Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

DSpace at VNU: Quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.55 KB, 16 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Nguyễn Thị Bích

QUAN NIỆM VỀ NHÂN SINH TRONG TÍN
NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT

Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử
Mã số
: 50102

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ
NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. Nguyễn Hữu Vui
HÀ NỘI - 2003


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1- TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ xa xưa của
lịch sử nhân loại và đã tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới. Cho đến nay, tín


ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần
của nhiều tộc người. Nhưng sự đánh giá ý nghĩa, vai trò của nó trong từng
giai đoạn lịch sử và ở mỗi quốc gia lại rất khác nhau.
Ở Việt Nam, thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian phổ
biến. Nó phản ánh rõ nét đặc trưng của văn hoá dân gian, thấm đượm đạo lý
“uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, hướng vào việc củng cố
và tăng cường ý thức cộng đồng. Nhưng bản thân hình thức tín ngưỡng này
cũng tiềm tàng những yếu tố dẫn đến hiện tượng mê tín dị đoan, những hủ
tục gây tổn hại về tiền của, sức khoẻ, tính mạng của nhân dân. Nó là vấn đề
phức tạp và nhạy cảm, dễ bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để gây
chia rẽ đoàn kết dân tộc, làm tổn hại đến an ninh chính trị- xã hội và sự phát
triển của đất nước. Vừa qua, Nghị quyết Hội nghị TW Bẩy (khoá IX) về
công tác tôn giáo, đã xem việc “giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực
của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công
với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân” là một bộ phận quan trọng trong hệ quan
điểm chỉ đạo của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng [17,52]. Vì vậy,
nhận thức đúng đắn về tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đặc biệt,
quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là
vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm góp phần làm lành mạnh hoá
các hoạt động tín ngưỡng, hướng vào các giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc vận động “ Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá” do Nhà nước phát động theo tinh thần Nghị quyết
TW Năm (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


3

Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết trên, tôi đã chọn vấn đề
"Quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt”

làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học triết học, chuyên ngành CNDVBC và
CNDVLS.
2- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Vấn đề tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, trên thế giới cũng như ở Việt
Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu, như : “Các hình thức tôn giáo sơ
khai và sự phát triển của chúng” của Tô-ca-rev (Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội 1994); “Nếp cũ- tín ngưỡng Việt Nam” (quyển thượng) của Toan Ánh
(Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 1997); “Việt Nam phong tục” của Phan Kế
Bính (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 1995); “Các hình thái tín ngưỡng tôn
giáo ở Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy (Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội
2001); “Thờ thần ở Việt Nam” của Lê Xuân Quang (Nxb Hải Phòng 1996); “
Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay” của Đặng Nghiêm Vạn chủ biên
(Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1996; “Những khía cạnh triết học trong tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” của
Trần Đăng Sinh, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2002; “Tín ngưỡng dân
gian Việt Nam” của Vũ Ngọc Khánh, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội 2001...
Ngoài ra, còn nhiều bài viết công bố trên báo và tạp chí, như: Tạp chí
Triết học, Cộng sản, Nghiên cứu lý luận, Thông tin lý luận, Tư tưởng văn
hoá, Văn hoá nghệ thuật, Dân tộc học, Xưa và nay... của nhiều tác giả như
Nguyễn Hữu Vui, Ngô Hữu Thảo, Nguyễn Đức Lữ, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn
Tài Thư... Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập dưới các góc độ khác
nhau về tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt nói riêng. Tuy nhiên, nghiên cứu tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người Việt là vấn đề phức tạp, khó khăn, cần tiếp tục được nghiên
cứu. Mặt khác, dưới góc độ triết học, chưa có một tác giả nào bàn sâu vấn đề


4


quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Vì
vậy, tôi mạnh dạn đi sâu khai thác vấn đề này trong luận văn.
3- MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN

Mục đích : Bước đầu nghiên cứu và trình bày những quan niệm về
nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Thông qua việc
khảo sát thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay, từ
đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những yếu tố tích cực,
khắc phục những yếu tố tiêu cực của quan niệm về nhân sinh trong tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, góp phần xây dựng nền văn hoá mới
ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ : Để hoàn thành được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt. Trình bày những quan niệm về nhân sinh qua nội dung, nghi lễ
thờ cúng tổ tiên của người Việt.
- Từ thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay,
rút ra một cách khái quát mặt tích cực và mặt tiêu cực, đề xuất những giải
pháp chủ yếu để góp phần định hướng đúng đắn quan niệm về nhân sinh
trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay.
4- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng: Quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Việt.
Phạm vi nghiên cứu : Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
trong lịch sử và đánh giá thực trạng từ năm 1986 đến nay.
5- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản và
Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo.



