còn giới hạn trong 24 tiếng, một mặt
để đảm bảo vệ sinh môi trường và sức khỏe cho người dân. Mặt khác, trong
khoảng thời gian có hạn, không thể thực hiện tất cả các nghi lễ và nghi thức cúng
tế nên thầy mo phải cắt ngắn các bài cúng hoặc phải gộp một số nghi lễ lại. Như
vậy, các nghi lễ đã được điều chỉnh về mặt thời gian, kéo theo đó là các bài cũng
phải cắt ngắn lại. Tuy nhiên ở các lễ làm ma khô do không phải chịu các quy định
về việc để thi hài người chết quá quy định nên các nghi lễ ít bị rút ngắn hơn các
đám tang. Đặc biệt là các buổi lễ làm ma cho người thầy cúng, đặc biệt người
được cấp sắc ở mức cao thì các nghi thức vẫn diễn ra khá rườm rà và tốn kém.
Các quy định của thực hành tiết kiệm của cũng không được thực hiện nghiêm
chỉnh hoàn toàn nữa.
4.2. Nguyên nhân biến đổi
4.2.1. Tác động của điều kiện kinh tế, văn hóa và xã hội
- Kinh tế: Sự phát triển của nền kinh tế hộ gia đình giúp cho các gia đình Sán
Dìu năng động hơn trong việc hòa nhập với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Điều này tác động đến lối sống truyền thống của gia đình người Sán Dìu, nếp sống đã
dần cởi mở hơn, những kiêng kị trong phần nào phai nhạt đi. Ở xã Ninh Lai hiện nay,
với sự tác động của quá trình đô thị hoá, trung tâm của xã hiện nay mang dáng dấp
của một thị trấn sầm uất, hoạt động buôn bán sôi nổi trong những ngày chợ, rất nhiều
các nhà tầng xây dựng kiên cố mọc lên. Nhận thức của đồng bào Sán Dìu về một xã
hội với nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng rõ nét.
- Văn hoá: Môi trường sinh sống mới và sự giao lưu tiếp xúc với các nền văn
hoá khác là những điều kiện cần thiết tạo nên văn hoá cơ bản của mỗi tộc người.
Từ khi người Sán Dìu di cư đến địa bàn huyện Sơn Dương, đã mang theo bản sắc
văn hoá vốn có của mình, họ lưu giữ và phát triển nó trên mảnh đất mới khai
hoang. Tuy nhiên, do sống đan xen bên cạnh người Kinh và người Dao, người Sán
Dìu cũng ảnh hưởng từ những sinh hoạt và sản xuất của họ. Gia đình người Sán
Dìu ảnh hưởng bởi những tác động rất mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới. Sự mở
rộng phạm vi kết hôn là kết quả của quá trình phi nông nghiệp hóa nông thôn và sự
di động dân cư đến những vùng kinh tế khác nhau dưới tác động của công nghiệp
hóa và đô thị hóa. Quá trình này phá vỡ tình trạng khép kín của hôn nhân truyền
thống trong phạm vi làng xã.
- Xã hội: Xã Ninh Lai có hệ thống trường học từ bậc mẫu giáo đến tiểu học,
trung học cơ sở và trung học phổ thông. Việc học chữ quốc ngữ tạo điều kiện cho
đồng bào Sán Dìu ở Ninh Lai mở rộng hiểu biết về văn hoá, chính trị, xã hội của đất
nước. Tỷ lệ trẻ em đến trường ngày càng tăng về số lượng, chất lượng giáo dục cũng
không ngừng được cải thiện do đội ngũ giáo viên được đào tạo cơ bản. Bên cạnh đó
công tác y tế và chăm sóc sức khoẻ người dân cũng được quan tâm, trang thiết bị
đầy đủ phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khoẻ trước mắt của nhân dân, đặc biệt là
chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho chị em phụ nữ.
Thông tin liên lạc ngày càng rộng mở là yếu tố quan trọng thúc đẩy nhận
thức phát triển về xã hội của đồng bào Sán Dìu ở Ninh Lai, hơn 90% các hộ gia
đình đều có tivi hoặc đài catset, 85% các hộ có dùng điện thoại liên lạc [10, tr.59]
Khả năng xã hội hoá của đồng bào Sán Dìu mở rộng trên nhiều lĩnh vực của đời
sống và hoà nhập với trình độ phát triển chung của đất nước. Những yếu tố đó tác
động mạnh mẽ tới gia đình truyền thống của người Sán Dìu.