5

Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
là chính; ngoài ra, còn vận dụng các phương pháp khác, như : phân tích và
tổng hợp, lôgíc và lịch sử, so sánh...
6- NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Luận văn góp phần trình bày một số khía cạnh về nhân sinh trong tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, từ thực trạng của tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người Việt hiện nay đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm từng bước phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu
cực của quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cho phù
hợp với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
7. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào việc giữ gìn và phát
huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, góp phần định hướng
đúng đắn quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tôn giáo học... trong các trường đại
học và cao đẳng.
8- KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.



6

CHƯƠNG I

TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ KHÍA
CẠNH NHÂN SINH CỦA NÓ
1.1- TÍN NGƯỠNG, TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN

1.1.1- Tín ngưỡng
Trong lịch sử phát triển của nhân loại có hàng ngàn các loại hình tín
ngưỡng khác nhau, rất phong phú, đa dạng. Song, để có một cách hiểu khoa
học về tín ngưỡng, cần phải xem xét một số quan điểm khác nhau trong giới
nghiên cứu để có thể đi đến khái quát được nét đặc trưng nhất của tín
ngưỡng.
Các quan điểm ngoài mác-xít về tín ngưỡng
Chủ nghĩa duy tâm khách quan với đại biểu như Pla-tôn, Hê-ghen ...
đã xuất phát từ thực thể tinh thần, “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối” để lý giải các
hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng. Hê-ghen cho rằng, khởi nguyên của thế giới
là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới ”. Tính phong phú, đa dạng của
thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của “ý niệm tuyệt
đối”. “Ý niệm tuyệt đối” tồn tại vĩnh viễn. Theo nhận xét của Lê-nin, “ý niệm
tuyệt đối” chỉ là một cách nói theo đường vòng, một cách nói khác về
Thượng đế mà thôi. Do đó, quan điểm của các nhà triết học duy tâm là sự
biện hộ cho tín ngưỡng, tôn giáo, họ xem tín ngưỡng, tôn giáo là sức mạnh
thần bí thuộc tinh thần tồn tại vĩnh hằng, là nhân tố chủ yếu đem lại sinh khí
cho con người.
Các nhà triết học duy tâm chủ quan lại cho rằng, tín ngưỡng là thuộc
tính vốn có trong ý thức của con người, tồn tại không phụ thuộc vào hiện
thực khách quan.
Các nhà triết học duy vật lại có quan điểm hoàn toàn khác với quan

điểm duy tâm. Xê-nô-phan, nhà triết học duy vật cổ đại, cho rằng thần do con


7

người tạo ra, vì thế, con người như thế nào thì thần giống như thế. Còn đại
biểu kiệt xuất của nền triết học cổ điển Đức, Phoi-ơ-bắc, lại khẳng định:
“Không phải như trong Kinh thánh nói Thượng đế tạo ra con người theo hình
ảnh của mình mà là con người tạo ra Thượng đế theo hình ảnh của họ[37,23].
Trong tác phẩm “Bản chất của Kitô giáo”, Phoi-ơ-bắc chứng minh
rằng, hiểu một cách nhân bản, cái mà ý thức tín ngưỡng, tôn giáo quan niệm
là Thượng đế không phải cái gì khác hơn sự “phóng rọi” của chính bản thân
con người, với tư cách là loài, và được thể hiện bằng tư duy, bằng mong
muốn, bằng cảm xúc. Ông viết:
Con người suy nghĩ ra sao, tâm tư thế nào, thì Thượng đế của họ
đúng như vậy; con người có bao nhiêu giá trị thì Thượng đế của
họ cũng chỉ có bấy nhiêu, không hơn. Ý thức về Thượng đế là sự
tự ý thức của con người, sự nhận thức Thượng đế là sự nhận
thức của con người. Từ Thượng đế có thể suy ra con người, và
từ con người có thể suy ra Thượng đế của họ, hai thứ chỉ là một.
Cái mà con người cho là Thượng đế, đấy chính là tinh thần, là
tâm hồn của con người và cái gọi là tinh thần, là tâm hồn, trái
tim của con người, đấy chính là Thượng đế ... [38,103].
Như vậy, con người đã phản ánh bản chất thật của mình vào Thượng đế.
Sau khi đã thực hiện việc đó, Thượng đế không còn đồng nhất tuyệt đối với
bản chất con người nữa. Ở đây, Thượng đế trở thành một khách thể của con
người, thành một cái nằm ngoài con người, và đến lượt mình, con người
nhắm mắt phục tùng cái Thượng đế do họ đã sinh ra với một tinh thần hoàn
toàn thụ động.
Khác với Hê-ghen, nói đến sự tha hoá của “ý niệm tuyệt đối”, Phoi- ơbắc nói đến sự tha hoá của bản chất con người vào Thượng đế. Ông cho rằng,

bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện, cái
đẹp, nghĩa là muốn hướng tới những giá trị đẹp nhất trong một hình tượng


8

đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế, những cái đó con người không
đạt được, nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng Thượng
đế.
Nhìn chung, các quan điểm trên về tín ngưỡng do điều kiện lịch sử và
do lợi ích giai cấp đã có những hạn chế, thiếu cơ sở khoa học. Quan điểm
duy tâm cho tín ngưỡng là những hiện tượng thần bí, siêu thực, chỉ có thể
cảm nhận và tin chứ không lý giải được. Các nhà triết học duy tâm đã sai
lầm, vì họ đã lấy ý thức, tinh thần để lý giải một hiện tượng cũng thuộc lĩnh
vực tinh thần là tín ngưỡng, tôn giáo.
Quan điểm duy vật của Phoi-ơ-bắc đã chỉ ra nguồn gốc nhận thức của
tín ngưỡng, tôn giáo, góp phần đấu tranh chống các quan điểm duy tâm, tôn
giáo trong quan niệm về con người, về Thượng đế. Song, trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, Phoi-ơ-bắc chỉ phê phán một thứ
tôn giáo cụ thể là đạo Cơ Đốc. Còn tôn giáo nói chung, theo ông, vẫn là điều
cần thiết đối với cuộc sống con người, chỉ có tín ngưỡng, niềm tin mới an ủi
được chúng ta khỏi những nỗi bất hạnh trong cuộc đời con người. Mặc dù sự
an ủi đó là giả dối, là không có thật, nhưng theo ông, không thể làm gì hơn,
mà đành phải chấp nhận. Phoi- ơ- bắc chưa chỉ ra được nguồn gốc xã hội,
chức năng “đền bù hư ảo” và những mặt tiêu cực của tôn giáo, tín ngưỡng.
Vì vậy, ông đã rơi vào lập trường duy tâm trong việc lý giải vấn đề tôn giáo,
tín ngưỡng.
Để có cách nhìn khách quan, khoa học đối với hiện tượng tín ngưỡng,
cần có phương pháp tiếp cận khoa học, đó là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin

Quan điểm triết học mác- xít về tín ngưỡng
C. Mác khẳng định con người đã sáng tạo ra tín ngưỡng, tôn giáo chứ
không phải chỉ sáng tạo ra biểu tượng của tín ngưỡng, tôn giáo như các nhà
duy vật trước Mác đã thừa nhận. Tín ngưỡng, về bản chất, là sản phẩm của


9

con người sống trong những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá cụ
thể nào đó. Tín ngưỡng thuộc đời sống tinh thần của xã hội, phản ánh tồn tại
xã hội và chịu sự qui định của tồn tại xã hội. Chính con người đã thần thánh
hoá, khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên, tạo thành cái bản chất
khác mình và trở thành chỗ dựa cho chính mình.Vì vậy, Mác cho rằng, cần
phải “xuất phát từ con người trong hành động, hiện thực của họ mà chúng ta
mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của
quá trình ấy” [33, 37- 38].
Trong quá trình hoạt động của mình, C. Mác và Ph. Ăng- ghen đã chỉ
ra sản xuất vật chất là cơ sở của sự hình thành và phát triển của các hiện
tượng mang tính chất lịch sử xã hội, trong đó có tín ngưỡng, tôn giáo. Thời
đại C. Mác, Ph.Ăng-ghen sống, trong xã hội phương Tây, tín ngưỡng thường
được hiểu là tín ngưỡng tôn giáo, và cụ thể là tín ngưỡng Cơ Đốc giáo. Tuy
nhiên, trong quá trình nghiên cứu, C.Mác, Ph. Ăng-ghen đã đề cập tới vấn đề
tín ngưỡng tôn giáo ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong các hoàn cảnh lịch sử
cụ thể khác nhau, với các khái niệm tín ngưỡng, tín ngưỡng tôn giáo, tín
ngưỡng Cơ Đốc giáo. Các ông cho rằng, về cơ bản, tín ngưỡng không khác
gì thần linh, hai cái đều là tôn giáo đang ngự trị con người. Ở đây, tín ngưỡng
với hàm nghĩa tín ngưỡng tôn giáo [42,9].
Song, C. Mác, Ph. Ăng- ghen không dừng lại xem xét tín ngưỡng với
hàm nghĩa tín ngưỡng tôn giáo, các ông còn sử dụng khái niệm “tín ngưỡng
triết học” và “tín ngưỡng chính trị”.

Trong quá trình sử dụng khái niệm “tín ngưỡng”, dần dần C.Mác, Ph.
Ăng-ghen đã phá vỡ cách dùng quen thuộc với hàm nghĩa “tín ngưỡng tôn
giáo”. Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta”, C.Mác cho tự do tín
ngưỡng của giai cấp tư sản chẳng qua chỉ là các loại tự do tín ngưỡng tôn
giáo. Chính đảng của giai cấp công nhân muốn giải thoát con người ra khỏi
cái ma thuật của tín ngưỡng tôn giáo. Vì vậy, C.Mác, Ph. Ăng-ghen đã


10

khẳng định, tự do tín ngưỡng có nội dung rất rộng lớn. Người ta không chỉ có
tự do tín ngưỡng của tôn giáo này hay tôn giáo khác, mà còn có tự do tín
ngưỡng không tôn giáo, nghĩa là tự do tín ngưỡng vô thần.
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin chính là niềm tin của giai cấp vô
sản, là niềm tin khoa học, là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản và quần
chúng nhân dân bị áp bức. Trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, C.Mác,
Ph.Ăng-ghen cho rằng : “chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái
cần sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo.
Chúng ta gọi là chủ nghĩa cộng sản là phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng
thái hiện nay”[33, 51]. Theo C.Mác, vấn đề là ở chỗ phải tổ chức, giáo dục
giai cấp vô sản, làm cho họ có niềm tin vững chắc vào tương lai của xã hội
mới do chính họ tạo lên. Thực tế, đây chính là hình thức đi sâu vào lòng
người, trở thành lý tưởng và niềm tin của chủ nghĩa cộng sản.
Nếu các nhà triết học duy tâm lấy ý thức, tín ngưỡng tôn giáo để giải
thích lịch sử, coi tín ngưỡng, tôn giáo là phạm trù vượt qua lịch sử, lấy sự
thay đổi của tín ngưỡng, tôn giáo để phân định lịch sử nhân loại, thì các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác đã lấy lịch sử để giải thích tín ngưỡng và đi đến kết
luận khoa học: Tín ngưỡng cũng là một hiện tượng lịch sử, là sự phản ánh



11

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- Ph. Ăng - ghen (1995): Chống Đuy rinh (Mác-Ăng ghen. Toàn tập T.20.
Nxb Chính trị Quốc gia- Hà Nội- tr. 47; tr.437-438.
2- Toan Ánh (1997): Nếp cũ - tín ngưỡng Việt Nam (quyển thượng). NxbTP
Hồ Chí Minh.
3- Toan Ánh (1997): Nếp cũ - tín ngưỡng Việt Nam (quyển hạ). Nxb TP Hồ
Chí Minh.
4- Toan Ánh (1996): Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam. Nxb văn
hoá dân tộc, Hà Nội
5- Bandzeladze(1985): Đạo đức học ,tập 1. Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.215.
6- Phan Kế Bính (1995): Việt Nam phong tục. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
tr. 20-21
7- L.M. Cadiere (1997): Về văn hoá và tín ngưỡng truyền thống người Việt.
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội (Đỗ Trinh Huệ dịch),tr.40
8- Thích Minh Châu (1998): Lịch sử Đức phật thích ca. Giáo hội Phật giáo
Việt Nam trường Cao cấp Phật học cơ sở 2 ấn hành, TP Hồ Chí Minh,
tr. 119.
9- Công báo số 28, ngày 31/07/2000, tr. 1887.
10- Phan Đại Doãn (1998): Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam , Nxb chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr .141-142.
11- Nguyễn Đăng Duy (1996): Văn hoá tâm linh, Nxb Hà Nội,tr.184.
12- Nguyễn Đăng Duy (2001): Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
13- Đảng cộng sản Việt Nam (1991): Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
TKQĐ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 63.
14- Đảng cộng sản Việt Nam (1996): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc



12

lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội, tr. 14; tr.55.
15.1 - Đảng cộng sản Việt Nam (1998): Chỉ thị số 27, CT/TW về việc thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang lễ hội Hà Nội.
15.2- Đảng cộng sản Việt Nam (1998): Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCH TW
khoá VIII. Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội, tr. 60.
16- Đảng cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội, tr.89; tr.208.
17- Đảng cộng sản Việt Nam (2003): Văn kiện Hội nghị TW lần thứ 7 khoá
IX. Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội, tr .52.
18- Phạm Văn Đồng (1994): Văn hoá và đổi mới. Nxb Chính trị Quốc gia Hà
Nội, tr. 75.
19- Trần Văn Giàu (1996): Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến cách mạng tháng Tám. Tập 1, (Hệ ý thức phong kiến và sự
thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr. 169.
20- Nguyễn Duy Hinh (1996): Tín ngưỡng Thành Hoàng làng Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
21- Đỗ Trinh Huệ (2000): Văn hoá- tín ngưỡng gia đình Việt Nam qua nhãn
quan học giả L. Cardiere. Nxb Thuận Hoá, Huế.
22- Hiến pháp Việt Nam (1995): Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,tr.10;tr.39;
tr.159.
23- Đỗ Quang Hưng (1999): “Tôn giáo tín ngưỡng trong đời sống văn hoá
hiện đại”, Cộng sản ( 15), Hà Nội, tr. 24-27.
24- Vũ Ngọc Khánh (1994): Tín ngưỡng làng xã, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà
Nội.
25- Vũ Ngọc Khánh (2001): Tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Nxb Văn hoá
dân tộc, Hà Nội.



13

26- Hồ Liên (1997): “Chủ nghĩa Mác phê phán cái thiêng tôn giáo”. Thông
tin lý luận, ( 2), Hà Nội, tr .11-16.
27- Nguyễn Đức Lữ (2000): “Thờ cúng tổ tiên một hiện tượng có tính phổ
biến”, Sinh hoạt lý luận, ( 1), Hà Nội, tr. 56-59.
28- Hồ Chí Minh (1995): Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.479.
29- Hồ Chí Minh (1995): Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.221.
30- Hồ Chí Minh (1996): Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.70.
31- Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
tr.94
32- Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.503-504
33-. C. Mác- Ph. Ăng ghen(1995): Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr.37-38;51.
34- C. Mác- Ph. Ăng ghen(1995): Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr.445
35- Nông Đức Mạnh (2000): “Hướng về cội nguồn phát huy truyền thống đại
đoàn kết dân tộc quyết tâm xây dựng bảo vệ Việt Nam XHCN”. Báo
Nhân dân, (16), Hà Nội.
36- Nguyễn Quốc Phẩm (1998): “Góp phần bàn về tín ngưỡng dân gian và
mê tín dị đoan”, Văn hoá nghệ thuật, (11), Hà Nội, tr. 11-13.
37- L. Phơ Bách : Những bài giảng về bản chất của tôn giáo (bài 20-bản
đánh máy tiếng Việt của thư viện HVCTQG Hồ Chí Minh- ký hiệu
VII-1), tr. 23

38- L. Phơ Bách: “Bản chất chung của tôn giáo” trong Về tôn giáo, Tập 1,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1994, tr.103.


14

39- Phạm Quỳnh Phương (2000): “Thờ cúng tổ tiên- tín ngưỡng và đạo lý
dân tộc”, Văn hoá nghệ thuật, ( 2), Hà Nội, tr. 43-47.
40- Lê Xuân Quang (1996): Thờ thần ở Việt Nam, tập 1+ 2, Nxb Hải Phòng.
41- Phạm Ngọc Quang (2000): “Vai trò tín ngưỡng dân gian trong đời sống
tinh thần của người Việt Nam” trong “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng
dân gian ở Việt Nam” . Nhà in HVCTQG Hồ Chí Minh - Trung tâm
khoa học về tín ngưỡng, tôn giáo .
42- Lưu Kiến Quân (1997): “Quan niệm về tín ngưỡng của C. Mác- Ăng
ghen”, Thông tin lý luận, ( 3), tr. 9-10.
43- Trần Đăng Sinh (1998): “Bước đầu tìm hiểu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Hoạt động khoa học, ( 8), Hà Nội,
tr.27-28.
44- Trần Đăng Sinh (2000): “Tín ngưỡng và tôn giáo- những điểm tương
đồng và khác biệt”. Nghiên cứu lý luận,( 1), tr. 52-54.
45- Trần Đăng Sinh (2002): Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tr.32-33; tr.34
46- Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng
khoá IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.121-122.
47- Hồ Sĩ Tân: Thọ Mai Gia Lễ (bản dịch viết tay). Tư liệu Học viện Phật
giáo Việt Nam tại Hà Nội.
48- Ngô Hữu Thảo (1997): “Góp phần tìm hiểu các khái niệm tôn giáo và tín
ngưỡng”, Thông tin lý luận,( 10), Hà Nội, tr. 39-42.
49- Ngô Đức Thịnh (1996): Tín ngưỡng và văn hoá dân gian. Đề tài cấp Bộ,