4.2.2. Tác động từ các chính sách của Đảng và của Nhà nước
- Tác động của Luật hôn nhân và gia đình tới gia đình người Sán Dìu
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định các nguyên tắc hôn nhân
bình đẳng và tiến bộ. Quá trình đổi mới càng củng cố niềm tin và trách nhiệm của
xã hội và mỗi cá nhân đối với gia đình, đánh dấu một bước chuyển mới trong
nhận thức về gia đình và công tác gia đình. Đây là cơ sở pháp lý cho quá trình
thực hiện hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, xây dựng gia đình bình
đẳng, dân chủ, bảo đảm cuộc sống gia đình hạnh phúc và bền vững. Chính điều đó
đã tạo điều kiện để gia đình có thể kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống trong
quan hệ tình yêu, hôn nhân của mỗi dân tộc, vừa phát triển những nhân tố mới, tích
cực hơn của hôn nhân, gia đình hiện đại.
- Tác động của cuộc vận động “Xây dựng gia đình văn hóa” và “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”
Thông qua Cuộc vận động đã phát huy tinh thần tự quản, nhân dân ở khu dân
cư đã cùng nhau dân xây dựng và tự giác thực hiện các quy ước, hương ước đem
lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng, tạo ra sự gắn kết, đồng thuận ngày càng rõ rệt
hơn Đặc biệt góp phần khơi dậy và vun đắp, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc tạo được môi trường văn hoá lành mạnh góp phần giữ gìn thuần phong mỹ
tục, bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thồng tốt đẹp của nhân dân ta. Cùng với xây
dựng hạ tầng giao thông nông thôn, đường làng ngõ xóm, nhiều nhà văn hoá xã
Ninh Lai được xây dựng khang trang phục vụ cho công tác sinh hoạt cộng đồng.
Những biến đổi đó tạo nên bộ mặt mới của gia đình người Sán Dìu, giúp đồng
bào tự chủ hơn về kinh tế và tiếp cận văn hoá thông tin dễ dàng hơn, tạo lập vị thế
của mỗi cá nhân trong xã hội và tự tìm ra được cách thức xây dựng gia đình ổn
định và hài hoà với sự phát triển chung của toàn xã hội. Xây dựng gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh
của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách
con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
KẾT LUẬN
1. Người Sán Dìu ở tỉnh Tuyên Quang sinh sống tại huyện Sơn Dương, trong
đó cư trú chủ yếu ở ba xã Sơn Nam, Thiện Kế và đông nhất là xã Ninh Lai. Người
Sán Dìu đến khai hoang trên địa bàn xã Ninh Lai khoảng hơn hai trăm năm về
trước và bắt đầu cuộc sống định cư tại đây. Họ tạo nên những cánh đồng lúa nước
trù phú, những mảnh nương che phủ các quả đồi, họ chăn nuôi và làm một số nghề
thủ công đáp ứng nhu cầu cần thiết cho đời sống cộng đồng.
2. Gia đình truyền thống của người Sán Dìu ở Ninh Lai tổ chức theo chế độ
phụ quyền và phân chia thành gia đình hạt nhân, gia đình hạt nhân mở rộng và gia
đình phụ hệ.
Với đặc trưng gia đình phụ quyền, người chồng, người cha là người chủ gia
đình, nắm mọi quyền quyết định và luôn giữ vị thế cao hơn người phụ nữ. Phân
công lao động theo giới trong gia đình có sự chênh lệch, phụ nữ phải làm rất nhiều
các công việc nội trợ và tham gia hoạt động sản xuất, phục vụ nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày của mọi thành viên trong gia đình.
Gia đình người Sán Dìu luôn mong muốn sinh được nhiều con để có nguồn
nhân công cho sản xuất nông nghiệp. Tư tưởng trọng nam khinh nữ chi phối, khiến
các gia đình luôn muốn sinh con trai để có người nối dõi và thể hiện địa vị trong
cộng đồng. Vì vậy, số con trong các gia đình Sán Dìu luôn đông, ảnh hưởng không
nhỏ đến sinh kế và nuôi dạy con cái.