Viện Văn hoá dân gian, Hà Nội, tr .50-51.
50- Ngô Đức Thịnh (1999): “Tín ngưỡng tôn giáo hai mặt của một vấn đề”,
Tư tưởng văn hoá , (4), Hà Nội, tr.19-20.


15

51- Tôn giáo và đời sống hiện đại (1997): tập 1. Thông tin khoa học chuyên
đề, Hà Nội
52- Tôn giáo và đời sống hiện đại (1997): tập 2. Thông tin khoa học chuyên
đề, Hà Nội.
53- Tôn giáo và đời sống hiện đại (1997): tập3. Thông tin khoa học chuyên
đề, Hà Nội.
54- Nguyễn Tài Thư (1997): Nho giáo và Nho giáo ở Việt Nam, góc nhìn từ
tín ngưỡng và vai trò lịch sử , những đặc điểm cơ bản của một số tôn
giáo lớn ở Việt Nam(Thông tin chuyên đề).HVCTQG Hồ Chí Minh,Hà
Nội, tr.144
55- Nguyễn Tài Thư (1990): Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa
học

xã hội, Hà Nội, tr .182.

56- Hà Huy Tứ (1999): “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người
Việt”, Văn hoá nghệ thuật, ( 2), tr. 48-49.
57- Từ điển Tiếng Việt (1999-2000): Nguyễn Văn Đạm, Nxb Văn hoá thông
tin, Hà Nội, tr.823.
58- Từ điển Tiếng Việt (2001): Trung tâm từ điển học , Nxb Đà Nẵng, tr.711;
tr.921; tr.973.
59- Tô-ca-rev (1994): Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của
chúng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,tr.312-313.

60- Đặng Nghiêm Vạn (1996): Về tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr .315-316; tr. 317.
61- Đặng Nghiêm Vạn (1998): Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở
Việt Nam, (sách tham khảo), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
62- Đặng Nghiêm Vạn (1998): Bản chất và biểu hiện tôn giáo “. Triết
học(1), Hà Nội, tr.17-20.
63- Tân Việt (2001): Một trăm điều bàn về phong tục Việt Nam, Nxb Văn
hoá dân tộc, Hà Nội.


16

64- Nguyễn Hữu Vui (1993): “Tôn giáo và đạo đức nhìn từ mặt triết học”,
Triết học ( 4), tr. 43-47.
65- Nguyễn Hữu Vui (1990): Chủ nghĩa vô thần khoa học. Tủ sách trường
Đại học Tổng hợp, Hà Nội
66- Nguyễn Hữu Vui (1991): “Vai trò của tôn giáo cần được nhìn từ góc độ
triết học và xã hội học”. Tạp chí khoa học, ĐH Tổng hợp ( 6),
Hà Nội, tr. 1- 4.
67- Nguyễn Hữu Vui (1992): “Về vấn đề đánh giá vai trò của tôn giáo”. Triết
học ( 3), Hà Nội, tr. 29-32.
68- Nguyễn Hữu Vui và Trương Hải Cường (2003) : Tập bài giảng tôn giáo
học. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.34.
69- Nguyễn Hữu Vui (1995): “Thử cắt nghĩa về hiện tượng tôn giáo và tín
ngưỡng có chiều hướng tăng lên hiện nay”. Tạp chí khoa học, ĐHQG
Hà Nội ( 1), tr. 37-41.
70- Nguyễn Hữu Vui (2001): Đổi mới công tác lý luận về tôn giáo ở nước ta
hiện nay (Đăng trong kỷ yếu hội thảo khoa học kỷ niệm 55 năm cách
mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9). Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
71- Về tôn giáo (1994): tập 1. Viện nghiên cứu tôn giáo, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội, tr .46, 166.



×