Dưới ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, các mối quan hệ trong gia đình Sán
Dìu tồn tại những luật lệ khắt khe. Đó là những quy định con cái đối với cha mẹ,
của vợ đối với chồng, của anh, chị em trong gia đình. Đặc biệt là những kiêng kị
giữa bố chồng và con dâu, anh chồng với em dâu biểu hiện sự phân biệt đối xử
còn nặng nề trong gia đình chế độ gia trưởng.
Những nghi lễ truyền thống trong gia đình Sán Dìu là bức tranh phác họa văn
hóa, tín ngưỡng của tộc người, phản ảnh nhận thức về tự nhiên, xã hội và biểu hiện
tình cảm gia đình, đồng tộc. Trong đó, nổi bật lên những giá trị tốt đẹp về đạo hiếu
và mối quan hệ khăng khít của mỗi gia đình với toàn thể cộng đồng.
3. Đời sống của người Sán Dìu hiện nay ở xã Ninh Lai đang có những thay đổi rõ
rệt. Sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường dẫn đến những biến đổi về văn
hóa, xã hội và khả năng tiếp nhận các tri thức mới của đồng bào.
Quy mô của gia đình Sán Dìu ngày càng thu hẹp lại, gia đình hạt nhân ngày càng
chiếm ưu thế và giữ vị trí chủ yếu trong xã hội người Sán Dìu. Việc thực hiện chức
năng của gia đình, cũng như các mối quan hệ trong gia đình ngày càng tiến tới sự bình
đẳng hơn giữa các thành viên.
Ngày nay, người Sán Dìu không còn duy trì tục đẻ ngồi và những nghi lễ cúng bái
lạc hậu cho sản phụ. Họ thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình và chăm lo sức
khỏe mọi thành viên gia đình tại các cơ sở y tế của thôn xã.
Trong hôn nhân và các nghi lễ truyền thống, người Sán Dìu vẫn lưu giữ khá
nhiều phong tục, tuy nhiên những nghi thức rườm rà, tốn kém dần được giảm thiểu.
Người Sán Dìu không còn hôn nhân ép gả, hay tuyệt đối tin vào việc so tuổi, tiền
thách cưới và các phí tổn khi tổ chức các lễ nghi cũng ít đi rất nhiều. Tuy nhiên, bên
cạnh những tiến bộ đó, là sự phai nhạt của văn hóa truyền thống như: không còn mặc
trang phục cưới truyền thống, không hát sọong cô trong đám cưới,
Trong tang ma và thờ cúng người Sán Dìu vẫn bảo lưu các yếu tố truyền thống.
Vai trò và uy tín của người thầy cúng vẫn được duy trì, tuy nhiên trong tương lai số
lượng thầy cúng ngày càng giảm đi vì không có người theo học.
4. Những đổi mới của gia đình Sán Dìu có chiều hướng phù hợp với đường
lối, chủ chương của Đảng và Nhà nước, thực hiện có hiệu quả Luật Hôn nhân và
Gia đình. Tuy nhiên những nền nếp của chế độ gia trưởng chưa hoàn toàn mất đi,
các gia đình vẫn có tỷ lệ sinh cao, tiếp nhận khoa học kĩ thuật, đặc biệt phục vụ cho
sản xuất hộ gia đình còn nhiều hạn chế gây nên những khó khăn cho đời sống tộc
người trong giai đoạn hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh - Trần Thị Vân Anh (1997), Kinh tế hộ - lịch sử và triển vọng
phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Ăng ghen (1984), Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và nhà nước,
trong Tuyển tập Mác -Ăng ghen, tập VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
3. Ma Khánh Bằng (1972), Nương đồi, soi, bãi của người Sán Dìu; Tạp chí Dân
tộc học số 3.
4. Ma Khánh Bằng (1973), Vài nét về dân tộc Sán Dìu; Thông báo Dân tộc
học- số đặc biệt Xác định thành phần các dân tộc miền Bắc.
5. Ma Khánh Bằng (1975), Về ý thức tự giác của dân tộc Sán Dìu (trong Về
vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam); Nxb Khoa
học xã hội; Hà Nội.
6. Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
7. Mai Huy Bích (2011), Xã hội học gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Diệp Trung Bình (2005), Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của người Sán
Dìu ở Việt Nam; Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam; Thái Nguyên.
9. Bonifacy A.C (1966), Chuyên khảo về người Mán Quần Cộc, trong
Revue Indochinoise 1904 - 1905, số 4, Đỗ Trọng Quang dịch, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
10. Cục thống kê Tuyên Quang (2010), Niên giám thống kê tỉnh Tuyên
Quang, Nxb Thống kê, Hà Nội.
11. Phan Hữu Dật (1998), Một số vấn đề về Dân tộc học Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia.
12. Phan Đại Doãn (1994), Tìm hiểu chức năng và đặc điểm gia đình người Việt -
dưới giác độ xã hội học lịch sử, Tạp chí Xã hội học - số 2, Hà Nội.
13. Nịnh Văn Độ (2003), Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán
Dìu ở Tuyên Quang, Nxb văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
14. Lê Quý Đôn (1962), Kiến văn tiểu lục, Nxb Sử học, Hà Nội.
15. Emily A. Schultz và Robert H.Lavanda, 2001, Nhân học - một quan điểm
về tình trạng nhân sinh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Evans.Grant (1993), Asia’s Cultural Mosaic - An Anthropological Introduction
(Bức khảm văn hóa Châu Á - Tiếp cận Nhân học), by Prentice Hall, Simon & Schuster
(Asia) Pte Ltd, Singapore.
17. Phạm Quang Hoan (1985), Vài suy nghĩ về phương pháp phân loại gia
đình, Tạp chí Dân tộc học, số 2. tr 40 - 45.
18. Phạm Quang Hoan (1988), Gia đình, bản chất, cấu trúc, loại hình. Tạp
chí Dân tộc học số 1-2, tr 10-16.
19. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật của chính phủ, Sổ
tay báo cáo viên pháp luật số 2/2000, Giới thiệu luật hôn nhân và gia đình năm
2000.
20. Trần Đình Hượu (1990), Hiểu gia đình truyền thống - đổi mới chứ không
phải phục cổ, Tạp chí Xã hội học, số 3.
21. Nguyễn Chí Huyên, Hoàng Hoa Toàn, Lương Văn Bảo (2000), Nguồn gốc
lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam; Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
22. Tương Lai (1996), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Tương Lai (1998), Vấn đề gia đình trong sự biến đổi và phát triển của xã
hội. Tạp chí Xã hội học số 3.
24. Nguyễn Thế Long (2006), Truyền thống gia đình và bản sắc dân tộc Việt
Nam - Truyền thống đạo đức, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
25. Vũ Đình Lợi (1994), Hình thức và khuynh hướng phát triển của gia đình
mẫu hệ ở Tây Nguyên, Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 2.
26. Trịnh Duy Luân (chủ biên), (2011), Gia đình nông thôn đồng bằng Bắc bộ
trong chuyển đổi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Sở Văn hóa Thông tin Tuyên Quang (2007), Bước đầu tìm hiểu dân ca
dân tộc Tày, Sán Dìu và Cao Lan, Tuyên Quang.
28. Nguyễn Ngọc Thanh (2005), Gia đình và hôn nhân của dân tộc Mường ở
tỉnh Phú Thọ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Lê Ngọc Thắng, Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc văn hoá các dân tộc Việt
Nam; Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc.
30. Tổng cục Thống kê (1961), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam
1960, Nxb Thống kê, Hà Nội.
31. Tổng cục thống kê (2001), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
32. Tục lệ cưới xin của người Sán Dìu (2000), Sở Văn hoá Thông tin Thái
Nguyên xuất bản.
33. Ngô Văn Trụ - Nguyễn Xuân Cần (chủ biên), (2003), Dân tộc Sán Dìu ở
Bắc Giang; Nxb văn hoá dân tộc; Hà Nội.
34. Từ điển Nhân học (2006), bản dịch tiếng Việt lưu tại Viện Dân tộc học, ký
hiệu TĐ 88.
35. Từ điển Văn hóa, Tín ngưỡng, Phong tục (2009), Nxb. Văn hóa thông
tin, Hà Nội.